VII. Ngũ Hành

Ngũ hành tiếp nối việc của tam tài, cả hai có họ máu hàng dọc: họ tác động nên một đàng là tài một đàng là hành. Nên hành sửa soạn cho tài đi vào gian thời bé nhỏ. Nếu tam tài là nền tảng triết lý an vi, tất nhiên cũng cần bước sửa soạn để đua an vi vào trong hiện thực. Tất cả tinh tuý ngũ hành được đúc kết vào mấy câu sau của Kinh Dịch.
Tri chu hồ vạn vật nhi đạo tế thiên hạ, cố bất quá.
Bàng hành nhi bất lưu.
Lạc thiên tri mệnh cố bất ưu.
An thổ, đôn hồ nhân, cố năng ái. (Hệ từ IV.)
Chữ hán:
知 周 乎 萬 物 . 而 道 濟 天 下 . 故 不 過 .
旁 行 而 不 流 .
樂 天 知 命 . 故 不 憂 .
安 土 敦 乎 仁 . 故 能 愛
Trước hết nói đến "tri chu", tri chu là cái tri đã đạt tới tam tài, được trí tri nghĩa là không những biết vòng ngoài hiện tượng, mà còn cả vòng trong tâm linh, vì tam tài là số Pi tiên thiên, nên cũng gọi là "chu" (tròn) và với Nho giáo chỉ có cái biết trí tri đó mới đáng gọi là biết. Trương Tài nói "tri tất chu tri" đã gọi là biết thì phải là cái biết tròn đầy viên mãn, chỉ có cái biết đó mới là con đường giúp thiên hạ mà không vướng vào những quá đáng như trong các thuyết nhị nguyên: duy tâm hay duy vật đều không tránh được những quá đáng bạo hành.
"Bàng hành nhi bất lưu".
Khi đã đạt chu tri thì đi vào thời gian mà vẫn không bị trôi theo lưu tục, nhờ theo sát nguyên lý ngũ hành là "tham thiên lưỡng địa". Theo đó lưu tục hay "địa" chỉ chiếm có hai (luỡng địa) còn thiên chiếm ba (hay tam tài). Nhờ có cái kiềng ba chân này nên có đi ra vòng ngoài (bàng hành) cũng không bị cuốn theo lưu tục. Thiếu tam tài làm móng thiếu chu tri hướng đạo thì bàng hành nhất định nhi lưu. Đạo Trung Dung hiện ra trong câu đó rõ rệt: bàng hành kiểu nhị nguyên nhất định sẽ bị lưu vì nhị nguyên gồm bởi chủ tri (sujet) và đối tượng (objet) trong đó đối tượng cầm tù chủ tri, và chỉ cho phép có tri mà không có hành, nên khi phải bàng hành thì bị lưu, bởi chưng tri hàng ngang không đủ sức hướng dẫn đi lên (Kinh). Để tránh tai họa bị lưu như thế, triết lý vô nhị khoanh chân ngồi lại để khỏi lưu. Ngồi lại thì không lưu, nhưng lại không hành. Người không hành thì làm sao sống? Vậy vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để vừa có thể hành mà lại bất lưu, và do đó là đề nghị của ngũ hành là "tham thiên lưỡng địa" được biểu thị bằng hình hoa thị: mỗi bước đi ra chu vi (bàng hành) lại có một bước trở lại với trung cung. Nói theo thể chế thì mỗi mùa đều có một quý, tức một lúc quy tâm; bốn mùa có tứ quý, vì thế mà có thể "bàng hành nhi bất lưu".
Trong bài có đưa ra vài thí dụ "bàng hành nhi bất lưu", một là thần Cộng Công "súc bất chu chi sơn" vướng sừng vào cái núi bất chu. Núi bất chu chỉ cái biết nhị nguyên vòng ngoài không tròn (bất chu) tức đã không biết vượt thoát ý niệm hàng ngang, lại ứ trệ lại đó, thì trời đất phải đổ, trời là nét cao, chỉ tâm linh thì cái học duy lý có nuôi dưỡng vun đắp đâu mà trời chả đổ. Vì thế phải cầu cứu tới bà Nữ Oa là nền minh triết dùng phép "ngũ sắc thạch luyện dĩ hòa âm dương", tức áp dụng triết lý Ngũ hành thì mới vá được trời, kê lại được đất. Còn bà Eva không chơi nổi vai trò triết vì đã ra khỏi trung cung để ăn quả biết lành biết dữ. Phân biệt lành dữ, có không, thị phi là cái biết nhị nguyên thường nghiệm, chỉ là điều bất đắc dĩ, rất nên phớt nhẹ; đàng này bà đã không làm thế, còn nhấn mạnh bằng đưa chúng vào trung cung, thì như vậy là đã thiết lập tâm linh bằng dữ kiện của giác quan bé nhỏ. Thế là xây siêu hình bằng hình bằng tượng, bằng tướng của sự vật riêng rẽ cá biệt. Đó mới là siêu hình mà chưa siêu tượng, nên thiếu tính chất phổ biến, mà chỉ là siêu hình bằng dự phóng, tức là còn nằm trọn vẹn trong hình ảnh sự vật. Cho nên xưa kia gọi siêu hình là khoa nói về cái Có (ontologie) thì thực là đúng với nội dung. Hễ đã có thì hết là phổ biến, hết là siêu hình chân thực.
