Hồi 1
Cuộc hẹn ước tiêu hồn

Trời vừa mưa xong, mặt trăng trung thu đã nhô lên trên ngọn cây thông, chiếu sáng núi Thiên Mụ. Bỗng có một bóng người đang cưỡi sóng đi trên mặt nước, theo suối nước mà phi tới chân núi, rồi cứ như một đám mây lờ mờ nho nhỏ từ từ dâng lên, chỉ trong thoáng cái, bóng người ấy đã lên tới trên lưng chừng núi rồi.
Chỗ lưng núi Thiên Mụ này đầy dấy những đá dị hình mọc lởm chởm và thế núi lại dốc Vô cùng. Cái bóng người ấy vừa lên tới đó đã rú lên một tiếng rất thánh thót, giở thân pháp thần kỳ ra nhẩy lên trên cao hơn bốn trượng, giơ tay ra chụp luôn một sợi mây đang treo lơ lửng ở trên tuyệt vách.
Chỉ thấy hai tay người ấy lôi kéo chừng mười mấy cái, hình bóng của y đã phi thẳng lên trên một tảng đá nhô ra ở chỗ giữa hai cây thông dị hình. Nơi đây, không nói là người mà ngay cả cầm thú cũng không thể nào lên tới được.
Người ấy đưa mắt nhìn cảnh vật chung quanh một lượt rồi lẩm bẩm tự nói:
- Nay ta đến đây phó ước, mong làm sao rửa được mối sỉ nhục ba năm trước kia!
Thoạt tiên giọng nói của y hơi trầm, vẻ mặt u uất, nhưng nói đến câu cuối cùng thì giọng nói lại rất hào khí.
Một luồng gió mạnh thổi tới phá tan đám mây đen đang bay lơ lửng ở trên không, mặt trăng lại sáng tỏ như trước, nên người ta mới trông thấy rõ hình dáng và mặt mũi cua người nọ.
Thì ra người này là một thư sinh mặc áo dài trắng, mặt mũi rất anh tuấn, tuổi chừng hai mươi bốn, hai mươi lăm.
Chàng thư sinh áo trắng ấy ngửng mặt lên nhìn trăng một hồi, rồi lại rú lên một tiếng thực dài, tiếng vang ở những núi xung quanh vọng lại mãi mãi mới dứt, rồi bốn bề lại yên lặng như tờ, không có một phản ứng gì khác lạ cả.
Thư sinh trợn ngược đôi mày kiếm, ngạc nhiên nói tiếp:
- Đối phương là người có võ công cao siêu như vậy, có khi nào lại thất...
Chàng chưa kịp nói tới chữ "ước" thì mây đen ở đâu đã kéo tới che lấp hết mặt trăng, trời đất bỗng trở nên u ám. Sau mấy ánh chớp, tiếng sấm nổi lên kêu "ùm ùm" tức thì.
Nhờ có sấm chớp, chàng mới thấy trên tuyệt vách, ở chỗ cách mình chừng tám chín thước, đột nhiên xuất hiện một hang động tối om.
Thư sinh áo trắng kinh ngạc, nhưng chỉ hơi trợn ngược đôi lông mày lên, mặt lại kiêu ngạo và tủm tỉm cười ngay, chứ không còn thấy có vẻ gì là thắc mắc và hoài nghi như trước nữa. Chỉ thấy thân hình của chàng hơi rung động, người chàng đã bắn ngay vào cái hang động tối đen kia liền.
ở ngoài sáng vào trong chỗ tối tất nhiên chàng thấy tối thêm, phải đứng yên giây lát rồi mới đưa tay rờ vách hang, từ từ tiến vào bên trong. Qua hai chỗ đường rẽ, chàng đã thấy phía đằng trước có ánh sáng ngũ sắc thấp thoáng liền.
Khi tới gần chỗ có ánh sáng đó, chàng mới biết trên đỉnh hang có rất nhiều thạch chung nhũ tủa xuống, giữa những khe chung nhũ có rất nhiều lỗ hổng nho nhỏ thông ra bên ngoài. ánh sáng trăng chiếu qua những lỗ hổng ấy rọi vào trong hang. Nhờ có sự phản chiếu của những thỏi thạch chung nhũ nên ánh sáng đó mới biến thành màu ngũ sắc và chói lọi như vậy.
Chàng đi qua cái hang động tối om đấy liền tới một sơn cốc nho nhỏ. Trước khi ra khỏi cửa hang, chàng thấy phía trước mặt, trên vách đá có viết những hàng chữ sau:
"Bạn thực là người thành tín! Xin thứ lỗi, vì có việc bận, tôi không thể ra nghênh đón bạn được. Trên vách núi kia có ba cái hang động, khi ra khỏi cửa hang này bạn ngửng đầu nhìn lên trên vách sẽ thấy liền, rồi tùy ở sức lực của bạn, mời bạn vào bất cứ một hang nào cũng được." Thư sinh lắc đầu cười nhạt, khi ra khỏi cửa hang chàng quay đầu lại nhìn lên trên vách núi, quả thấy vách núi nơi đây thẳng tuột và bóng nhoáng như gương vậy, trên vách có ba cái hang: một cái cách mặt đất chừng ba trượng, một cái cách bốn trượng và cái sau cùng cách đến năm trượng.
