P9


Thay lời tựa

Tôi không biết phải gọi Hoàng Dung, tác giả cuốn sách này bằng danh hiệu gì. Về nghề nghiệp ông là bác sĩ, nhưng chức vị bác sĩ sẽ không làm cho giá trị cuốn sách này tăng lên một chút nào. Ông không phải là nhà văn, mặc dù thỉnh thoảng có viết đôi bài đăng báo. Ngay cả ông là tác giả thiên khảo cứu này, ông cũng không nhận là nhà biên khảo Có một điều chắc chắn: ông là một người ưa đọc sách, có thói quen ghi lại những gì ông rút tỉa được nơi những trang sách ông đã đọc.
Tôi biết Hoàng Dung từ khi chúng tôi còn thơ ấu. Trong sân trường trung học Nguyễn Trãi, lúc trường này chưa có trụ sở riêng, còn học nhờ tại trường Tiểu học Lê Văn Duyệt. Năm đó là năm 1957, tôi học Đệ Ngũ, Hoàng Dung dưới tôi một lớp. Chúng tôi là bạn chơi banh trong trường. Hai năm sau tôi rời Nguyễn Trãi lên Chu Văn An, một năm sau chúng tôi gặp lại nơi trường Chu Văn An cũ, sau lưng trường Petrus Ký.
Khi lên Chu Văn An, là học sinh Trung học đệ nhị cấp, chúng tôi ít giao thiệp vì không còn đá banh, đá cầu trong sân trường nữa.
Hơn mười năm sau gặp lại Hoàng Dung tại Pleiku. Ông đã là một bác sĩ quân y. Tuy là bạn thiếu thời, nhưng không phải đồng nghiệp nên thỉnh thoảng chúng tôi mới gặp nhau trong Câu lạc bộ sĩ quan quân đoàn, và đôi khi tệ hơn nữa là gặp nhau nơi bàn mạt chược. Dù gặp nhau ở nơi nào, ông cũng cho người khác thấy ông là người ít nói, lặng lẽ. Nhưng không một ai chối cãi được ông là một người tử tế. Ông tử tế với bạn là chuyện đương nhiên, ông tử tế với binh sĩ dưới quyền. Ông là một y sĩ tận tình săn sóc thương binh của ta và của dịch.
Thế rồi chúng tôi tan tác trong cuối mùa trận chiến. Đầu thập niên 80, gặp lại nhau trên xứ người. Hoàng Dung đang đi học lại. Ông mới tới Mỹ một thời gian ngắn, lại lao vào việc sách đèn để có thể đì hết con đường ông đã chọn, để tiếp tục tuân thủ lời thề Hyppocrate. Nơi xứ người thỉnh thoảng chúng tôi mới có cơ hội gặp nhau, khi thì tôi sang miền Đông, khi thì Hoàng Dung sang Cai cho đỡ nhớ không khí nước Việt.
Cách đây gần một năm, Hoàng Dung gọi điện thoại đến tôi, ông muốn tôi đọc hộ một tập bản thảo. Ông dứt khoát không hé lộ một chút gì về nội dung cuốn sách, chỉ vắn tắt một câu: “ông đọc hộ tôi coi nó có ra cái giống gì không” Buông điện thoại xuống tôi nghĩ tới Hoàng Dung, những đồng nghiệp của ông, và thế hệ di dân đầu tiên, mà trong đó có Hoàng Dung và cả tôi.
Rất nhiều người trong cộng đồng chúng ta, sau khi đã an tâm về vật chất, con người ta cần một món ăn tinh thần. Mỗi người đến với món ăn tinh thần này một kiểu. Có người thành nhà văn, nhà thơ. Có người thành nhạc sĩ, hoạ sĩ. Cũng không thiếu gì người trở thành ca sĩ trình diễn trong vòng thân hữu, trong những party mừng sinh nhật, kỷ niệm thành hôn hay trong các tiệc cưới. Có người trở thành những chuyên viên tranh đấu, có mặt trong năm bẩy đoàn thể, tổ chức. Có người không làm gì cả, chỉ ngơ ngơ ngác ngác nơi xứ người. Hoàng Dung không rơi vào những thông lệ trên. Dù nghĩ gì thì nghĩ tôi không bao giờ tưởng tượng được Hoàng Dung, người bạn thiếu thời, một quân y sĩ nhiều lương tâm, sống giản dị cho tới năm ngoài 40 mới lập gia đình, lại có thể rơi vào cái vòng lợi, danh luẩn quẩn. Suốt mấy ngày liền, tôi bị cuốn sách của Hoàng Dung ám ảnh. Đã có lúc tôi nghĩ là bạn tôi chắc là đang cơn quẫn trí, một mình lủi thủi một xó, thành ra viết văn làm thơ cho nó bớt buồn. Dù sao chăng nữa ở nhà viết bất cứ cái gì, cũng còn hơn mải mê trong những canh mạt chược, đắm đuối trong chỗ ánh sáng mờ ảo của vũ trường.
Cầm cuốn bản thảo trong tay, một lần nữa những suy nghĩ về bạn cũ lộn tùng phèo. Đó không phải là một tập truyện ngắn, không phải một tập thơ, tập nhạc. Đó là tất cả những gì Hoàng Dung đọc trong những khi nhàn rỗi, bởi vì ông làm việc cho một bệnh viện của một tỉnh nhỏ, thưa người. Tập bản thảo là kết quả của một thời gian dài cặm cụi, nghiền ngẫm, ghi chép. Hoàng Dung đặt tên cho cuốn sách của ông là: Trận chiến Đông dương hồi III. Bên dưới tên của cuốn sách có chua một hàng chữ: Chiến tranh biên giới Hoa Việt, Miên Việt 1979.
Ông đã từng là một nạn nhân của cộng sản, đã từng ở tù vài năm. Vừa mới thoát khỏi hàng rào trại tù, là ông nhắm hướng biển Đông xông tới. May thì đến được một bến bờ, không may thì thêm một mạng người chui vào bụng cá. Nào có xá kể gì, vì sinh mạng con người trong thời khoảng vừa tàn cuộc chiến, thật không khác gì sinh mạng một con kiến. Vài năm đầu tại Mỹ Hoàng Dung chúi đầu vào việc học. Ông chỉ thật sự đọc sách sau khi đã tốt nghiệp, đã thực tập và đã trở thành một y sĩ góp mặt với đời.
Sau giờ làm việc tại bệnh viện ông rảnh rỗi, mượn sách thư viện về nhà, xúc tìm nơi những trang sách, về một đề tài ông rất quan tâm: Đó là những trận đánh trong chiến tranh Đông dương hồi III. Hồi I là chiến tranh Việt Pháp cho tới 1954, hồi II là chiến tranh Nam Bắc Việt nam cho tới 1975, và hồi III là chiến tranh tại vùng biên giới, giữa các nước đã từng có thời là đồng minh trong những trận chiến Đông dương cũ.
