Khoảng giữa thập niên 50, tôi bắt đầu đến trường. Tôi học tiểu học ở đình Ông Voi, trên đường Lê Lợi, cách bờ sông Hội An, đường Bạch Đằng ba bốn trăm mét. Trường gồm ba lớp học, thẳng góc nhau, cộng với phần ngai thờ với nghi trượng, đối liễn… là phần chính của đình tạo thành bốn mặt kín, giữa là sân nhỏ, lát đá, mỗi bề khoảng vài chục mét, được xem là sân chơi. Phần ngai thờ luôn luôn đóng cửa, khi có tế lễ mới mở ra và chúng tôi được nghỉ học. Tưởng tượng đó là một ngôi đình, bị xây bít phía trước để làm lớp học, chỉ chừa lại hai lối đi nhỏ hai bên hông. Trước trường là một sân đất rất rộng. Giờ ra chơi, học trò ra sân trước đùa nghịch, chạy nhảy cho được tự do, thoải mái. Trên sân rộng nầy có tượng hai con voi bằng vôi hay xi măng gì đó, to cỡ con voi con. Bọn nhóc tụi tôi, nghịch phải biết, nhưng chẳng đứa nào dám héo lánh đến gần tượng hai Ông Voi. Sợ ngài vật sặc máu. Chúng tôi cứ đồn nhau rằng trước đây, có thằng chơi nghịch, leo lên tượng Ông Voi, ngài vật xuống nằm dưới bụng Ông Voi, và ngài đè ói máu suýt chết.
Tôi còn nhớ được vài chuyện về các bạn học của tôi thời tiểu học. Năm đầu tiên vào học lớp năm, tôi ốm yếu và còn rất khờ khạo, trong khi tụi bạn thì vui vẻ, nhanh nhẹn hơn nhiều. Một lần ra chơi, trời lại mưa, cả bọn đứng vơ vẩn trước hiên nhìn mưa rơi. Tôi đang đứng một mình thì một thằng từ phía sau, nhảy phóc lên lưng tôi, bắt tôi cõng đi. Đó là thằng nghịch nhất lớp, chuyên ăn hiếp những đứa khác. Tôi bị nó ngồi trên lưng, nặng muốn xính vính, đi sao nổi! Tôi bèn cúi xuống thật thấp, như người ta tập thể dục, vậy là nó lộn mèo qua đầu tôi, té cái ịch về phía trước, nằm ngay trong vũng nước. Từ đó nó không bao giờ động đến tôi. Hình như nó tên Răng. Nó có tài bắn bi thần sầu. Có đứa để hòn bi sau cục gạch nhỏ, khó thấy được, vậy mà không biết cách nào, chỉ nghe cách một tiếng là hòn bi nó đã nằm vào chỗ hòn bi đối phương. Hòn bi kia thì văng tuốt đằng xa. Đứa nào bắn bi với nó thì coi như nạp mạng. Trước khi bắn bi, nó đòi kiểm soát bi đối phương. Bi phải mới tinh, không trầy, nó mới chịu chơi. Mỗi lần nó đổ mấy bị bi của nó ra đếm thì tụi tôi chỉ biết lé mắt mà trầm trồ. Thời đó đã có loại “bi chai,” làm bằng thủy tinh. Ở Mỹ, hiện nay cũng thấy bày bán loại “bi chai” đó, không biết để làm gì, vì trẻ con Mỹ đâu có biết chơi bắn bi?! Có điều lạ là từ đó đến nay, đã hơn năm mươi năm mà hòn bi chai vẫn vậy. Vẫn cỡ bằng lóng tay, trong suốt, giữa ruột có nhân như trái khế màu xanh, vàng, đỏ rất đẹp. Lúc đó tôi bắn bi rất dở nên không dám chơi ăn bi, chỉ có mấy viên mới tinh, rất đẹp, thỉnh thoảng đem ra ngắm rồi cất vào hộc bàn.