Thư sinh tự thị khinh công của mình tuyệt đỉnh vội giở thế "Tiềm Long Đằng Hạc" (rồng lặn dưới nước bay lên hang hốc) phi thân lên trên cao trên năm trượng, rồi giở thế "Tỷ Yến Xuyên Liêm" (chim én tía xuyên qua tấm mành) xoay người một cái, đâm bổ luôn vào cái hang cao nhất.
Hang này rất nhỏ hẹp, chỉ đi lọt được một người mà trong hang lại tối om như mực, chàng vội vận thần công, dồn cương khí vào hai tay đẩy về phía trước để thử xem phía đằng trước và bên trong ra sao. Chàng nhận thấy bên trong rất rộng lớn nhưng không sâu lắm.
Thư sinh đã biết rõ tình thế của hang động này rồi, ngờ đâu mới bước được một bước trong hang bỗng có tiếng kêu rất kỳ lạ nổi lên liền. Tiếng kêu đó như long ngâm, như gấu gầm, như sài lang hú, như hổ tiếu, như rắn cắn xác, như sơn quỷ khóc đêm...
Mới nghe thấy tiếng kêu ấy thư sinh cũng phải hơi kinh hãi, nhưng chàng liền trấn tĩnh được ngay, và vẫn nghênh ngang tiến thẳng vào trong hang, vừa đi bụng vừa bảo dạ rằng:
"Dù đối phương có mai phục núi đao, rừng kiếm, mãnh hổ và độc xà đi chăng nữa, ta đã tới đây phó ước thì còn hãi sợ gì những cái đó mà không dám mạo hiểm?
Chàng đang nghĩ ngợi, trong hang động bỗng sáng tỏ như ban ngày. Chàng ngửng đầu nhìn lên trên đỉnh hang, chỗ có ánh sáng tỏa xuống, mới hay trên đó có khảm một hạt dạ minh châu. Không hiểu vừa rồi có vật gì mà che lấp hạt châu nên trong hang mới tối om không trông thấy gì và cũng không hiểu do ai đã thâu lại vật che lấp hạt châu ấy đi?
Hang động vừa sáng tỏ thì những tiếng kêu kỳ lạ vừa rồi cũng ngừng hẳn, bốn bề lại yên lặng như tờ ngay.
Lúc này thư sinh mới trông thấy rõ mình đang đứng ở trong một cái thạch thất chứ không phải là trong hang đá.
Thạch thất này rất rộng lớn, bốn bên vách bóng nhoáng như gương và còn khắc nhiều tượng người đồ giải các thế võ. Phía bên phải, chỗ gần vách, có một cái sập đá.
Trên đầu sập có treo một thanh kiếm rất cổ kính. Trên cái bàn đá vuông để ở cạnh sập có để một cái đàn thất huyền và một cái hộp đựng sách rất kỳ dị. Hộp ấy làm bằng một thứ ngọc mát lạnh trong suốt như thủy tinh, bên trong hộp đựng ba cuốn sách nho nhỏ trông thấy rõ mồn một.
Thư sinh từ từ đi tới trước bàn đá, nhìn kỹ ba cuốn sách để ở trong hộp, trống ngực bỗng đập rất mạnh.
Thì ra ba cuốn sách ấy là "Vô Vi Chân Kinh", một bộ sách về võ học rất quý mà người trong võ lâm ai ai cũng mong muốn chiếm được, và cũng là môn võ công đại khắc tinh của Tam Dương Thần Công của chàng.
Dị báu ở trước mặt, xung quanh không có một bóng người nào cả, nên chàng đã muốn chiếm lấy ba cuốn sách ấy. Nhưng tay chàng vừa đụng vào cái hộp ngọc, vội rụt ngay lại, mồ hôi lạnh toát ra và tự khiển trách thầm rằng:
"Ta, Ly Cấu Thư Sinh Tư Mã Ngạn, là một đại trượng phu lỗi lạc. Ba năm trước đây ta đã được võ lâm ban cho hai câu: "Đường đường quân tử. Nguy nguy xuất trần." Sao bây giờ ta vừa thấy lợi đã vong nghĩa ngay và còn định lấy đồ của người khác? Huống hồ đêm nay ta tới đây là để phó ước, chủ nhân của bộ sách này lại là người đính ước với ta! Chả lẽ ta đến đây chỉ mong để rửa sạch mối hận ba năm về trước mà lại còn muốn mang nhục để cho đối phương nhạo báng mình lần thứ hai nữa hay sao?" Chàng tự trách như vậy, tâm thần liền ổn định ngay, và lúc này chàng mới trông thấy dưới cái hộp còn có một tờ giấy. Chàng vội rút tờ giấy ấy ra xem, thấy bên trên viết những chữ sau:
"Bạn thực là người tài cao nên mới vào thạch thất này. Vì vậy đặc biệt xin tặng thanh kiếm cổ kính, và mời bạn tiến lên một bước nữa!