Để có thể liên kết nhiều tài liệu, nhiều tác giả với nhau, ông nẩy ra ý định ghi chép lại. Ông ghi chú tất cả những điều gì cần ghi chú, sắp xếp cho thành từng chương sách, liên hệ cách nhìn của các tác giả, và rút ra cách nhìn của riêng ông. Nội dung tập bản thảo dầy hơn 200 trang, viết về các trận đánh biên giới xẩy ra năm 1979, giữa ba quốc gia đã từng có một thời là anh em, môi hở răng lạnh, đã từng là hậu phương lớn với tiền tuyến lớn: Campuchia-Việt nam-Trung hoa.
Chỉ mới ngốn được hai trang đầu, tôi biết là tôi đã bất gặp một cuốn sách đặt đúng vấn đề.
Tôi nhớ lại, trong khi trận chiến giữa Việt nam và Trung hoa đang xẩy ra khốc liệt, cũng như chiến tranh Việt nam và Campuchia tới giai đoạn một mất một còn. Không biết người Việt trong nước nghĩ gì, nhưng tại hải ngoại trong lòng người Việt ly hương là một mớ suy nghĩ hỗn độn. Chẳng lẽ lại ca tụng Trung quốc, kẻ thù truyền kiếp của dân Việt từ phương Bắc. Lại càng không thể cổ võ bạo quyền cộng sản trong nước, khi mà hàng trăm ngàn sĩ quan, công chức của miền Nam còn đang lê những tấm thân tàn trong các xó núi, góc rừng.
Thành thử trong khi cả nước từ Bắc chí Nam, bất kể đảng viên cộng sản hay là dân chúng, đang oằn người chịu đựng một cuộc chiến tranh khác, thì ngoài nước không một cá nhân nào, một tổ chức nào có một cái nhìn tương đối dứt khoát, đối với một tai hoạ mới đang diễn ra với anh em, ruột thịt đồng bào.
Hoàng Dung có mặt trong nước khi chiến tranh biên giới xẩy ra, nhưng người cộng sản có bao giờ thông tin cho dân chúng một cách trung thực. Cái mà ông đọc ở báo chí trong nước, chỉ là những mớ bùi nhùi chữ nghĩa, chỉ là những khẩu hiệu ca tụng chiến thắng rất kêu, hệt như những tiếng phèng la của những tay Sơn Đông mãi võ.
Ông muốn tìm hiểu việc gì đã đích thực xẩy ra. Do đó ngay khi điều kiện sinh sống cho phép, ông vùi đầu vào những cuốn sách của các nhà sử học, của các ký giả ngoại quốc đã viết về trận chiến tranh này. Nhân tiện ông ghi lại cho những bạn đồng tù của ông, hay bất cứ ai muốn tìm hiểu trận chiến này. Ông vẽ tại các cuộc chuyển quân của cả ba nước cộng sản tham chiến: Hoa, Việt, Miên. Ông cũng ghi lại những biến chuyển nhân sự, những con người trồi lên tụt xuống trong Chính trị Bộ Bắc Việt, hay trong Trung Nam Hải Bắc kinh, cũng như trong rừng già nhiệt đới Campuchia, để những người đọc ông, có thể hên kết những biến chuyển chính trị, xạ chiếu trên mặt trận quân sự như thế nào.
Cách ông viết giống như ông đã trình bầy luận án, do đó cuốn sách có một cái nhìn nhất quán, trình bầy sáng sủa mạch lạc, tài liệu tra cứu dồi dào, với những phụ bản cần thiết. Chỉ cần đọc chương chót cuốn sách, chương ghi chú sơ lược về các nhân vật cuốn sách nói tới, người đọc sẽ thấy cái cần cù của tác giả. Mỗi một nhân vật đều có một vài dòng tiểu sừ, ghi năm sinh, năm chết, giữ chức vụ gì, tại sao bị thanh trừng... Bảng danh sách này gồm có 166 nhân vật Việt, Hoa, Miên, Lào, Nga, Mỹ, Pháp. Tôi chọn thử một nhân vật:
Đinh Bá Thi: Tên thật là Ung Văn Chương, được Lê Duẩn nâng đỡ, nhờ bầy kế để Duẩn lấy người vợ thứ ba. Đại diện Việt nam tại Liên hiệp quốc sau 1975, bị triệu hồi năm 1978 sau một vụ án gián điệp. Có tin bị công an đặc biệt của Việt nam giết vì đã móc nối với Trung hoa”.
Một thí dụ khác: “Kayxon Phomvihan (AL): Tổng bí thư Đảng cộng sản Lào, sau 1975 làm Thủ tướng Lào. Tên thật không rõ, con của Nguyễn Trí Loan, một công chức người Việt tại Lào”.
Ông cũng thiết lập một danh sách 37 đại đơn vị của Việt nam, từ cấp Sư Đoàn trở lên, được thành lập trong thời điểm nào, và vùng hoạt động trong các trận đánh cùng với Trung quốc và Miên Cộng.
Đánh giá lại trận chiến này là một việc làm cần thiết cho người Việt lưu vong, bởi vì khi khối cộng sản tan thành mảnh nhỏ tại Đông Âu, và cả nước Nga, đã khai sinh lại nhiều quốc gia trên bản đồ thế giới. Trong việc khai sinh những quốc gia này, máu đã đổ không ít giữa những người có thời là đồng chủng, tại Nam Tư, cũng như tại Liên xô, huống hồ giữa hai sắc dân hoàn toàn khác biệt về ngôn ngữ cũng như chủng tộc giữa nòi Việt và nòi Hán, hay những oán thù chủng tộc giữa người Việt và người Khmer. Những tranh chấp lãnh hải trong vùng biển Đông, nơi lưu trữ một nguồn hơi đốt và dầu hoả, có thể không thua lượng dầu thô dự trữ tại bán đảo ả Rập. Số lượng tài nguyên này chưa biết có đủ tốt để khai thác kỹ nghệ không. Nhưng có thể nó sẽ là một liều thuốc nổ, khơi ngòi chiến tranh trong một vài năm tới.
Một cuộc chiến nữa có thể xẩy ra giữa các nước trong vùng Đông Nam Á là một điều khả tín.
Vì thế ước vọng khiêm nhường của Hoàng Dung, tác giả của cuốn sách này chỉ mong mỏi: Cuốn sách sẽ là bước đầu tìm hiểu các cỗi rễ, những căn nguyên, cũng như những yếu tố đã đưa tới chiến tranh giữa Việt nam và hai nước lân bang. Để nếu không giải quyết được thì cũng làm giảm đi sự nghi kỵ và lòng thù hận, hoặc tăng thêm sự cảnh giác về mối đe doạ thường trực của đất nước.