Lớp tôi còn một thằng bạn học nữa, tên thằng Thương. Học “dốt tổ mẹ” nhưng lại có tài chùi xe đạp của thầy Cam láng bóng. Trường Ông Voi bấy giờ có thầy Trợ Cam. Đứa nào đã học thầy Cam là coi như suốt thời tiểu học chỉ học thầy Cam thôi. Thầy dạy từ lớp năm, sang năm, học trò của thầy lên lớp tư, thầy cũng dạy lớp tư, cũng bọn đệ tử đó, cứ thế lên đến lớp nhất, khi bọn đệ tử lên trung học, thầy bắt đầu lại lớp năm với lũ học trò mới. Vì thế thầy biết rõ gia cảnh, tính tình, tư chất từng đứa một. Thầy Cam có chiếc xe đạp Bờ Rô (Peugeot), khi đến trường thầy dựng ở cửa lớp. Đến giờ trả bài (học trò lên đọc lại bài học hôm qua) thầy gọi thằng Thương đi chùi xe, vì thầy biết nhà nó nghèo, đi học về, nó phải phụ cha mẹ làm việc rất vất vả, tối đến, mệt mỏi quá, nó ngủ khò, làm một giấc đến sáng, dậy ôm vở đi học. Thằng Thương có bộ đồ nghề chùi xe, lúc nào cũng thủ sẵn trong túi quần. Đến giờ trả bài, nó ra cửa chùi xe cho thầy. Có bữa thầy quên ra lịnh, nó vẫn cứ tự động ra chùi xe. Tôi ngồi gần cửa, thấy nó chùi rất lành nghề, nhanh nhẹn như mấy đứa đánh giày, nhưng rắc rối hơn. Trước hết nó dùng cái que xủi đất dính phía trong dè xe, rồi lại dùng cây cọ quét đất cát còn dính trên bánh xe. Nó quây bánh xe nghe tách tách nho nhỏ vừa rà cái cọ trên bánh xe cho thật sạch rồi mới moi nùi giẻ dưới yên xe ra lau dè xe. Chỗ nào còn dính dơ, nó “phịt” nước miếng vào đó và chùi là sạch ngay. Riêng bộ căm xe, nó lấy miếng giấy nhám từ túi quần ra, kẹp cái căm giữa miếng giấy và vuốt lên vuốt xuống, chỉ một lát là cây căm xe láng bóng như mới. Những buổi chiều thầy đạp xe trên đường phố, ánh mặt trời chiếu những cái căm xe lấp la lấp lánh như có gắn kim cương. Không ai hiểu sao thầy Cam lúc nào xe cũng mới tinh? Có lẽ thời tiểu học, chỉ thằng Thương là sướng nhất, vì không bao giờ phải trả bài. Riêng tôi thì ở trường hợp đặc biệt. Tôi và một vài đứa nữa có tài nhớ bài ngay khi chép xong trên bảng đen. Thường mỗi khi có bài học mới thầy viết lên bảng cho học trò chép vào vở. Tôi vừa chép bài vừa lẩm nhẩm đọc. Thầy viết câu nào là tôi thuộc câu đó. Thầy viết vừa xong, tôi cũng vừa thuộc hết cả bài. Chờ đến khi cả lớp chép xong, thầy hỏi “Đứa nào lên đọc bài?” là tôi xung phong lên đọc ngay, thầy cho điểm, thế là hôm sau tôi khỏi phải lên trả bài vì bài đó tôi đã có điểm rồi. Có thằng Nguyễn Hồng Hà cũng thuộc bài kiểu đó. Năm nào tôi với nó cũng tranh nhau phần thưởng nhất nhì. Hai đứa tôi đều mồ côi cha mà trường chỉ cấp một học bổng nên chúng tôi chia hai học bổng đó, mỗi đứa một nửa.
