Phần I
*Kỷ niệm 35 năm ngày thống nhất đất nước,viết với góc độ một người dân ngày đó!

  Cái tết Ất Mão(1975)đi qua một cách nặng nề.Không khí chiến tranh cứ lẩn quất đâu đó khiến không một ai còn lòng dạ nào vui xuân.Thỉnh thoảng người ta lại hỏi nhau lệnh hưu chiến kéo dài được mấy ngày?Dân đổ dồn về thành phố rất nhiều nhưng cảnh mua sắm thì hết sức vắng vẻ.Những ngày cận tết,quận lỵ Thanh An liên tiếp bị pháo kích nên những lời đồn đoán về một trận đánh lớn sắp sửa xảy ra loan truyền khắp nơi.Xe chở lính di chuyển ầm ầm trên đường.Máy bay quân sự và dân dụng nối đuôi nhau đáp xuống phi trường Cù Hanh.Những gia đình có máu mặt như đánh hơi thấy một điều gì đó không ổn nên lén lút thu xếp đưa con cái và tài sản quý giá gọn nhẹ về Sài Gòn bằng đường hàng không.
Cánh nhà giáo chúng tôi lại có vẻ vô tư.Ăn tết xong,hầu hết thầy cô vẫn tiếp tục trở lại trường mặc dù đường sá không còn đi lại dễ dàng.Học sinh thì bỏ học gần phân nửa.Thế nên việc giảng dạy cũng chỉ kéo dài hơn tuần lễ thì được lệnh “tùy nghi di tản”.Trên đường về nhà,tôi thấy mọi người tỏ ra nhớn nhác và lo âu.Phố xá không còn tấp nập như trước.Mọi năm,thời gian sau tết, rạp chiếu bóng Diệp Kính luôn chật kín người.Thế nhưng năm nay,người lớn không ai còn lòng dạ nào vui chơi giải trí.Chủ nhật vừa rồi,mặt trận Đăktô,Tân Cảnh lại nóng lên.Dòng người di tản từ hướng Kontum đổ về ngày càng đông.Bộ tư lệnh quân đoàn hai đóng ở Pleiku nên có người muốn chạy đến tìm sự che chở nhưng cũng có kẻ lại muốn lánh xa vì e ngại một trận quyết chiến đẫm máu có thể xảy ra bất cứ lúc nào.Vật giá hết sức đắc đỏ vì nguồn cung cấp gần như bị cắt đứt hoàn toàn.Phía Đông,quốc lộ 19 tắc tỵ sau khi liên tiếp các đoàn quân xa bị phục kích bốc cháy.Chênh chếch về phía tây quận Bình Khê,hình như đang có một lực lượng quân sự rất mạnh án ngữ, cố tình không cho sư đoàn 22 bộ binh tiến lên tiếp ứng cho Pleiku.
Ngày thứ bảy,tin dữ lại bay đến.Quận lỵ Thuần Mẫn thất thủ.Đường 14 bị cắt đứt hoàn toàn.Dân ba tỉnh Pleiku,KonTum,Phú Bổn như cá nằm trong rọ.Những người có chức sắc và ân oán giống ngồi trên đống lửa.Chỉ còn một đường liên lạc duy nhất là hàng không.Mỗi ngày chẳng biết bao nhiêu chuyến bay đáp xuống để bốc người đi.Quang cảnh hỗn loạn đã bắt đầu manh nha.Thế nhưng, trong cái nồi nước đang sôi ấy,tôi và người bạn thân vẫn bình thản ngồi xem lại bài vở,chuẩn bị tháng tới hoàn tất chứng chỉ Việt Hán.Ngày ấy,chúng tôi còn quá trẻ,không biết nhiều về thời cuộc,lại quá đam mê việc học.Đã đứng trên bục giảng,cả hai còn muốn ôm thêm cái cử nhân văn chương nên đứa nào cũng cố hết sức.Mặt khác,trong thâm tâm, chúng tôi cứ nghĩ bất quá chắc như tết Mậu Thân hay Mùa hè đỏ lửa 1972 là cùng.Mọi việc rồi đâu sẽ vào đó.Không riêng gì tôi,người nào sống trong thời gian đó cũng không thể hình dung được một trận địa chấn khủng khiếp sắp mở ra trước mặt.Theo sau sẽ là một cơn lốc quét sạch tất cả.Giờ đây,sau khi đọc nhiều sách báo viết về cuộc chiến ngày ấy,tôi mới ngộ ra một điều là những kẻ vỗ ngực cho mình là dày dạn trận mạc đã bị đối phương đánh lừa một cách thảm hại.Một Pleiku hoàn toàn bị cô lập khiến cho bất kỳ ai cũng nghĩ nơi đây sẽ là chiến trường chính.Chiến thuật nghi binh đã được triển khai hết sức thành công.