Hoàng Dung là một ngạc nhiên trong đời sống tôi. Biết nhau suốt 40 năm tôi chưa bao giờ có dịp nhìn ông thật kỹ. Cuốn sách cho tôi biết một điều: Có những con người bình thường mà chúng ta tiếp xúc hằng ngày, tưởng như đã hiểu, đã biết rõ về họ. Kịp cho tới khi có một việc không bình thường xẩy ra, mới là dịp để chúng ta biết con người đó đích thật nghĩ gì, làm gì?
Nếu như ông gửi tới tôi bản thảo một tập truyện ngắn, một tập thơ thì có thể ông sẽ là một “nhà văn y sĩ”, như một số cây bút, hay chua thêm chữ MD dưới tên tác giả mỗi khi viết bài. Nếu ông viết một tài liệu y khoa tôi đã không ngạc nhiên, mà tài liệu y khoa thì chắc chắn người nhận là các đồng nghiệp của ông. Tôi biết gì về thuốc men, về bệnh trạng, về cơ thể con người?
Đọc xong tập bản thảo, tôi biết ông là người như thế nào ông là một người học thức khoa bảng với cấp bằng ông hiện có, với nghề nghiệp ông đang làm, nhưng đồng thời ông cũng là trí thức. Chữ trí thức với nghĩa giản dị, khiêm tốn và đúng nghĩa nhất của danh từ này.
Xin thành thật cám ơn người bạn thuở thiếu thời, mà mãi tới 40 năm sau tôi mới có dịp nhận biết con người thực sự, ẩn sâu trong những công việc ông đã làm cho chính ông, cho bằng hữu, cho bệnh nhân. Bất kể bệnh nhân ấy là ai, làm gì, từ đâu tới
Xin cám ơn cuốn sách Chiến Tranh Đông dương III, tác phẩm đã soi tỏ cho tôi những điều tù mù tăm tối của hơn mười lăm năm trước.
Hoàng Khởi Phong
Ghi nhận của Hoàng Dung, bìa Khánh Trường, trình bày Cao Xuân Huy, Văn Nghệ xuất bản Califomioại xâm rồi nội chiến, và rồi cuối cùng, phe cộng sản chiếm ưu thế. Nhìn lại lịch sử hơn ba ngàn năm của Trung hoa, từ thượng cổ đến hiện đại, từ phong kiến đến cộng sản, ta thấy Trung hoa có hai đặc điểm: lòng tự cao và kiêu hãnh của một quốc gia lớn, có một nền văn minh lâu đời, và mối lo sợ bị những dân tộc lân bang dù nhỏ yếu hơn xâm lăng. Hai đặc điểm đó, thoạt xem có vẻ mâu thuẫn, nhưng đã khiến cho khuynh hướng bành trướng của Trung hoa lúc nào cũng tiềm tàng mạnh mẽ. Lòng tự cao của Trung hoa là một điều dễ hiểu. Trong khi ở châu Âu, từ buổi bình minh của lịch sử, các dân tộc Anh, Pháp, Ý, Đức, Nga... về dân số, văn hoá, kỹ thuật đều gần như tương đương. Trong một thời điểm nào đó, một trong những quốc gia đó có thể trở - nên hùng mạnh hẳn lên, nhưng theo thời gian, họ đều coi nhau như những đối thủ bình đẳng. Ngược lại, tại Đông Á, trong suốt hơn hai mươi thế kỷ, Trung hoa lúc nào cũng trội hơn bội phần về dân số, diện tích đất đai, văn hoá. Các dân tộc mà Trung hoa biết đến như Việt nam, Nhật bản, Cao Ly, Lào, Thái, Mông Cổ... đều là những dân tộc nhỏ yếu hơn. Với trình độ khoa học và hiểu biết địa lý hồi đó, họ mặc nhiên coi mình như trung tâm của vũ trụ, tự gọi tên nước là Trung quốc, triều đình gọi là thiên triều, vua là thiên tử, nhận mệnh trời không những để cai trị Trung hoa mà còn để nhận sự thần phục của các nước lân bang.
Tuy trong khoảng một trăm năm gần đây, Trung hoa đã trải qua nhiều thăng trầm, có những lúc bị liệt cường châu Âu xâu xé thảm hại, và thế giới cũng đã trải qua nhiều biến chuyển chính trị quan trọng, nhưng Trung hoa, với dân số đông đảo, đất đai to rộng, lịch sử một nền văn minh rực rỡ, có lẽ vẫn còn giữ nguyên quan niệm về vai trò đàn anh của mình, ít ra là với những nước trong vùng.
Như trên đã nói, tuy là một nước lớn, nhưng quốc gia nào cũng có những thời kỳ hưng thịnh hay suy tàn. Trung hoa đã luôn lo sợ bị các nước lân bang nhỏ yếu hơn xâm lăng. Từ hơn hai ngàn năm trước, mối sợ hãi “rợ Hồ” phương bắc đã trở nên một mối ám ảnh, khiến Tần Thuỷ Hoàng phải xây Vạn Lý Trường Thành dài hơn ba nghìn cây số để phòng thủ, nhưng trường thành này cũng không ngăn cản nối quân Kim, quân Mông Cổ, rồi quân Mãn Thanh đã tràn vào cai trị Trung hoa tổng cộng khoảng năm trăm năm, trước khi Trung hoa bị các cường quốc châu Âu và Nhật bản đến xâu xé thêm một trăm năm. Trung hoa chỉ có thể cảm thấy yên tâm sau khi đã xâm chiếm, sát nhập hay bất buộc các nước lân bang thần phục. Do tình trạng bất an đó, Trung hoa cứ mãi mãi muốn bành trướng lãnh thổ. Từ Trung Nguyên, Trung hoa đã sát nhập Thanh Hải, Tân Cương, Nội Mông, Liêu Đông, Hắc long giang... Diện tích lãnh thổ Trung hoa đã tăng gấp gần ba lần trong mười thế kỷ qua. Trong những năm gần đây, đảng cộng sản Trung hoa, trên con đường thực hiện giấc mơ thế giới đại đồng, vẫn không quên vị trí thiên triều cũ. Từ năm 1939, khi viết cuốn “Cách mạng Trung hoa và đảng cộng sản Trung hoa”, Mao Trạch Đông vẫn coi Việt nam như một nước chư hầu và đã viết “Sau khi đánh bại Trung hoa, các thế lực đế quốc xâm chiếm những nước chư hầu: Nhật chiếm Cao Ly, Đài loan, Ryukyu, Rescadores và Porl Arthur, Anh chiếm Miến Điện, Boutan, Hồng kông, Pháp chiếm An Nam...”. Năm 1953, họ tấn công và sát nhập Tây Tạng, trước kia là lãnh thổ bảo hộ, vào Trung hoa. Năm sau, họ in bản đồ quốc gia, trong đó lãnh thổ Trung hoa không những bao gom tất cả các quốc gia Đông Nam Á, mà còn lấn sang cả Ấn độ và Liên xô. Bản đồ năm 1973 của họ giành hết chủ quyền trên hầu hết các đảo trên biển Đông, cho nên ranh giới lãnh hải của họ đã chạy dọc theo bờ biển Việt nam xuống tới gần Indonesia và chạy dọc ngược lên gần đảo Lu-xong của Phillipines. Năm 1965, trong một buổi họp của Bộ Chính trị, Mao Trạch Đông đã tuyên bố: “Chúng ta phải lấy lại vùng Đông Nam Á, gồm Nam Việt nam, Thái lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore... Gió đông sẽ thổi bạt gió tây khi chúng ta thâu hồi được toàn vùng Đông Nam Á”. Năm 1974, lợi dụng cuộc nội chiến ở Việt nam, họ chiếm quần đảo Hoàng Sa. Thời gian gần đây, họ mưu chiếm nốt Trường Sa.