Chữ viết rất đẹp, nét bút nhỏ nhắn, hiển nhiên chủ nhân của thạch thất này, ngoài võ công rất cao siêu ra, lại còn tinh thông văn học nữa.
Tư Mã Ngạn đọc những dòng chữ đó rồi liền nghĩ bụng:
"Thạch thất này chỉ có một lối vào, còn ba mặt là vách đá, không thấy có thêm cửa ngõ gì hết, sao y lại bảo ta tiến thêm một bước nữa làm chi?" Chàng vừa nghĩ vừa đi đến chỗ sập đá, nghe theo lời dặn bảo của tờ giấy, giơ tay ra cầm lấy thanh bảo kiếm của đối phương tặng cho. Ngờ đâu chàng vừa cầm kiếm vào tay, đã thấy người bị thụp xuống một cái hố tối om Vô biên.
Tư Mã Ngạn vội vận chân khí để đề phòng, một tay cầm kiếm một tay giơ lên trước ngực để bảo vệ, và định tâm, hễ thấy sự quái dị không cho là quái dị, nghĩa là chàng đã quyết định, dù có trông thấy hay gặp phải tình cảnh quái dị đến đâu cũng bất chấp.
Đồng thời chàng nhận thấy hòn đá mình đang đứng là một thạch trụ hình tròn, có thể thăng giáng được. Chờ tới khi hòn đá ấy ngừng hẳn và bỗng tung mạnh một cái sang phía bên phải, chàng theo đà nhảy sang một thạch thất khác.
Hang động vừa rồi mới là thạch thất, mà thạch thất bên này nên gọi là hang động thì đúng hơn, vì thạch thất này trên đỉnh thì tròn và rất sâu, lại có đường ngách, dưới chân toàn là đất cát Chàng thấy phía đằng trước có một chút ánh sáng rọi tới, đồng thời lại có tiếng kêu rên vọng tới nữa. Tiếng kêu rên này giống như tiếng của một con thú kêu rú vậy.
Lòng hiếu kỳ thúc đẩy, Tư Mã Ngạn không kịp thưởng thức thanh kiếm cổ vừa mới được người ta tặng cho, mà tiến thẳng về phía có tiếng kêu rên kia liền. Chàng vừa ngoẹo sang bên, đã thấy một cục diện rất quái dị hiện ra trước mắt.
Thì ra phía trước mặt chàng có một con phí phí (một loại khỉ đột đầu giống như chó, có một tên riêng là cẩu đầu hầu) lông vàng, đang bị treo ngược ở trên đỉnh động, hai vai của nó còn bị đóng bằng hai cái xương đầu người trông rất ghê tởm. Hai cái xương đầu người ấy vẫn còn dính đầy máu và thịt, mà thịt bám trên xương chưa thối nát, nên trông lại càng rùng rợn hơn là trông thấy sọ người. Hai hàm răng của hai cái xương đầu người ấy cắn chặt vào hai vai của con phí phí lông vàng, có lẽ vì thế mà con cẩu đầu hầu này đau đớn chịu không nổi, nên nó cứ kêu rên luôn luôn là thế.
Nghe thấy tiếng chân của Tư Mã Ngạn đi tới, con phí phí gượng ngửng đầu lên nhìn, hai mắt nó lộ vẻ van lơn cầu khẩn, trông rất tội nghiệp.
Tư Mã Ngạn để ý nhìn xem chỗ cổ của con cẩu đầu hầu, mới hay nơi đó còn treo một miếng trúc giản trên có viết chữ. Chàng liền tới gần, lấy miếng trúc giản đó xuống xem. Thì ra những chữ trên đó khắc bằng vật bén nhọn. Những chữ đó như sau:
"Đường đường quân tử. Nguy nguy xuất trần, dù ở trong phòng tối cũng không tự lừa dối mình và không tham lam lấy vật báu của người. Phí phí bị hình phạt tự mang tội vào thân, nếu bạn cứu nó sẽ bị họa ngay, mong bạn cẩn thận, đừng có ra tay cứu giúp nó, làm một việc nhân nghĩa Vô ích.
Tư Mã Ngạn cau mày lại, nghĩ bụng:
"căn Cứ vào những việc ta đã thấy từ lúc tới núi Thiên Mụ này đến giờ, việc gì cũng linh nghiệm như lời để lại của kẻ địch thủ. Như vậy, nếu ta ra tay cứu con khỉ đầu chó này chắc sẽ bị tai họa cũng nên?" Nghĩ như vậy, chàng lại đưa mắt nhìn con phí phí, trông nó rất tội nghiệp, chàng càng thương nó thêm.
Lòng trắc ẩn thúc đẩy, chàng không còn nghĩ ngợi đến vấn đề cứu nó sẽ bị tai họa nữa. Chàng vội vận nội công, nhằm cái xích treo con thú kia tấn công luôn một chưởng.
Ngờ đâu chưởng lực của chàng vừa đánh trúng sợi dây xích ấy một cái, con phí phí đã kêu la thảm khốc luôn mồm và người nó đu đi đu lại như là đánh đu vậy, mà sợi dây xích treo nó vẫn nguyên lành như thường.