Dưới tiểu học đứa nào cũng ham chơi, nên trừ bọn con gái và vài đứa con nhà gia giáo, đa số, giỏi lắm thuộc lõm bõm. Cho nên giờ trả bài là giờ đau tim của bọn nhác học. Hễ thầy giở sổ điểm ra là không khí căng thẳng bao trùm cả lớp. Đứa thuộc thì nhơn nhơn chường mặt cho thầy thấy, hi vọng thầy kêu lên kiếm điểm. Đứa không thuộc tìm cách núp sau lưng bạn, cứ tưởng mình không thấy thầy tất thầy cũng không thấy mình. Nhưng trông bộ dạng núp lén, cổ rụt, lưng khòm, cố sao cho mình càng nhỏ lại càng tốt, thầy biết ngay. Bị kêu lên thì mặt mũi xanh lè, ấp a ấp úng, nhớ được câu đầu là cùng, vậy là thầy cho hột vịt lại bắt đứng sang bên cạnh chờ thầy phạt chứ chưa được về chỗ ngồi. Sau khi xong vụ trả bài thầy mới quay sang làm việc với mấy cậu ăn hột vịt lộn. Thầy Cam có lối phạt học trò rất kỳ lạ, xưa nay chưa ai làm. Thầy bắt học trò nhảy cóc trong cái sân vuông nhỏ ở giữa các lớp, thành thử các lớp khác cũng thấy, cái đó mới đáng mắc cỡ. Mấy đứa bị phạt ngồi chồm hỗm một dọc, hai tay chống xuống đất và nhảy như con cóc. Cả đàn cóc cứ thế nhảy vòng quanh sân nhỏ từ năm đến mười vòng. Bấy giờ lớp tôi có anh chàng, không biết mấy tuổi mà to lớn như người lớn, anh ta nhảy cóc rất tài, chỉ phóc mấy cái là xong một vòng. Anh ta cứ qua mặt bọn nhóc, giống như đua xe hơi mà có một chiếc chạy với tốc độ gấp hai các xe khác, cứ vù vù qua mặt đối thủ. Khoảng mươi phút là anh ta thi hành xong, đứng lên mặt vẫn không đổi sắc trong khi bọn kia cứ lệch bệch mãi vẫn chưa xong. Nhảy vài vòng đã có đứa làm như bò bốn chân chứ không nhảy!
Thầy Cam còn một hình phạt nữa, cũng không giống ai. Thầy bắt những đứa không thuộc bài đứng thành vòng tròn, rồi đứa đứng sau kí đầu thằng đứng trước, thằng đứng trước kí đầu thằng đứng trước mình, cứ thế, cho đến khi thầy bảo thôi mới ngưng. Vì hễ kí nhau nhẹ, thầy bắt kí mãi. Có đứa nào ghét thằng đứng trước mình thì cứ nghiến răng nện một phát vào đầu hắn, hắn không quay ra sau trả thù được nên cũng ra sức nện thằng trước mặt dù thực tâm đâu có oán thù gì nhau. Vậy là thằng bị kí đau lại chơi thằng đứng trước một phát xính vính, cứ thế, giáp một vòng, đến ngay thằng gây ra chuyện máu lửa. Đúng là vòng “luân hồi”!
Thầy Cam rất sùng đạo Phật, thầy thường lên chùa tụng kinh. Nhà thầy cũng có bàn thờ Phật. Giờ thủ công, có khi thầy bắt học trò vót đũa, thầy lựa những đũa đẹp đem lên chùa. Đến gần Tết, thầy bắt làm những cái vòng giống như vành nón, nhưng đều nhau, đứa thì làm những cây cọc nhỏ như chiếc đũa nhưng dài hơn. Thầy đem lên chùa làm cọc cho mấy chậu bông kiểng. Bông cúc, bông thược dược…
Trường Ông Voi có thầy hiệu trưởng người Bắc di cư. Thầy đọc chính tả, học trò viết trật bậy cả. Rượu thầy đọc thành riệu, hươu thành hiêu… Khó nhất là dấu phết thầy đọc là phảy. Ví dụ: “Các em đi học phải ăn mặc sạch sẽ, đến trường đúng giờ” Học trò viết thành “…phải đến trường đúng giờ.” Trong trường có ông phu trường tên Cửu. Mỗi khi đến giờ ra chơi hay hết buổi học thầy hiệu trưởng kêu lên “Ông Kiểu, Ông Kiểu, cho tiếng kỏng!” (đánh kẻng, gõ mạnh vào một miếng sắt lớn thay cho đánh trống).Nghe câu đó là chúng tôi thở phào nhẹ nhỏm, xếp sách vở. Cô thầy coi bộ cũng vui lây, nhưng làm nghiêm.