Sân bay Cù Hanh đột nhiên hứng chịu sự công phá của đại bác.Những quả 105 li nổ đinh tai nhức óc.Cầu hàng không lập tức bị đánh sập.Không một chiếc máy bay nào dám liều lĩnh đáp xuống phi đạo.Đài kiểm soát không lưu bị trúng đạn bốc cháy.Phố Núi hoàn toàn bị phong tỏa.Không khí hoảng loạn thực sự bao trùm toàn thành phố.Những con người chạy đi chạy lại không khác đàn kiến bò trên cành cụt.Họ hỏi han nhau,dò la tin tức,phán đoán và nhận xét.Nhưng thật ra chẳng một ai biết điều gì sắp xảy ra.Qua sóng phát thanh,chúng tôi vừa biết tối chủ nhật quận lỵ Đức Lập bị tràn ngập.Rạng sáng thứ hai,trận đánh quyết định kết liễu cuộc chiến kéo dài mấy mươi năm nổ ra tại tử huyệt Ban mê Thuột.Bão lửa đã dội xuống thành phố nhỏ bé với sự kháng cự rất yếu ớt.Lịch sử đã đặt một dấu chấm lớn nơi nổi tiếng về món cà phê chồn và rừng cao su bạt ngàn.Quân bài Domino đầu tiên đã ngã.Sự sụp đổ diễn ra nhanh chóng đến bất ngờ!
Tại Pleiku,đúng như câu”Bất chiến tự nhiên thành”.Không có trận đánh lớn nào xảy ra vậy mà sự rã ngũ tràn lan khắp nơi.Đủ mọi sắc áo lính vất ngổn ngang trên đường.Nhiều người vì âu lo cho sự an nguy của gia đình nên không còn lòng dạ nào nghĩ đến chuyện đánh nhau.Tối thứ tư(12/3),truyền hình còn chiếu cảnh trực thăng vận sư đoàn 23 cố gắng tái chiếm Ban Mê Thuột một cách tuyệt vọng.Vậy mà sang ngày hôm sau, đã thấy từng đoàn xe nối đuôi nhau chạy về hướng Phú Bổn.Vì hai con đường chính đã bị phong tỏa nên một “thiên tài “quân sự nào đó đã quyết định vạch hướng đào thoát bằng liên tỉnh lộ 7.Một con đường bị bỏ hoang rất lâu chưa một lần dùng đến.Ở đó,Tử thần mặc áo choàng đen trên tay cầm lưỡi hái thật sắc đang đứng chờ.
 Con người dù sao cũng chỉ là một sinh vật nên tâm lý bầy đàn luôn xuất hiện nhất là những lúc nguy cấp.Không ai bảo ai,hầu hết đều lo gói ghém đồ đạt,bồng bế dắt díu nhau lũ lượt ra đi.Họ chạy mà không biết mình sẽ về đâu!Giống như tôi,phần đông họ chỉ là những dân thường nên chắc chắn không phải ra đi vì sợ bị trả thù.Họ cũng chẳng có nhiều của cải quý giá để sợ bị tước đoạt.Đơn thuần họ chạy vì thấy quá nhiều người chạy.Hướng đi cũng rất đồng nhất.Đến ngả ba Mỹ Thạch,tất cả đều rẽ trái để biến thành những con cá chui vào chiếc lờ đặt sẵn tại sông Ba và Củng Sơn.Sau một thời gian dài do dự,cuối cùng chúng tôi cũng thuê một chiếc xe đầu kéo để các gia đình chất hết đồ đạc lên đó và hòa vào giòng người di tản.Đồng tiền liền khúc ruột.Thế nên lúc ra đi ai cũng cố mang vát cho thật nhiều.Những gì có thể đem đi đều lấy tất.