Việt nam, sau một ngàn năm Bắc thuộc đã chịu nhiều ảnh hưởng của Trung hoa từ chính trị, kinh tế đến văn hoá. Tuy nhiên, dân tộc Việt vẫn duy trì được một số đặc điểm riêng, trong đó có tinh thần độc lập. ảnh hưởng của Nho giáo về trung quân ái quốc chỉ làm tinh thần yêu độc lập đó thêm mãnh liệt.
Đối với Trung hoa, Việt nam như một miếng mồi khó nuốt. ĐốI với Việt nam, Trung hoa là một thực tế. Đó là một quốc gia đông dân, rộng lớn, đồi dào tài nguyên và luôn luôn có tham vọng đất đai. Vì thế, Việt nam một mặt lúc nào cũng sẵn sàng đấu tranh giữ độc lập, mặt khác luôn chịu nhún mình về hình thức để tránh chiến tranh. Sau mỗi lần đánh bại quân xâm lăng Trung hoa, Việt nam đều trả tù binh, cử sứ giả qua cầu hoà và triều cống. Bắt đầu thi hành chính sách này là Thập Đạo Tướng Quân Lê Hoàn người đầu tiên đánh bại quân Trung hoa trong thời tự chủ, sau đó là Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, và được vua Lê Thái Tổ giải thích nếu mình muốn giết tù binh thoả cơn tức giận một lúc, mà chịu cái tiếng muôn đời giết kẻ hàng, thì sao bằng để cho muôn vạn con người sống mà khỏi được mối lo chinh chiến đời sau. Quan niệm này được thể hiện rõ hơn khi vua Quang Trung nói với Ngô Thời Nhiệm nay nhà Thanh đã bị ta đánh một trận, tất lấy làm xấu hổ, chắc không chịu ở yên. Hai nước đánh nhau thì chỉ khổ dân. Vậy nên dùng lời nói khéo, để khiến cho khỏi sự binh đao”.
Tuy nhiên, trong khi kiên quyết chống lại mọi mưu toan thống trị của Trung hoa, Việt nam lại tìm cách áp chế các nước nhỏ láng giềng khác. Trong thời bình, các vua Việt nam cũng cư xử như thiên tử, bắt các nước nhỏ phải quy thuận và triều cống. Trong thời chiến, các vua Việt nam hưng binh chinh phạt, sát nhập đất đai. Cũng như Trung hoa, các vị vua Việt nam coi những vụ hưng binh chinh phạt đó như những hành động thay trời hành đạo, và việc đô hộ như một hành động khai hoá. Thái độ này được thế hiện trong bài ghi công vào bia đá của ông Nguyễn Trung Ngạn ca tụng việc vua Trần Minh Tông đi đánh Lào năm 1384”... Nước Lào nhỏ bé kia dám ngạnh vương hoá, cuối mùa thu năm Ất Hợi, vua thân đem sáu quân đi tuần cõi tây Thế Tử nước Chiêm Thành, Chân Lạp, Tiêm La và tù trưởng các đạo mán đều mang phương vật tranh nhau đến đón rước...”. Những chi tiết của bài ghi công đó có thể đã được phóng đại thêm, nhưng đã thể hiện thái độ của triều đình Việt nam đối với các dân tộc nhỏ lân bang.
Quan hệ lâu đời như thế giữa Việt nam và Trung hoa tồn tại cho đến thế kỷ thứ mười chín, khi Việt nam và Trung hoa đều bị các cường quốc châu Âu dòm ngó.
Năm 1882, khi quân Pháp đem quân đi đánh Bắc Hà, vua Dực Tông vẫn thiển cận sai người sang cầu cứu nhà Thanh. Tuy rằng lúc đó nước Trung hoa đang bị Anh, Pháp, Đức, Nhật... xâu xé thảm hại, triều nhà Thanh vẫn còn nuôi ý định xâm chiếm Việt nam. Tổng Đốc Lưỡng Quảng Trương Thụ Thanh dâng mật sớ về triều nói rằng “Nước Nam và nước Tàu tiếp giáp với nhau, mà thế lực nước Nam thật là suy hèn, không có thể tự chủ được nữa, vậy ta nên mượn tiếng sang đánh giặc mà đóng giữ các tỉnh thượng du”, triều đình nhà Thanh nghe lời sai quân sang giúp Việt nam đánh nhau với Pháp. Quân hai nước đánh nhau được hai năm thì hai bên ký hoà ước trong đó Trung hoa chấp thuận rút quân và công nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Việt nam. Hoà ước do Fournier và Lý Hồng Chương ký cũng phân định biên giới hai nước. Nhưng biên giới đó phần lớn chạy dọc theo những vùng rừng núi, được đánh dấu bởi những bia đá chôn cách nhau đôi khi đến năm mươi cây số, do đó rất mù mờ và rất dễ gây ra tranh chấp.