Thời tôi học tiểu học còn có thầy hiệu trưởng trường nam tiễu học, lúc trước ở Chùa Bà Mụ, sau dời xuống gần trường trung học Trần Quí Cáp. Thầy hiệu trưởng tên Lê Tự Tháo. Lúc đó còn Đệ Nhất Cộng Hòa, học trò phải hát bài Suy Tôn Ngô TổngThống, có câu “Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống. Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm.” Bọn học trò đến câu đó hát “Học sinh trường nam nhớ ơn ông Lê Tự Tháo. Ông Lê Tự Tháo, Ông Lê Tự Tháo muôn năm.” Tôi không học trường đó nhưng nghe bọn bạn thường hát nghêu ngao như vậy, bây giờ vẫn còn nhớ. Trí óc trẻ con như trang giấy trắng, dính một vết nhỏ là không bao giờ phai mờ!
Một buổi sáng chủ nhật, có đứa phải đến nhà thầy Tháo nộp sổ điểm hay làm gì đó. Hắn rủ, không đứa nào dám đi theo. Tôi không học trường của thầy Tháo nên tôi đâu ngán. Tôi theo hắn đến nhà thầy. Thấy tôi, thầy chỉ mặt bảo “Mầy đi học, đứng ít ra cũng hạng mười trở lên.” Lúc tiểu học thì tôi có đứng nhất lớp thật, nhưng lên trung học, có khi tôi phải thi lên lớp vì “đút vở bụi tre” (trốn học) nhiều quá. Vì thời tiểu học tôi không phải học bài ra rả như mấy đứa khác nên lên trung học tôi quen thói lười biếng, bị đội sổ (đứng hạng bét) hoài. Chỉ đến năm đệ nhị và đệ nhất, tôi sợ thi tú tài rớt mới chịu khó gạo bài mà thôi. Nhưng tôi có khiếu làm thầy tướng số. Nhớ thời đi sĩ quan Thủ Đức, các sĩ quan huấn luyện, hễ ra bãi tập, là gọi tôi đến xem chỉ tay, chữ ký, trong khi bọn bạn cứ bò lết, xung phong, đội hình tác chiến, phục kích, phản phục kích… hò hét, chạy nhảy phờ người.
Trở lại thời tiểu học, tôi còn có một thằng bạn nữa, nó tên Nguyễn Ngọc Thích. Lên lớp nhất là nó nghỉ học vì ba nó là lính tử trận, nhà đông anh em, nó là con lớn phải nghỉ học để đi bán cà rem. Nó chở hai bên xe đạp hai bình cà rem, sáng sớm lên tiệm nước đá Thái Sơn lãnh cà rem, đạp về vùng quê bán, chiều về. Có những buổi chiều, tôi lên nhà nó chơi, nó đem cà rem ế ra cho tôi ăn. Nó nhỏ mà rất “hoang,” tôi kém nó vài tuổi nhưng coi nó như đại huynh. Nó là tên đầu têu làm ô nhiễm tâm hồn trong trắng của những thằng còn học lớp nhất như tụi tôi. Nghĩa là nó dạy tụi tôi “mê gái” và “chọc gái”! Nó tả cô con gái tiệm nước đá Thái Sơn, tên cô Kín, người Tàu, rất đẹp. Tụi tôi đến đấy, thấy quả thật cô đẹp như Lý Lệ Hoa, nữ tài tử Hồng Kông, trong phim “Ánh Sáng Đô Thành.” Từ đó hễ có đồng nào là chúng tôi rủ nhau đến tiệm Thái Sơn, chờ cô Kín ra trông hàng là vào, cả bọn, có khi chỉ mua một cây kem thôi. Thằng Thích còn chỉ cho chúng tôi một cô khác, cũng người Tàu, con chủ tiệm tạp hóa Vạn Hòa, cũng đẹp lắm. Hắn rủ tụi tôi, buổi tối đến trước tiệm Vạn Hòa, ngồi xuống lề đường, phía đối diện, chờ cô ta ra trông hàng để ngắm. Một lần hắn bảo cả bọn theo hắn vô tiệm để mua hàng. Bốn năm đứa chúng tôi theo hắn một cách long trọng, giống như khách sộp. Hắn đi trước, đến bảo cô ta “Bán cho tôi một sợi giây” Cô ta hỏi “Giây đờn hả?” Hắn nói “Dây lưng!” Rồi phóng chạy mất tiêu, trong lúc tụi tôi đứng ngớ ra một lúc mới chen nhau chạy “thoát thân.” Từ đó tôi không bao giờ dám đi ngang qua tiệm Vạn Hòa. Cho đến mấy năm sau, tôi đi thử, liếc vào tiệm, thấy cô ta không thèm nhìn tôi, tôi mới yên trí là cô ta đã quên tôi rồi.