Chàng vừa kinh ngạc vừa hổ thẹn, vội nhìn kỹ sợi dây xích ấy, mới hay nó làm bằng dây thép với gân rắn, chứ không phải bằng đồng hay bằng sắt. Chàng biết thứ thiết tuyến xà cân này chỉ có Đế Vương thảo đặc sản ở tuyệt đỉnh núi Côn Luân và Tam Dương Thần Công của mình, còn ngoài ra trên thế gian này không có vật nào có thể luyện hóa nổi dây xích ấy. Lúc đó trong thâm tâm chàng bỗng có hai suy nghĩ nổi lên:
Một là lời dặn bảo của đối thủ ghi trên trúc giản, và một suy nghĩ nữa là mấy câu ca dao của giới võ lâm khen ngợi chàng: "Tam Dương Thần Công cái thế Vô thất, Đường đường quân tử Nguy nguy xuất trần." Hai suy nghĩ ấy cùng nổi lên một lúc ở trong trái tim chàng. Nhưng chỉ trong thoáng Cái thôi, suy nghĩ thứ nhất đã bị suy nghĩ thứ hai lấn át hết.
Tư Mã Ngạn cười khì một tiếng rồi lẩm bẩm nói:
- Họa phúc Vô môn do con người tự gây nên, ta sợ gì những tai họa kia mà không ra tay cứu con phí phí Vô tội này?
Chàng vừa nói vừa giở Tam Dương Thần Công, bình sinh tuyệt học của mình ra, dồn vào hai bàn tay và nắm chặt lấy sợi thiết tuyến xà cân se đi se lại mấy cái, sợi dây ấy đứt liền. Chàng lại thuận tay đập vỡ hai cái sọ người đang đóng chặt ở trên vai con thú.
Con phí phí mừng rỡ khôn tả, vội quỳ xuống trước mặt chàng mà vái lạy hoài.
Chàng tủm tỉm cười, xua tay ra hiệu bảo nó đừng vái lạy nữa, nhưng vì lời dặn bảo của chủ nhân ám ảnh, chàng vẫn phải đề phòng luôn luôn, chỉ sợ con thú nổi hung là mình bị mang họa ngay. Rồi chàng từ từ đi thẳng vào trong hang động, qua hai đường ngách đã tới cửa hang sâu liền. Chỉ có tiếng rú rất vui mừng của con phí phí thỉnh thoảng vọng ra thôi, chứ ngoài ra không có một tiếng động hay một sự gì khác lạ xảy ra hết. Lúc này chàng mới biết đối phương bố trí như vậy là muốn thử lòng trắc ẩn của mình.
Cửa động bị một tảng đá lớn bịt kín, chỉ để hở một cái lỗ rộng chừng hơn thước. Nhờ vậy ánh sáng trăng sao bên ngoài mới ló vào được. Chàng vội vận thần công giơ chân lên đá mạnh một cái, tảng đá kia đã đổ xuống liền.
Lúc ấy mây đã tan, ánh sáng trăng chiếu xuống sáng như ban ngày, nhất là trăng đêm Trung Thu lại càng tỏ thêm. Chàng lại thấy trên tảng đá lớn có khắc mấy hàng chữ, bút tích như những chữ mà chàng đã thấy:
"Bạn là một người rất nhân đức, nhưng lòng nhân đức có thể làm cho người ta mất trí khôn. Nếu bạn không tin cứ thử vào các trận hoa ở phía trước mặt sẽ thấy rõ." Tư Mã Ngạn đọc xong những dòng chữ ấy, rùng mình đến thoắt một cái, trong lòng kinh hãi Vô cùng.
Chàng kinh hãi vì những chữ khắc trên tảng đá đã mọc rêu rồi, chứ không phải bởi sự hăm dọa của chủ nhân đâu.
Khi mới vào trong thạch thất ở bên trên để phó ước, chàng chắc đối phương thể nào cũng núp trong bóng tối theo dõi mình để thao túng mọi hành động, nhưng bây giờ chàng thấy chữ khắc ở trên đá đã mọc rêu, chàng mới hay tất cả mọi việc đều do đối phương đoán biết chứ không phải thao túng mình hiện thời.
Chàng đứng ngẩn người ra giây lát, bỗng ngửi thấy có mùi hoa thơm đưa tới. Chàng vội ngửng đầu lên nhìn, mới hay phía đằng trước là một cánh đồng ở giữa sơn cốc, mà bốn bên tứ phía đều có vách núi cao chót vót bao vây, giữa cánh đồng có trồng mấy trăm cây hoa quế cổ thụ.
Chưa đi tới gần rừng quế, chàng đã nhận xét thấy những cây quế ấy trồng theo toàn cơ diệu lý của nhật nguyệt tinh thần.
Tư Mã Ngạn rất thông thạo về môn sinh khắc và âm dương biến hóa này, nên chàng không do dự gì cả, thủng thẳng tiến vào trong rừng quế bố trí theo trận pháp ngay.
Chàng cứ theo phương pháp: đi ba bước tránh sang ngang bốn bước. Đi bẩy lần như thế lại quay ngược trở lại một vòng.