 Buổi chiều xuống chậm và buồn.Cảnh hôi của và cướp bóc bắt đầu diễn ra.Trong thành phố thỉnh thoảng lại vang lên tiếng súng.Đây là thời khắc nguy hiểm nhất vì đường phố đã vắng bóng pháp luật.Xe đi thật chậm vì ai cũng muốn tranh đi trước nên chẳng còn hàng ngũ gì cả.Quân xa chen cả vào đoàn xe dân sự.Tiếng quát nạt hòa trong tiếng kêu khóc của những kẻ thất lạc người thân khiến chúng tôi thấy chạnh lòng.Càng buồn hơn nữa khi đến dốc Hàm Rồng,ngoái nhìn lại,tôi thấy lửa cháy ngút trời tại khu chợ mới.Dãy phố Hoàng Diệu cũng đang chìm trong biển lửa.Đây là lần đầu tiên cũng có lẽ là duy nhất tôi chứng kiến một cảnh tượng thương tâm như vậy.Cái cảm giác phải vĩnh viễn từ bỏ thành phố thân thương,nơi chất đầy kỷ niệm,làm tôi muốn sa lệ. Nhưng có riêng gì tôi?Trên biết bao nhiêu khuôn mặt kia không hề tìm thấy bóng dáng một nụ cười,dù là cười gượng.Không khí đau xót buồn bã bao trùm khắp nơi
 Màng đêm buông xuống.Phố Núi vẫn sáng rực nhìn từ đàng xa,nhưng không phải thứ ánh sáng diễm lệ của những ngọn neon màu mà là ánh sáng chết chóc do đám người hôi của và cướp giật gây nên.Khoảng trống quyền lực chưa kịp lấp đầy.Người chủ cũ đang tháo chạy nhưng chủ mới thì còn cách thành phố một cung đường.Đây là thời điểm vàng cho bọn người táo tợn và tham lam.Các cửa tiệm mặt phố đều bị bắn nát ổ khóa.Tiền bạc thì không thấy nhưng hàng hóa  vung vẩy khắp chốn.Nhiều thứ ngày thường phải mua bằng tiền giờ bị vứt bỏ không thương tiếc chỉ vì chúng nặng và vướng.Nếu có ai đó biết trước thời cuộc mà bạo gan ở lại thì chưa chắc đã được yên thân với những kẻ thừa nước đục thả câu kia.Chiến tranh loạn lạc là thế.Con người không hề làm chủ được bản thân mình.Trong hoàn cảnh đó,vốn đã bé nhỏ,ta lại càng thấy mình bé nhỏ hơn.
Xe không có mui nên tôi và người bạn đều đứng thẳng người để nhìn cảnh vật.Phía trước là một hàng dài dằng dặc màu đỏ âm u của những bóng đèn hậu xe hơi.Phía sau là chuỗi ánh sáng chói mắt của đèn pha, giống một con rồng kéo dài vô tận.Xe chạy còn chậm hơn cả đi bộ.Tiếng động cơ cứ rì rầm rì rầm nghe thật buồn.Thỉnh thoảng có một chiếc bị chết máy nằm ì tại chỗ thế là vang lên những tiếng la ó, quát nạt,thúc giục.Tài xế vội vàng ba chân bốn cẳng nhảy xuống sửa chữa.Thế nhưng các xe phía sau không chịu chấp nhận sự chậm trễ nên một đoàn người đông đảo ập đến,hò nhau kéo chiếc xe bị hỏng bỏ sang một bên để lấy lối đi.May mà ngày đầu chưa thấy bóng dáng của truy binh nên tuy có mệt nhưng vẫn còn yên tâm.Đây là con đường bỏ hoang nên đầy ổ voi ổ gà.Chiếc xe hết nghiêng bên này lại ngã sang bên kia như người say rượu.Đoạn từ ngả ba Mỹ Thạch đến Phú Bổn thì tương đối,nhưng phần còn lại thật giống con đường dẫn đến địa ngục.”Con đường đau khổ”của nhà văn Aleksei Tolstoy so với Liên tỉnh lộ 7 thật chẳng ăn nhằm gì.Một vài xe đi trước bị vấp phải mìn.Những chiếc cáng thương chạy ngược về trung tâm tỉnh lỵ Phú Bổn.Trong hoàn cảnh này chắc gì còn nhân viên y tế trực ở đó để cứu chữa. 