"Lạc thiên tri mệnh cố bất ưu". Lạc là bậc thứ ba trên con đường học vấn nó chỉ đến sau tri (thường nghiệm) và hiếu, nên lạc ở đây ngang hàng với chu tri, còn chữ thiên phải hiểu là phần tiềm thức tâm linh. Đó là toàn thể mà cái mệnh chỉ là "phần mớ". Tri mệnh là thấy tỏ cái mệnh nằm trong liên hệ với cái thiên, nên dẫu xảy ra sao cũng không sầu oán, trách than, vì cái đó chỉ là phần nhỏ. Người chưa tri mệnh thì chịu mệnh như một cái định mệnh tự ngoài tròng vào cổ nên ưu phiền, nản chí, còn người đã "lạc thiên tri mệnh" thì biết đó chỉ là "tính mệnh" nội tại nên chấp nhận như là chính mình muốn, nên dù xảy ra cái chi may rủi sao sao cũng vẫn an nhiên tự tại; ngược lại nếu không đạt được trình độ "tri thiên mệnh" thì luôn luôn sầu khổ nhịp theo những biến cố ngoại tại "tiểu nhân trường thích thích", như cái bong bóng bị tung lên vật xuống trước các làn sóng phũ phàng. Vì hậu quả khác nhau đến thế nên Kinh Dịch viết tiếp: "An thổ, đôn hồ nhân, cố năng ái", một câu văn cô đọng bao quát cả siêu hình cả nhân bản, lẫn xã hội học.
An thổ
Mới đúng là siêu hình chân thực, siêu hình cũng là tiêu hình nghĩa là hoàn toàn trống rỗng không còn một hình một tượng nào. Đó là hành thổ. Hành thổ là siêu hình chân thực vì không có mùa riêng, hướng riêng: đúng như câu "vô hồ xứ giả, vô bổn phiêu giả" nên không bị hạn chế bởi bất cứ đối tượng, ý niệm hay thành kiến nào khác, nhưng được cảm thông với toàn thể thiên địa mà Kinh Dịch gọi là "thiên địa chi tâm". Nhờ có "thiên địa chi tâm" nên thông dụng với tất cả vạn vật: thủy, hỏa, kim, mộc, huống chi với đồng loại. Nhờ vậy mới đặt được nền móng cho tình huynh đệ phổ biến nhắc đến trong vế thứ hai là:
Đôn hồ nhân
Câu này đặt giới hạn cho sự suy tư để không bị phiêu lưu vào tất cả những vấn đề có thể đặt ra, vì nếu như thế thì triết học sẽ gồm toàn những vấn đề xa lạ, giả tạo. Câu an thổ như có vẻ mở đường vào vô biên, thì đến câu đôn hồ nhân rút lại, đặt cho một hướng đi, tức bảo rằng hãy suy tư hãy hiện thực cái tính mệnh của con người: chứ không phải nhằm cái chi chi khác như sản xuất kinh tế, hay hướng vào cái gì xa xôi ở đâu đâu về sau này, đến nỗi lãng quên cái thực tại ở đây và bây giờ cao trọng hơn cả đó là réaliser la destinée humaine: hiện thực toàn vẹn nhân tính, đạt tới tính mệnh của con người. Nhờ thế con người hiện đang sống trong xương trong thịt không bị hi sinh cho những ý niệm đã qua hay phóng về tương lai mù mịt, cũng không bị phân chi giai cấp vì những lý do ngoài như của cải, huyết thống, màu da, tôn giáo. Nhờ thế có thể yêu thương chân thật.
Cố năng ái
Khi ái chân thực thì không ngừng trệ lại ở "dự phóng căn bản" hay những lời hô hào suông đã được lạm phát và lặp lại hoài hoài để lấp liếm sự trống rỗng, sự vắng mặt của những thể chế có nội dung cụ thể. Nếu không an thổ và đôn hồ nhân theo nội dung vừa diễn giải thì chữ "ái" liền đốc ra "ái vật" như trong (Mạnh Tử VII, 45) của lợi hành: tôi ái con chó vì nó trung thành với tôi vì nó cho tôi đĩa dựa mận… Đó không phải là "cố năng ái" chân thực đầy kính trọng, mà là tự ái đội lốt ái.
Đây là đại để ý nghĩa câu sách cô đọng đầy âm vang trúng thực (có thể xem thêm "cố năng ái", "bài vị văn tổ" trong căn bản triết lý…) Đôn hồ nhân thì xem bài "xây nhà (thái thất). Tóm lại:
An thổ là siêu hình vô biên cương
Đôn hồ nhân là hướng vào con người phổ biến
Cố năng ái là biểu lộ bằng những cử chỉ cụ thể, những thể chế bảo vệ sự quân phân tài sản, quyền tự do suy tư, sáng tạo v.v… Và được mở rộng cho hết mọi người không phân biệt. Thế giới hiện đại đang bị nô lệ cho kỹ thuật, đang bị sâu xé vì những ý hệ đủ loại, và bị lo âu hơn bao giờ hết thì truy tầm cho đến căn nguyên cũng vì triết lý ngũ hành đã bị quên bặt vậy.
Tái bút: bài VIII về lịch pháp không có gì khó lắm nên thôi bàn. Đọc kỹ trong chữ thời sẽ hiểu.