Sau khi triều đình nhà Thanh bị lật đổ, các phong trào đấu tranh giành độc lập của Việt nam cũng chịu ảnh hưởng hay có liên hệ với các phong trào cách mạng Trung hoa. Sau cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung hoa, ngoài Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học, các cán bộ đầu tiên của cộng sản Việt nam cũng lợi dụng chủ trương thân Nga của Tôn Dật Tiên để dùng đất Trung hoa làm địa bàn tổ chức và huấn luyện cán bộ. Những lớp học chính trị do Hồ Chí Minh tổ chức được các cán bộ cộng sản cao cấp Trung hoa như Bành Bái, Lưu Thiếu Kỳ đến dạy. Một số cán bộ Việt nam như Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, được gửi đi theo học trường võ bị Hoàng Phố. Các đại hội thành lập đảng, đại hội đảng lần thứ nhất đều được triệu tập ở Trung hoa. Trong những năm mà Quốc dân đảng Trung hoa còn mạnh, cộng sản Việt nam ở Trung hoa phải giấu chân tướng, ông Nguyễn Tất Thành ở Liễu Châu giả dạng làm người quốc gia, cặm cụi ngồi dịch cuốn Tam Dân chủ nghĩa, đổi tên Hồ Chí Minh theo tên của cán bộ Quốc dân đảng Hầu Chí Minh, và hết sức lấy lòng tướng Trương Phát Khuê, tư lệnh Đệ Tứ quân khu. Dưới quyền Trương Phát Khuê, có hai tướng Quốc dân đảng nhưng lại thân Cộng là Tiêu Văn và Ngô Trạch, nên các lãnh tụ cộng sản Việt nam được giúp đỡ và tự do hoạt động (Tiêu Văn năm 1949 ở lại lục địa đầu hàng Trung quốc, còn Ngô Trạch sau đó bị xử tử ở Đài loan)
Năm 1942, Hồ Chí Minh rời Liễu Châu, ra khỏi vùng trách nhiệm của Trương Phát Khuê thì bị bắt, Trung ương Đảng cộng sản Việt nam đã gửi một điện văn rất lễ phép và quỵ luỵ cho Tôn Khoa, Viện trưởng Viện Lập pháp Trung hoa như sau: “Đại biểu của chúng tôi là Hồ Chí Minh đi Trùng Khánh để dâng cờ tỏ lòng kính trọng Tưởng Uỷ viên trưởng, khi đi qua Tịnh Tây thì bị bắt, kính xin Ngài điện cho địa phương tha ngay”.
Hồ Chí Minh bị giam gần hai năm. Người can thiệp với chính phủ Trùng Khánh để xin tha cho Hồ Chí Minh là Nghiêm Kế Tổ, một cán bộ của Việt nam Quốc dân đảng, nhân can thiệp xin tha cho Nguyễn Tường Tam, đã nhân tiện xin luôn cho Hồ Chí Minh, nhưng thiện ý của Nghiêm Kế Tổ cũng không ngăn cản được việc cộng sản Việt nam tìm cách thanh toán hết những cán bộ Quốc dân đảng sau này.
Một năm sau, sau khi Hồ Chí Minh thành lập chính phủ ở Hà nội, quân Trung hoa kéo vào giải giới quân đội Nhật ở Bắc Việt. Để lấy lòng quân Trung hoa, Hồ Chí Minh một mặt tuyên bố giải tán đảng cộng sản Đông dương, thành lập chính phủ liên hiệp, bèn trong hối lộ Lư Hán và Tiêu Văn để chèn ép các đảng phái quốc gia. Những năm về sau Trung hoa chìm trong nội chiến Quốc Cộng, cộng sản Việt nam giành được chiêu bài kháng chiến, đã phải chiến đấu độc lập, vì lúc đó Liên xô đã đối xử với cộng sản Việt nam một cách thờ ơ, coi như không có.
Quan hệ giữa hai phong trào cộng sản Việt nam và Trung hoa bắt đầu gắn bó ngay sau khi cộng sản Trung hoa chiếm được toàn lục địa Trung hoa năm 1949. Việt nam muốn được sự giúp đỡ của Trung hoa, còn Trung hoa cũng muốn có một vùng trái độn an toàn ở biên giới phía nam, đồng thời cũng muốn tiếp tục giữ vị thế thiên triều và đàn anh cũ, nên đã hết lòng giúp đỡ cộng sản Việt nam về mọi mặt. Chỉ hai tháng sau khi cộng sản Trung hoa chiến thắng, Hồ Chí Minh đã cùng Trần Đăng Ninh đi Bắc kinh gặp Mao Trạch Đông xin giúp đỡ. Hồ Chí Minh được Mao hứa sẽ giúp đỡ toàn lực về mọi mặt chính trị, quân sự, ngoại giao.
Người đứng ra công khai phản đối đường lối cầu viện Trung hoa lại là tướng Nguyễn Sơn, tư lệnh Liên khu 4. Nguyễn Sơn từng theo học trường Hoàng Phố, là một trong mười tám tướng Hồng quân theo Mao chạy thoát tới Diên An. Năm 1945, Nguyễn Sơn bỏ Hồng quân Trung hoa về Việt nam, được bổ nhiệm tư lệnh Liên Khu Tư, thay Lê Thiết Hùng. Có lẽ dựa vào tư thế quân hàm tướng Hồng quân, ông là người duy nhất dám công khai bài bác Hồ Chí Minh, coi thường Võ Nguyên Giáp. Ông ta phản đối việc xin viện trợ của cộng sản Trung hoa có lẽ vì ông biết rõ về tham vọng bá chủ của Trung hoa. Nguyễn Sơn sau đó bị Hồ Chí Minh dèm pha và gửi trả về Trung hoa rồi chết ở đó.
Trung hoa đã tích cực giúp đỡ Việt nam ngay sau khi nắm chính quyền. Khi Hồ Chí Minh còn ở Trung hoa, Trung hoa công nhận chính phủ Việt nam dân chủ cộng hoà và can thiệp với Liên xô để Hồ Chí Minh được mời sang Moscow. Vì đây là lần đầu tiên được gặp thần tượng Stalin, Hồ Chí Minh đã rụt rè đến xin chữ ký. Vì bản tính đa nghi, ngay tối hôm đó, Stalin cho người đến lấy lại chữ ký của mình. Lúc đó, Liên xô không còn hy vọng đảng cộng sản Pháp sẽ thắng cử ở Pháp để lập chính quyền nên mới cùng các nước Đông Âu công nhận chính phủ của Hồ Chí Minh. Nhưng từ đó cho tới nhiều năm sau, Liên xô vẫn không dành cho Việt nam một sự giúp đỡ đáng kể nào.
Sự giúp đỡ lớn lao của cộng sản Trung hoa về tất cả mọi mặt trong những năm đầu tiên từ 1950, 1951... không những đã làm thay đổi cán cân quân sự của cuộc chiến tranh Đông dương thứ nhất mà còn gây nên một ảnh hường cực kỳ sâu rộng trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội... của tất cả những người dân Việt nam đang sống trong vùng Việt Minh kiểm soát, rồi từ đó lôi kéo đất nước vào một giai đoạn lịch sử sắt máu và đau thương triền miên. Có thể nói năm 1950 là năm đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong lịch sử Việt nam, là năm cộng sản Việt nam vứt bỏ mặt nạ Việt Minh, là năm về quân sự, đi từ giai đoạn bảo tồn lực lượng sang giai đoạn cầm cự, và về chính trị từ phản đế sang phản phong, tức là truy tìm kẻ thù ngay trong nhân dân và hàng ngũ của mình. Sự chuyển biến đó đã in hằn dấu vết ảnh hường của cộng sản Trung hoa.