 Về khuya,cái đói đã thắng cái sợ nên đoàn xe dừng lại để lo chuyện cơm nước.Vì mới khởi đầu nên gia đình nào cũng còn đầy đủ dụng cụ bếp núc và lương thực mang theo.Tuy là bữa cơm di tản ngoài trời rất đạm bạc nhưng ai cũng ăn ngấu nghiến vì đói.Xa xa vẫn nghe tiếng đại bác vọng về.Tận một nơi nào đó thỉnh thoảng lại có chùm pháo sáng bắn lên rồi vụt tắc để lại trên bầu trời những vầng khói trắng nham nhở.Trong bóng tối, từng đoàn người lần mò đi qua với những chiếc đèn pin nhỏ xíu trên tay.Họ gọi hết tên người này đến người khác.Cha lạc con,vợ lạc chồng,anh lạc em nhưng không cách nào tìm được.Trong biển người mênh mông đó,biết bao nhiêu gia đình ly tán mà rồi không bao giờ có ngày đoàn tụ.Chỉ riêng đoàn quân thất trận đã trên mười vạn người.Kèm theo họ là những người thân.Ngày đó, tuy không bằng bây giờ nhưng dân cả ba tỉnh gộp lại thì đông biết dường nào.Thật ra,không phải tất cả đều đổ dồn về con đường “định mệnh”đó nhưng chỉ cần một phần nhỏ thôi đủ cho ta hình dung một con số khổng lồ.Nguyễn Du trong truyện Kiều từng bảo”Ngựa xe như nước..”,nhưng với Liên tỉnh lộ 7 hiện giờ thì lượng xe di chuyển còn nhiều hơn nước.Thành phố Tuy Hòa đang hướng một thỏi nam châm cực lớn hút sạch nhân tài vật lực của Tây Nguyên.Ngồi viết những giòng này,nhớ lại bao cảnh chia lìa thương tâm, tôi nghĩ giá ngày ấy có điện thoại di động như bây giờ thì hay biết mấy.Mọi người sẽ dễ dàng biết được tình hình của nhau,hẹn nơi gặp lại, cũng như vỗ về,an ủi nhau trong cơn hoạn nạn.Sự chậm trễ của khoa học kỷ thuật đã làm hại biết bao người trong hoàn cảnh này!
Hai ngày yên bình trôi qua.Nỗi khổ mới bắt đầu xuất hiện.Đang còn mùa Xuân nhưng cảnh vật hai bên đường lại khô không khốc.Mới chín giờ sáng,mặt trời đã tỏa hơi nóng như thiêu như đốt.Xem chừng Thái Dương Thần Nữ không hề biết xót thương những con người khốn khổ đang chạy trốn chiến tranh.Sai lầm lớn nhất trong chuyến đi có lẽ là chuyện nước uống.Trong danh mục thực phẩm mang theo không thấy đề cập đến thứ chất lỏng mà có lúc sẽ quý hơn vàng ấy.Có lẽ, trong tâm tư, mọi người đều nghĩ, nước lã thì chỗ nào chả có mà phải mang theo nhiều cho nặng.Trên những chiếc xe bịt bùng,người lớn lẫn trẻ con đều nhễ nhoại mồ hôi.Mà nguyên tắc đã mất nước thì phải bù lại.Nhịn đói đôi khi còn có thể nhưng chịu khát thì được mấy người?Chúng tôi cũng không thể ngoại lệ.Đến trưa thì sự chịu đựng có vẻ đã cạn.Ở nhà,nước đun sôi còn phải lọc lại nhưng giờ đây nhiều người chỉ mong có để uống,bất biết đó là thứ nước gì.Câu chuyện những người bị lạc trong sa mạc phải uống cả nước tiểu chắc không phải bịa đặt.