Nhờ hiểu biết cách bố trí trận pháp nên chàng cứ ung dung tiến bước không bị cản trở chút nào. Vì vậy vừa đi chàng vừa ngâm nga ca hát, ra vẻ rất tự đắc. Sau vì mải ngắm trăng đẹp quên cả diệu lý, nên chàng bỗng thấy bốn bề tối om, không còn trông thấy lối đi nữa. Thế là chàng đã bị trận hoa quế bao vây. Phải lần mò mãi, chàng mới đi tới một gốc cây quế cổ thụ và mới trông thấy vành trăng sáng. Chàng vội định thần và nhận xét trận pháp lại một hồi, mới tìm ra được lối thoát. Không bao lâu chàng đã ra khỏi rừng quế ấy và đi tới trước một cái hồ.
Hồ này không lớn lắm và giữa hồ lại có một cái đảo nho nhỏ, trên đảo trồng toàn trúc, giữa rừng trúc có ánh sáng đèn thấp thoáng ló ra.
Tư Mã Ngạn vội vận nội công và giở khinh công tuyệt đỉnh ra đạp trên làn sóng, đi thẳng tới giữa, rồi bước lên trên hòn đảo nọ.
Hình như đối phương không bố trí cạm bẫy hay những trò huyền diệu như trước nữa, nên chàng qua hồ tiến lên trên đảo không gặp một chuyện gì kỳ lạ cả. Chàng vào trong rừng trúc, mới hay giữa rừng là bãi đất rộng trồng rất nhiều hoa thơm cỏ lạ, và giữa những cây hoa lại có một căn nhà lá rất sạch sẽ.
Tư Mã Ngạn tủm tỉm cười và nghĩ bụng:
"Ta khổ nhọc luôn ba năm, không khác gì các tú tài đi ứng thi. Ta đã thi hương và thi hội xong rồi, bây giờ chỉ còn vào trong nhà này diện thi và diện kiến quân vương thôi.
Nghĩ tới đó, chàng cũng phải bật cười, rồi từ từ đi vào trong vườn hoa, tiến đến trước cửa, giơ tay lên khẽ gõ một tiếng. Ngờ đâu tay chàng chưa đụng vào cánh cửa, thì cánh cửa đó đã tự động mở toang ra ngay. Chàng vội lớn tiếng báo danh tính vọng vào trong nhà, và yêu cầu yết kiến chủ nhân để phó ước cuộc hẹn ba năm về trước.
Trong căn nhà lá ấy yên lặng như tờ, mãi mãi không thấy có tiếng người trả lời.
Chàng đành phải tiến thẳng vào bên trong.
Những đồ đạc bầy biện trong nhà này đều tao nhã thoát tục, như tủ đựng sách bằng đồi mồi, giá bút bằng san hô, bàn ghế với các thứ khác đều nhỏ nhắn xinh xắn, và trông có vẻ là một nơi khuê các.
Cảnh tượng của căn nhà này khiến chàng nhớ lại câu chuyện ba năm trước đây...
Một buổi sáng nọ, vào hồi ba năm trước, vì bảo vệ chính khí cho giang hồ, Tư Mã Ngạn đã một thân một mình lên núi Tiểu CÔ ở tỉnh An Huy để tiêu diệt tiểu trừ bọn hung ác. Bọn giặc ấy là Uyên Bắc Thập Tam Lang và Hoàng Sơn Tứ Hổ. Kết quả chàng đã giết chết sạch bọn Thập Tam Lang và đả thương nặng bọn Tứ Hổ.
Vì thấy anh em Tứ Hổ mới ra đời không lâu, tuy a dua với bọn Thập Tam Lang nhưng chưa gây nên mấy tội ác, nên sau khi đả thương chúng rồi, chàng chỉ khuyên bảo chúng một hồi rồi cho chúng đi. Ngờ đâu phía sau chàng bỗng có tiếng cười lạnh như băng vọng tới. Chàng giật mình kinh hãi, vội quay đầu lại nhìn, chỉ thấy một bóng người đi nhanh như điện chớp chạy thẳng về phía bờ sông.
Lúc ấy Tư Mã Ngạn hãy còn ít tuổi, tính rất nóng nảy, khi nào chàng chịu để yên cho người đó khinh miệt đùa cợt mình như thế, nên chàng quyết tâm phải đuổi theo cho được người nọ mới thôi.
Nhưng khi chàng đuổi tới bên sông thì không thấy hình bóng người kia đâu nữa?
Ba năm trước đây, Tư Mã Ngạn vẫn tự phụ khinh công tuyệt thế Vô song, không ngờ người nọ lại còn nhanh hơn chàng, nên chàng vừa hổ thẹn vừa tức giận khôn tả, cứ đứng ngẩn người ra ở bên bờ sông. Khi cúi đầu xuống, chàng ngẫu nhiên phát hiện trên một hòn đá ở chỗ trước mặt có viết mấy chữ, lời lẽ của những chữ đó kiêu ngạo ngông cuồng khôn tả. Đại khái ý nghĩa của những chữ đó chê võ công của chàng hãy còn non nớt, vì vậy người ấy mới không thèm đấu với chàng, và khuyên chàng nên học hỏi thêm, đến đêm Trung Thu ba năm sau hẹn chàng leo lên núi Thiên Mụ để quyết chiến với nhau một phen.