Trước hết, về quân sự. Sau khi được Trung hoa hứa hẹn sẽ viện trợ dồi dào, Ngoại thương vụ nhỏ bé của Việt Minh trước kia chuyên môn mua súng đạn lậu được giải tán, thay vào đó là một Tổng Cục hậu cần do Trần Đăng Ninh đứng đầu được thành lập để trực liếp nhận và quản lý hàng viện trợ của Trung hoa. Với sự giúp đỡ đó, quân đội kháng chiến đã trưởng thành và phát triển, từ một đội quân nhỏ bé chuyên đánh du kích thành một đạo quân hiện đại, bước sang giai đoạn cầm cự và vận động chiến. Đánh dấu cho giai đoạn trưởng thành này cũng như sự hợp tác chặt chẽ thân thiết giữa hai phong trào cộng sản về phương diện quân sự là chiến dịch biên giới Cao Bắc Lạng.
Biên giới Việt Hoa là một biên giới dài khoảng một ngàn bốn trăm cây số, nhưng chỉ có vùng biên giới từ Cao Bằng tới Lạng Sơn là quan yếu nhất. Dọc theo biên giới đó là quốc lộ số 4, đến đầu năm 1950 vẫn do quân đội Pháp trú đóng. Chiếm được quốc lộ 4 là có thể kiểm soát được Cao Bằng và Lạng Sơn, nối liền chiến khu Việt Bắc với hậu phương lớn Trung hoa. Để sửa soạn cho chiến dịch, đại đoàn 308 của Vương Thừa Vũ vượt biên giới sang Trung hoa, để được trang bị, huấn luyện thêm về truyền tin, công binh, pháo binh... biến thành cấp sư đoàn. Một trong ngũ hổ tướng của Trung hoa là Trần Canh được gửi sang ăn ở cùng nhà với Hồ Chí Minh bàn thảo kế hoạch. Công tác tiếp vận được giao cho Vi Quốc Thanh, một tướng Trung hoa gốc người Nùng. Sau khi được huấn luyện và trang bị, sư đoàn 308 trở về nước, lần đầu tiên dùng vận động chiến phục kích đánh tan hai binh đoàn lê dương Charton và Lepage ở Đông Khê. Bị cô lập, quân Pháp phải rút khỏi Cao Bằng và Lạng Sơn. Sau sư đoàn 308, các đại đoàn 304, 312, 316 của Lê Quảng Ba cũng được giúp trang bị và tổ chức thành những sư đoàn chính quy. Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn được dời sang Vân Nam để các sĩ quan trung cấp Việt nam được các cố vấn Trung hoa huấn luyện về công binh, pháo binh, truyền tin... Họ được học về chiến thuật của Lâm Bưu như nhất điểm lưỡng diện”, “tứ khoái nhất mạn”. Chiến lược ba giai đoạn (bảo tồn chủ lực, cầm cự, tổng phản công), lấy nông thôn bao vây thành thị của Mao Trạch Đông cũng được Việt nam đề ra làm kim chỉ nam. Những sách của Mao Trạch Đông như Trì cửu chiến, Tân dân chủ luận cũng được Việt nam dịch và học tập.
Tuy nhiên sự giúp đỡ và ảnh hưởng của Trung hoa trong thời gian đó không những chỉ quan trọng về phương diện quân sự, mà còn quan trọng trong sự thay đổi bản chất của Đảng cộng sản Việt nam, và của quân đội Việt Minh. Song song với sự cố vấn và viện trợ quân sự của Trần Canh và Vi Quốc Khanh một đoàn cố vấn chính trị hùng hậu do La Quý Ba cầm đầu sang Việt nam để giúp Việt nam tổ chức đảng, chính quyền và quân đội theo khuôn mẫu cộng sản Trung hoa. Với hậu thuẫn Trung hoa, Việt nam không cần phải núp sau chiêu bài Việt Minh nữa, và bộ mặt thật cộng sản bắt đầu lộ diện. Tuy Đại hội Đảng vào tháng 3-1951 mới chỉ lấy tên đảng là Đảng Lao động Việt nam, nhưng ngay trong điều lệ đảng đã ghi rõ: “Đảng Lao động Việt nam lấy học thuyết Mác, Ăng ghen, Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông kết hợp với thực tế cách mạng Việt nam làm nền tảng tư tưởng...”. Ngoài việc học tập tư tưởng Mao Trạch Đông, trong dịp đó, Việt nam cũng xác nhận vai trò lãnh đạo và đàn anh của Trung hoa trong điện văn gửi cho Đảng cộng sản Trung hoa “Đảng Lao động Việt nam nguyện noi gương anh dũng của Đảng cộng sản Trung quốc, học tập tư tưởng Mao Trạch Đông, tư tưởng lãnh đạo nhân dân Trung quốc và các dân tộc Á Đông trên con đường độc lập và tự chủ” (báo Nhân dân ngày 11-3-1951).
Dưới sự hướng dẫn của phái đoàn cố vấn La Quý Ba, Việt nam đã biến đổi một phong trào mang nặng tính cách quốc gia, dân tộc thành một phong trào cộng sản. Sự chuyển biến đó là một quá trình sắt máu. Đại đa số những người theo Việt Minh hồi đó phát sinh từ lòng yêu nước, và bao gồm đủ mọi thành phần. Trong số này, những người xuất thân từ những gia đình địa chủ hay đảng phái quốc gia bị thủ tiêu hay khai trừ ngay. Một số nhỏ, xuất thân công nhân hay nông dân, tương đối ít học, dễ bị uốn nắn khuyến dụ để trở nên cuồng tín. đa số còn lại, theo cộng sản một cách lãng mạn, lý tưởng, chưa từng thể nghiệm thực tế sắt máu trong đấu tranh giai cấp đều phải tham dự những lớp chỉnh Đảng”... Điều này được xác nhận trong nghị quyết về Chỉnh Đảng như sau: Hơn chín mươi phần trăm đảng viên thuộc thành phần gốc rễ nông dân và tiểu tư sản, tuy đã vào Đảng, được Đảng giáo dục một phần nào, và tự bản thân cũng có ít nhiều cố gắng, nhưng chưa gột sạch ý thức tiểu tư sản...”. Cũng trong nghị quyết này, vai trò lãnh đạo của cộng sản Trung hoa trong việc uốn nắn các đảng viên cộng sản Việt nam lại được đề cao.”... cho nên xây dựng Đảng cốt chính là một quá trình giáo dục, đấu tranh và cải tạo tư tưởng. Đó là đường lối Mao Trạch Đông trong vấn đề xây dựng đảng”.