Nhân lúc xe dừng lại không biết vì lý do gì,tôi cùng mấy người nữa xách cái ấm nhôm đi tìm nước.Xuống khỏi con dốc dài,băng qua một vạt đồi vẫn chưa  thấy cái mình cần.Môi người nào cũng khô nẻ và trắng bệt.Một số đi theo chúng tôi vì quá mỏi mệt nên bỏ cuộc.Đất bỏng rát dưới chân.Đi thêm độ trăm mét,đột nhiên mấy khoảnh ruộng mở ra trước mặt.Một vũng nước lấp lánh dưới ánh mặt trời.Mừng như bắt được vàng,hai thanh niên đi cùng với tôi phóng thẳng xuống ruộng,dùng ấm múc nước uống ngon lành.Chậm chân hơn nên tôi có thì giờ nhìn thấy bên kia vũng nước,mấy cô gái người dân tộc Bana đang đứng giặc váy.Họ vừa vung vẩy những chiếc xà rông dệt bằng thổ cẩm cho ráo nước vừa nhìn chúng tôi bằng ánh mắt ngạc nhiên khôn xiết.Hoảng hồn,tôi kéo vội chiếc ấm khỏi mồm một thanh niên và la lên”Nước dơ!Họ đang giặc đồ kia kià”.Cả hai cùng ngước nhìn lên.Đột nhiên anh chàng mặc áo karô đứng bên phải tôi buông chiếc ấm và nôn thốc nôn tháo.Mặc dù đang khát cháy cổ,tôi không thể nào nuốt nổi thứ nước kinh tởm đó.Trong cái khó ló cái khôn.Tôi nghĩ ruộng có nước ắc phải từ một nơi nào đó dẫn đến.Chúng tôi men theo con mương nhỏ và phát hiện một ống tre người dân tộc cắm vào bờ đất để lấy nước mạch mà họ gọi là giọt nước.Anh chàng Robinson phát hiện mấy hạt thóc sót lại trong chiếc bao đay,mừng rỡ như thế nào thì chúng tôi hiện giờ cũng giống như vậy.Giòng nước tuy chỉ chảy yếu ớt nhưng trong veo và mát rợi.Chẳng còn kiên cữ,chúng tôi uống một bụng lặc lè và xách ấm nước quay về.Trên đường đi,cái ấm chứa chỉ hơn một lít nước chưa đun chưa nấu đó đã có người gạ đổi hai chỉ vàng nhưng tôi đành chịu vì còn bao nhiêu người đang nhịn khát ở trên xe. 
 Ngày thứ tư, tính từ lúc khởi hành,địa ngục trần gian mới thực sự mở cửa đón khách.Cái đói khát,cái nóng bức thay nhau giày vò con người.Suốt mấy hôm chỉ ăn toàn đồ hộp nên ai cũng ngán tận cổ.Thiếu rau xanh,mặt người nào cũng vàng vọt bơ phờ.Trẻ con kêu khóc vì đói và thiếu sữa nghe đến não lòng.Chúng tôi không biết mình hiện đang ở địa phương nào?Chỉ thấy hết ruộng đến rừng,họa hoằn mới thấy một chòi lá của người dân tộc dựng lên để trông chừng hoa màu.Xe lại dừng vì tắt đường.Trong tầm mắt những người di tản đột nhiên hiện lên một rẫy ngô xanh biếc phía bên kia đường.Không ai bảo ai,những thanh niên khỏe mạnh âm thầm chuồn vào ruộng ngô.Sự xấu hổ giữ chân tôi gần năm phút.Đứng nhìn những hoa ngô lay động kèm với tiếng sột soạt tôi biết ở trong đó bọn họ đang làm gì.Cảm giác thèm chất xanh cứ ứa ra đầu lưỡi.Ối dào!Chiến tranh nguy khốn thế này biết sống hay chết mà còn sĩ diện.Tôi tự an ủi mình như thế để lấy chút dũng khí chui vào ruộng ngô.Trời ạ!Những quả ngô non ăn sống mới ngọt làm sao!Có lẽ không một thứ cao lương mỹ vị nào sánh nổi những hạt ngô còn mềm bắn ra thứ chất lỏng trắng đục,sền sệt.Xin cảm ơn những người nông dân đã tạo ra ruộng ngô này.Nó còn quý hơn bát cơm Phiếu Mẫu mà Hàn Tín đã nhận trong lúc cố cùng.Hoài Âm Hầu(1) còn có cơ duyên báo đáp, nhưng chúng tôi biết tìm đâu để trả lại công sức cho họ bây giờ?(còn tiếp)
1Tước vị Hán Cao Tổ ban cho Hàn Tín.Thưở hàn vi họ Hàn phải  nhờ vào những bát cơm khó nhọc của một bà già giặc thuê để sống.