Xem xong những chữ đó, chàng ngửng mặt lên trời cười như điên như cuồng. Tuy vậy chàng vẫn quay trở về đóng cửa ở trong nhà khổ luyện luôn ba năm. Môn Tam Dương Thần Công của chàng đã luyện tới mức thượng thừa. Chờ tới ngày hôm nay, tức là ngày Trung Thu ba năm sau, và cũng là ngày giờ ước hẹn của người lạ mặt, chàng không quản ngại đường sá xa xôi, đến núi Thiên Mụ này để phó ước.
Chàng hồi tưởng lại chuyện cũ, hai mắt vừa chăm chú nhìn vào những đồ bày biện ở trong căn nhà lá ấy. Chàng càng nhìn càng kinh ngạc bụng bảo dạ rằng:
"Chẳng lẽ chủ nhân của căn nhà này đã khích bác ta, khiến ta phải tuyệt tích giang hồ ba năm, khổ công luyện tập võ công lại là một cân quốc kỳ nữ chăng?
Chàng càng nghĩ càng nghi ngờ, từ từ đi bước tới trước bàn sách, bỗng thấy trên mặt bàn có một lá thư dùng một cái thước ngọc đè lên. Chàng cầm cái thước ngọc lên, liền thấy bao thơ viết:
"Lưu giao Ly Cấu Thư Sinh Tư Mã Ngạn." Thấy vậy, chàng càng thắc mắc thêm, và nghĩ bụng:
"Sao chủ nhân nhà này lại viết hai chữ "Lưu giao" như thêm Chả lẽ y đã rời khỏi nơi đây rồi chăng?" Chàng vừa cau mày suy nghĩ vừa bóc lá thơ ra xem, thấy giấy thư màu xanh nhợt, trên viết chằng chịt những chữ, chữ nào cũng đoan chính Vô cùng, và nét bút rất nhỏ, không khác gì mỹ nữ dùng kim thêu chữ lên tờ giấy ấy vậy.
Lời lẽ trong thư không hiểu viết những gì mà khiến Ly Cấu Thư Sinh, một vị thiếu hiệp đa tình, cứ đứng đờ người ra như tượng gỗ vậy.
Trong thơ viết:
"Khi bạn đọc đến lá thơ này, thì bạn phải là một vị anh hùng cái thế, kiêm đủ Trí, Nhân và Dũng. Tôi rất là khâm phục và cũng không kém ân hận.
ân hận vì người tới đây là bạn chứ không phải là y. Nếu bạn là y thì tôi lại càng ân hận thêm!
Năm năm trước, tôi với y cùng ở nơi đây tu luyện diệu quyết của võ lâm, chỉ mong học hỏi thành công rồi cùng nhau sống những ngày giờ thần tiên có phải là sung sướng biết bao không! Ngờ đâu đó chỉ là một ảo tưởng! Bỗng dưng có một chuyện xảy ra làm cho chúng tôi phải chia rẽ.
Chuyện đó là y bị Thúy Mi Yêu Nữ dùng nhục dục quyến rũ khi lòng yêu trong sạch của y đối với tôi thay đổi ngay, rồi y cùng yêu nữ chạy trốn. Khi nào tôi chịu để yên cho chúng, nên đã đuổi theo để tìm kiếm.
Tôi đã đi khắp chân trời góc biển, đã đi mòn cả đôi hia sắt mà cũng không sao tìm thấy hình bóng của chúng. Trong mấy năm trời liền tôi đã bôn tẩu hàng vạn dặm Đông Tây Nam Bắc, vết chân của tôi đã in khắp mọi nơi nhưng kiếm không thấy tung tích của kẻ phụ bạc ấy. Hồi nghĩ lại chuyện xưa, tôi đành coi chuyện đó như một giấc mộng trong một đêm xuân vậy.
Đêm hôm trên núi Tiểu Cô, tôi thấy bạn một mình giết chết luôn mười ba tên Uyên Bắc Thập Tam Lang, đả thương nặng Hoàng Sơn Tứ Hổ, khiến tôi kinh hãi đến ngẩn người ra. Xin bạn chớ hiểu lầm, không phải tôi thấy võ học của bạn mà kinh hãi đâu, vì lúc ấy võ công của bạn quá yếu ớt, thực không đáng một cái cười. Sở dĩ tôi kinh ngạc là vì thấy bạn, cả mặt mũi, hình dáng và thái độ... đều giống tên phụ bạc kia, chỉ có tấm lòng là khác hẳn nhau thôi.
Dù sao người ta vẫn khác giống cầm thú. Vì những lý lẽ trên mà tôi dụ bạn đến bên sông để định cuộc hẹn ước đêm nay. Cũng vì thế mới khích bác được và khiến bạn ngày đêm khổ luyện luôn ba năm. Nhờ vậy võ công của bạn mới được tinh tiến đến mức độ này.