Khi tham dự các lớp Chỉnh Đảng, học viên được thanh lọc, thường xuyên bị theo dõi, kiểm soát, phê bình và cuối cùng phải làm tờ phản tỉnh, tự lố cáo rồi nhận hết tội lỗi có thật hay tưởng tượng để chứng minh là mình đã lột xác, đã đầu hàng giai cấp và thành khẩn chấp nhận sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Với biện pháp vừa đe doạ vừa khuyến dụ, trong một hoàn cảnh bị áp chế cả về thể xác lẫn tinh thần, đa số các cán bộ Việt Minh cuối cùng cũng bị khuất phục. Điển hình cho sự hữu hiệu của phương pháp này, là những lớp Chỉnh Đảng ở trường Lục quân Trần Quốc Tuấn, nơi đào tạo những cán bộ chỉ huy quân đội. Dù những cán bộ theo học đã được tuyển chọn kỹ lưỡng, chính uỷ của trường là Trần Tử Bình cũng báo cáo về Trung ương là có đến hơn bảy mươi phần trăm học viên đã nhận tội có hành động chống lại đảng và nhân dân, một số đã tự tử. Dù cuồng tín đến đâu Trung ương đảng cộng sản Việt nam cũng biết điều đó quá đáng, và phải cử Tổng Cục trưởng Tổng Cục Chính trị là Nguyễn Chí Thanh sang Trung hoa bắt Trần Tử Bình sửa sai, viên cố vấn Trung hoa của trường cũng bị gọi về Bắc kinh.
Sau các lớp Chỉnh Đảng, ngoài một số bị thanh toán, tự tử hay trốn về thành, đa số còn lại đã phải nhắm mắt trở nên một công cụ ngoan ngoãn, tuân theo mọi chỉ thị của đảng một cách mù quáng, và quân đội Việt Minh, một quân đội được tạo dựng để giải phóng quốc gia, giờ đây đã trở nên một đội quân cộng sản, nhằm một mục tiêu xa hơn là giải phóng toàn thế giới. Trận chiến thắng mở đầu Cao Bắc Lạng năm 1950 không còn là chiến thắng của Việt Minh, mà theo ông Hồ Chí Minh, đó là “một chiến thắng của xã hội chủ nghĩa”.
Song song với sự biến thể của quân đội, Đảng cộng sản Việt nam, với sự giúp đỡ và cố vấn của phái bộ La Quý Ba, đã hoàn toàn biến đổi nếp sống cổ truyền của nhân dân sống trong vùng Việt Minh kiểm soát. Việc thờ phụng tổ tiên bị đả phá, tôn giáo bị bài xích, gia đình bị đảo lộn, người thân thuộc tố cáo lẫn nhau. Ai không tích cực học tập, không a dua với chính sách đều bị điều tra, theo dõi, bị xếp thành phần, hay bị giam giữ, hành hạ. Những người không cùng chính kiến bị coi là phản động và bị thủ tiêu. Để có được sự tuân phục tuyệt đối của cấp dưới, các lãnh tụ được thần thánh hoá. Ngoài Hồ Chí Minh, “đại nguyên soái Stalin”, Mao Trạch Đông cũng được tôn làm thánh sống, và để tuân hành theo tư tưởng chỉ đạo của Mao Trạch Đông, chính sách cải cách ruộng đất của Mao được thi hành năm 1953, với sự giúp đỡ của các cố vấn Trung hoa. Chính sách này lại được phát động một cách quy mô hơn sau khi Việt nam chiếm được chính quyền miền Bắc. Trong đợt phát động này, hàng trăm ngàn cán bộ và nông dân đã bị xử tử, đấu tố, hay cầm tù một cách oan uổng. Mầm mống bất mãn của nhân dân lên cao đến nỗi đảng phải đổ lỗi cho một số cán bộ lãnh đạo như Trường Chinh, Lê Văn Lương, Hoàng Quốc Việt.
Sau hiệp định Geneva, chiếm được chính quyền ở miền Bắc, Việt nam đã cố gắng có một mối giao hảo tốt đẹp với cả hai nước cộng sản đàn anh. Tuy nhiên trong nhiều năm sau đó, đa số những nguồn viện trợ kinh tế cũng như quân sự cho Việt nam đều từ Trung hoa. Trung hoa đã giúp Việt nam những công trình xây cất, những nhà máy xay lúa, nhà máy điện. máy dệt, máy sản xuất đường, phân hoá học... Ngoài ra, toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng của bộ đội Bắc Việt và Việt cộng từ 1950 đến 1964 đều do Trung hoa cung cấp. Tính đến năm 1978, tổng số hàng viện trợ của Trung hoa cho Việt nam kể cả quân sự lẫn kinh tế lên đến hai mươi tỷ mỹ kim, chiếm 41 % ngân sách ngoại viện của Trung hoa.
Ngoài viện trợ về tiền bạc, vật chất, trong chiến tranh Đông dương thứ hai, từ 1965 đến 1970, Hồ Chí Minh đã yêu cầu quân Trung hoa sang giúp Bắc Việt nam xây dựng hệ thống cầu đường, sân bay, hệ thống phòng không. Một số khác trực tiếp sử dụng đại bác và tên lửa. Có khoảng một ngàn lính Trung hoa bị bắn chết ở Bắc Việt. Công ơn của Trung hoa đối với Việt nam đã được Hồ Chí Minh bày tỏ “Tinh thần quốc tế cao cả đó và tình thân ái của nhân dân Trung quốc đối với nhân dân Việt nam làm chúng ta rất cảm động và biết ơn”.