Trời có khi gió khi mưa, người có lúc sung sướng, lúc khổ sở. Tôi có ngờ đâu lại không chịu được gặp mặt bạn, nhưng dù sao tôi cũng cố hết sức bố trí được những việc mà bạn đã gặp gỡ.
Hai cái động ở phía trước là để thử khinh công của bạn, xem cách biệt ba năm khinh công của bạn có thể tiến bộ ngang với khinh công của y không?
Nhưng nếu y là bạn thì cuốn VÔ Vi Chân Kinh ở trong thạch thất y đã thuận tay lấy mất rồi. Vì bộ sách ấy là một bộ võ học hãn thế, người trong võ lâm ai cũng muốn chiếm được, vả lại y là người không liêm khiết gì. Nếu phẩm hạnh của bạn cũng như y mà bạn lấy bộ VÔ Vi Chân Kinh ấy, thì máy móc của tôi đã mai phục ở trong thạch thất thể nào Cũng phát động ngay. CÓ lẽ lúc bấy giờ bạn với cuốn võ lâm kỳ thư ấy đã cùng bị chôn vùi dưới đáy thạch thất rồi.
Tôi rất mong bạn không phải là y, chỉ có một tấm lòng giả dối và ác độc, cùng với chân tình muôn một của tôi cùng bị tận diệt ở trong núi Thiên Mụ này! Nhưng tôi lại càng mong y cải tà quy chính biến thành một người không chỉ giống ở bộ mặt và hình dáng như bạn thôi mà y còn phải giống cả tấm lòng quảng đại, bác ái và nhân nghĩa như bạn.
Con phí phí bị treo ở trong hang động là con thần thú canh gác hang động cho tôi. Vì nó lỡ giết hai người thường tục đi nhầm vào trong hang động này nên mới bị tôi trừng phạt như thế để cảnh cáo và còn muốn sợi dây Thiết Tuyến Xà Cân làm đứt được cái xương hung ác của trời sinh ra, để nó từ nay trở đi biết hướng thiện mà hành chính quả.
Nếu bạn là y, thể nào cũng quay đầu nhìn sang phía khác, bỏ mặc con thú ấy mà đi ngay. Nhưng dù sao bạn cũng là người nhân từ không thèm đếm xỉa tới lời cảnh cáo của tôi.
Bạn có biết không? Nếu bạn không là hiệp sĩ nhân nghĩa, không có lòng trắc ẩn dứt đứt sợi dây Thiết Tuyến Xà Cân như vậy, thì khi bạn đi qua cạnh con phí phí, sẽ bị một sợi dây gân sắt khác choàng lấy cổ mà treo bạn lên trên cao ngay.
Tôi rất mong người tới là y, thì xương cốt của tôi hóa thành tro bay lên trên trời, biến thành những ngôi sao đầy trời. Như vậy tôi có thể đêm đêm mở mắt ra nhìn y đang bị treo ở trên đỉnh đầu, xem bộ mặt nhơ bẩn nhơ nhớp của y lúc sắp rời khỏi hồng trần như thế nào, và trong lòng y sẽ đang nghĩ ngợi đến tôi, hay là Thúy Mi Yêu Nữ?
Trận pháp Thiên Hương Đơn Quế là của tôi ngẫu nhiên đã học hỏi được của một vị ẩn sĩ vào lúc tên phụ bạc đã bỏ tôi đi rồi. Trận pháp này tuyệt truyền đã lâu, rất thần diệu, trận có thể tùy theo ý muốn mà xoay chuyển. Người vào trong trận, võ công càng cao bao nhiêu thì oai lực của trận pháp càng lợi hại bấy nhiêu. Bạn có thể đi qua được một cách thuận lợi, như vậy đủ thấy trí tuệ của bạn giống y mồn một, nhưng chỉ khác là một người chính, một kẻ tà thôi!
Cho mãi tới giờ tôi vẫn còn tức hận y Vô cùng, nhưng vẫn không sao có thể quên được y Vấn đề này, nói ra tôi cảm thấy hổ thẹn lắm, nhưng nó cũng là thường tình của các phái nữ chúng tôi, nên cổ nhân mới có câu "Nam nhi đa bạc hạnh, hồng phấn tối si tình,, là thế.
Y phụ bạc tôi, bạn chưa biết tôi là ai, trời xanh thực khéo trêu ngươi! Tại sao ông trời lại không để cho y say mê Thúy Mi Yêu Nữ vào lúc trước khi quen biết tôi? Tại sao vào hồi năm ba tháng trước kia lại không để cho bạn với tôi...
Chúng ta kết giao với nhau vào lúc tôi đã chết. Tất nhiên bạn thế nào cũng rầu rĩ áy náy, nhưng quý hồ người trên trời, kẻ trần gian, tâm ý của nhau cùng tương thông là được rồi. Tôi chắc bạn thể nào cũng luyến tiếc cuộc ước hẹn "Tiêu Hồn" này lắm?
Sau cùng, tôi còn một việc này, yêu cầu bạn phải làm cho được. Việc này là bạn phóng hỏa thiêu hủy xác thịt của tôi ngay đi! Vì tôi không muốn hồng nhan tuyệt vời sẽ hủ hóa thành bộ xương trắng xóa." Lá thư dài như thế mà không hạ khoản, cho nên Tư Mã Ngạn không biết nàng ta là ai, và ai là y? Tuy vậy, chàng đọc xong lá thư ấy vẫn không sao cầm được lệ và còn khóc ướt cả tà áo Những giọt lệ anh hùng ấy của chàng bao hàm hai thứ tình tứ vì người, vì ta.
Tình tứ vì người, là chàng thương tiếc chủ nhân của căn nhà lá này uổng có tài hoa tuyệt vời, nhan sắc khuynh nước khuynh thành mà gặp kẻ phụ bạc nên mới có kết quả bi đát sầu thảm như thế! Tình tứ vì ta, là chàng lừng danh thiên hạ như thế mà lại bị thất bại trong tay một người đàn bà. Nhất là người đàn bà ấy đã chết rồi.
Công lực luyện tới mức độ cao siêu như Tư Mã Ngạn thì chả cần phải ra tay đấu thực sự với địch thủ, mà chỉ căn cứ vào một việc khác, cũng có thể phân biệt được tài cao thấp của đôi bên liền.
Đêm hôm ấy, kể từ khi Tư Mã Ngạn mới bước chân đến phó ước cho tới lúc này, bất Cứ hành động gì hay việc làm gì của chàng cũng đều bị chủ nhân ước đoán ra và biết trước cả. Tuy chàng đã vượt qua được mấy quan ải khó khăn và nguy hiểm thực, nhưng vẫn phải nhìn nhận đối phương cao hơn mình nhiều.
Chàng đang thương tiếc và rầu rĩ, bỗng giơ tay lên, dùng tay áo lau chùi sạch nước mắt, đôi ngươi cũng sáng ngời Vô cùng. Thì ra chàng đã nghi ngờ, không tin chủ nhân chết thực, và còn nghi đối phương làm như thế để đùa giỡn mình? Chàng chỉ e trong lúc hai mắt đang lúc đẫm lệ, bên trong bỗng có một đại hán râu xồm bước ra, lớn tiếng cười và nhạo báng mình là một anh chàng si ngốc, thì mình sẽ hổ thẹn biết bao?
Chàng vừa thắc mắc vừa đưa mắt nhìn lại lá thư để ở trên mặt bàn, vừa nghĩ lại câu chuyện rất uốn khúc éo le và bi đát ấy là sự thật một trăm phần trăm, chứ không phải là câu chuyện bịa đặt đâu?
Và những chữ viết trên lá thư thanh tú thơm tho ấy ắt phải là bút tích của một thiếu nữ.
Lòng hoài nghi ấy có một sức hấp dẫn rất mạnh, khiến chàng phải đánh liều giơ tay ra đẩy cái cửa nội thất, và khẽ vén rèm tấm mành trúc lên để xem.
Trước khi vén tấm mành trúc, chàng đã ngửi thấy một mùi thơm rất u hương từ bên trong đưa ra, nên chàng càng nhận định trong đó là nơi khuê phòng của thiếu nữ đã viết thư để lại chứ không sai.
Nhưng khi chàng mới vén tấm mành lên một cái đã khiến chàng phải thất kinh liền.
Thì ra bên trong bầy một bàn thờ, giữa bàn thờ có để một bài vị và hai cây nến đã sắp tàn Sau bàn thờ có tấm màn che phủ nữa. Chàng tiến tới gần, vén tấm màn ấy lên.
Ngờ đâu chàng vừa trông thấy cảnh vật bên trong đã vội lui ngay về phía sau mấy bước, mặt tỏ vẻ không vui, chắp tay vái chào và nói liền:
- Ly Cấu Thư Sinh Tư Mã Ngạn tới đây để phó ước, xin chủ nhân đừng có giở những trò giảo hoạt ra như thế nữa!
Thì ra chàng vừa vén tấm màn lên, liền thấy một mỹ nữ đang ngủ ngon giấc, mặt nàng đẹp tuyệt, mớ tóc đen nhánh phủ xuống hai bên vai, mồm tủm tỉm cười, hai má lộ hai lúm đồng tiền, hai mắt nhắm nghiền, rõ ràng nàng đang ngủ say. Đồng thời hình như chàng còn nghe thấy tiếng thở rất nhẹ của nàng, và ngửi thấy mùi thơm rất thanh tao ở trong người nàng tỏa ra nữa.
Vì vậy, chàng mới cho rằng nàng ta đùa giỡn mình quá đáng, nên chàng mới hơi nổi giận mà lui ngay về phía sau, chắp tay chào và lên tiếng nói như thế.
Tuy chàng không vận dụng môn nội công Sư Tử Hống hay truyền âm nhập mật mà nói, nhưng chàng nổi giận, tất nhiên giọng nói phải lớn hơn lúc thường. Làn sóng tiếng nói của chàng cũng đủ sức làm cho ngọn đèn thắp kinh niên để ở trên bàn rung động đến suýt tắt ngỏm.