Tình hữu nghị “Việt-Trung-Xô đời đời bất diệt” không kéo dài được lâu. Sự rạn nứt giữa hai nước cộng sản đàn anh của Việt nam bắt đầu ngay từ năm 1956, sau khi Khrushchev lên nắm quyền, tố cáo tội ác của Stalin và chủ trương hoà hoãn với phương Tây. Là một đảng cộng sản đàn em, đang phải nhờ vả vào sự viện trợ của cả hai nước, cộng sản Bắc Việt bất lực nhìn hai đàn anh tranh chấp. Trong những năm đó, về ý thức hệ, Việt nam gần gũi hơn với Trung hoa. Đã lỡ thần thánh hoá Stalin, họ không dễ dàng đạp đổ thần tượng của họ. Họ cũng đang mở cuộc chiến tranh xâm chiếm miền Nam, nên không thể nào chấp nhận chủ trương chung sống hoà bình của Kroushchev. Hơn nữa, ảnh hưởng của Trung hoa đã lan rộng trong mọi mặt từ hình thức tổ chức đến tư tưởng của Việt nam, từ các chính sách đấu tố, trăm hoa đua nở, đến các bộ quần áo đại cán, các danh từ đồng chí, bí thư, uỷ viên... Vì thế, bài diễn văn của Kroushchev lên án Staline do phái đoàn Việt nam đi họp mang về bị giấu kín, chỉ cho các Uỷ viên Bộ Chính trị đọc. Các nhân vật có khuynh hướng thân Liên xô như Hoàng Minh Chính, Viện Trưởng Viện Triết học, Nguyễn Văn Vịnh, trung tướng, chủ tịch Uỷ ban thống nhất của Quốc hội, Đỗ Đức Kiên, đại tá cục trưởng cục tác chiến, Nguyễn Minh Nghĩa, đại tá cục trường cục quân báo... cùng một số cán bộ chính trị và quân đội khác bị ghép tội, bỏ tù hay bị mất chức. Tuy theo đuổi một đường lối thiên về Trung hoa, nhưng bề ngoài, Việt nam không thể bỏ lơi Liên xô, một siêu cường cộng sản đàn anh, một thánh địa. Vì thế mà Việt nam đã luôn cố gắng đứng trung lập trong cuộc tranh chấp Nga Hoa. Lúc đó, nếu báo Nhân dân có đăng bài về Cách mạng Tháng Mười thì bên cạnh đó, sẽ có một bài khác nói về cuộc Vạn Lý Trường Chinh với cùng một số chữ, và trong các cuộc tiếp tân, số quan khách của cả hai nước Nga Hoa được mời đều ngang nhau, cũng như số lượng rượu Vodka và Mao đài đem ra chiêu đãi cũng ngang nhau. Đi dự đại hội các đảng cộng sản ở Moscow, khi phái đoàn Trung hoa do Chu Ân Lai cầm đầu giận dữ bỏ về nước thì ông Hồ Chí Minh cũng bỏ phòng họp ra ngoài, nhưng chỉ ra đi dạo ở Moscow.
Sau 1970, nhiều diễn biến đã xảy ra khiến cho Việt nam ngày càng thiên về Liên xô, và Liên xô cũng chú ý nhiều hơn đến Việt nam. Lúc đó, Hồ Chí Minh vừa mới chết, Lê Duẩn lên nắm quyền. Trong số những lãnh tụ kỳ cựu của Việt nam, Lê Duẩn là người ít chịu ảnh hưởng của Trung hoa. Trước 1954, địa bàn hoạt động của Lê Duẩn luôn luôn là ở miền Nam, chưa từng phải lưu lạc sang Trung hoa, hay tiếp xúc với các cố vấn Trung hoa. Hơn nữa những đối thủ của Duẩn như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp đều chịu ảnh hưởng của Trung hoa nhiều hơn, nên Lê Duẩn mặc nhiên có khuynh hướng thân Nga. Đồng thời, tình hình biên giới Nga Hoa cũng như chủ thuyết Brezhnev biện minh cho sự xâm lăng các nước chư hầu cộng sản khiến cho Trung hoa bắt đầu coi Liên xô là kẻ thù số một, và xích lại gần hơn với Hoa kỳ. Ngoài ra, cuộc chiến ở miền Nam cũng như ở miền Bắc đang bước vào giai đoạn quyết liệt, Việt nam cần có những vũ khí tối tân như MiG 21, xe tăng T54, T55..., tên lửa SAM mà chỉ Liên xô mới có khả năng cung cấp. Cùng lúc đó, những diễn biến chính trị tại Trung hoa xảy ra đã khiến Việt nam bớt tin cậy vào Trung hoa, nhất là thời gian mà Hồng vệ binh hoành hành. Họ đã không những chống lại phe ôn hoà mà còn chống lại sự giúp đỡ Việt nam. Sau 1970, Trung hoa chỉ còn giúp đỡ Việt nam một cách thụ động. Xích lại gần hơn với Hoa kỳ, không còn lo ngại nhiều về sự đe doạ ở biên giới phía nam, Trung hoa không muốn có một nước Việt nam, dù cộng sản, được thống nhất. Chính Mao Trạch Đông đã khuyên Phạm Văn Đồng nên tiếp tục chiến tranh du kích, không nên tổng tấn công chiếm hết miền Nam, dù lúc đó Cộng quân đang thắng thế. Mao nói “Cái chổi của chúng tôi không quét tới Đài loan thì cái chổi của các đồng chí cũng không quét tới Sài gòn” và Mao Trạch Đông cũng không che giấu sự khinh miệt đối với các cấp lãnh đạo Việt nam. Ông ta gọi Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng là “bốn tên ăn mày, lúc nào cũng chìa bát đòi cho thêm”. Tuy nhiên, để cho Việt nam có thể “chiến đấu đến người Việt cuối cùng”. Trung hoa vẫn tiếp tục giúp đỡ Hà nội tiếp tục chiến tranh.
Sau khi Cộng quân chiến thắng và chiếm hết miền Nam, Việt nam đã trở nên một thế lực đáng kể trong vùng. Nhưng thế lực đó chỉ mạnh về quân sự, và muốn sống còn, vẫn phải dựa dẫm vào viện trợ ngoại bang. Vì đầu óc kiêu căng, chật hẹp, các lãnh tụ Việt nam đã đánh giá quá cao khả năng của chính họ, coi nhẹ những tổn thất về sinh mạng và vật chất của nhân dân, tin tưởng mù quáng vào chủ nghĩa Mác và sự giúp đỡ của Liên xô. Họ không thèm để ý đến sự cảnh giác về an ninh lãnh thổ, sự tổn thương lòng tự ái dân tộc của Trung hoa, và nhất là họ đã quên là người Trung hoa coi trọng nhất là sự trung tín, coi khinh nhất là sự phản bội, nên đã công khai trở mặt và thách đố Trung hoa, để từ đó, đưa đất nước vào một cuộc phiêu lưu quân sự mới.
Tài liệu tham khảo:
- Việt nam sử lược của Trần Trọng Kim.
- Việt nam Máu Lửa của Nghiêm Kê Tổ.
- Death In The Rice Field, Peter Scholl Latour.
- Giọt Nước Trong Biển Cả của Hoàng Văn Hoan.
- Kroutschev Remembrance của Khroutschev
- China, A Country History của Bộ quốc phòng Hoa kỳ.
- The Chinese Aggression, Nhà Xuất Bản Ngoại Văn, Hà nội
- Mặt Thật, Hoa Xuyên Tuyết của Thành Tín
- Red Star Over China, Edgar Snow, Grove Press Inc., New York.
- Từ Thực Dân Đến cộng sản, Hoàng Văn Chí.