Lúc nhỏ, khoảng trên mười tuổi mà tôi còn nhớ những người và sự việc kỳ lạ, đối với tôi. Trước chợ Hội An có chùa Ông, trong thờ tượng Quan Công, mặt đỏ, hai bên có hai tượng đứng hầu là tượng Châu Thương, ốm nhách, tướng dữ dằn và tượng Quan Bình hiền lành hơn. Tôi rất sợ mấy tượng nầy, không dám nhìn, chỉ ngày lễ của người Tàu, đông người tôi mới dám vào ngắm tượng mấy con ngựa và đao kiếm bằng gỗ để dưới ngai thờ. Trước chùa có mái hiên, là chỗ hành nghề của mấy ông thầy bói. Họ mang kiếng đen, ốm và vẻ mặt buồn bã, có lẽ ế khách và đói bụng. Ngày lễ, người ta xin xăm, đem ra đọc thầy nghe, nhờ thầy đoán, lúc đó thầy mới có tiền. Thỉnh thoảng cũng có người đến hỏi thầy về chuyện gia đạo. Tôi với mấy thằng bạn “mất dạy” đứng phía xa kêu lên “Cầu gia đạo, cạo da đầu” mà không sợ vì biết các thầy không làm gì được chúng tôi. Nhưng hễ đi một mình, tôi làm bộ hiền lành, lân la đứng nhìn thầy gieo quẻ. Thầy thảy hai đồng xu xuống một cái dĩa, nghe lách cách nho nhỏ, rồi thầy mò mẫm tìm hai đồng xu trong dĩa, lấy ngón tay miết trên đồng xu để biết chẵn, lẻ. Thầy lại gieo nữa, cứ thế vài ba lần thầy mới phán cho thân chủ quẻ ứng ra sao. Tôi nghe thầy nói rất trôi chảy, như đã thuộc bài trước. Giọng thầy khề khà nhưng nghiêm trang. Lúc đầu toàn những lời dọa dẫm khiến thân chủ sợ hãi, sau đó thầy mới bày phương cách để trừ tai họa. Thân chủ thường là các bà lớn tuổi, người quê mùa, kính cẩn nghe lời thầy phán. Khi năn nỉ thầy điều gì phải kèm theo tiền để thầy “cải mệnh trời” mà cứu nhân độ thế. Tôi đứng nhìn và phục thầy quá! Không hiểu làm sao thầy biết được gia cảnh của thân chủ mà phán chính xác đến độ thân chủ vừa phục vừa sợ… Có một lần, tôi thấy một thầy bói mù đi tiểu. Thầy lần theo vách bức tường trước chùa Ông, mà đi. Đến chỗ góc tường của chùa, có lẽ thầy “đoán” là bụi cây hay đường hẻm, nên thầy vạch chim ra. Thầy không biết rằng, vách tường đó lại nằm trên một đường khác, ngay trước chợ, càng đông người hơn nữa. Lúc đó có mấy cô nữ sinh đi học về. Các cô nghiêng nón che mặt. Dĩ nhiên phải thấy cái gì mới nghiêng nón chứ!
Ngồi chung với các thầy có một ông ăn xin. Thực ra ông ta không xin, ai cho gì ăn nấy. Ông ta để tóc dài, quần áo tả tơi, trông giống mấy kiếm khách trong phim Nhật “Giặc Nữ Đa Tình” đang chiếu lúc bấy giờ. Rạp chiếu phim là cái nhà ngang, phía sau chùa Ông, ngăn ra để làm chỗ chiếu phim. Ông ăn xin nầy để móng tay dài, cũng vài phân tây. Ông ta ngồi im, bó gối, cú rũ, không buồn không vui. Ai thấy tội nghiệp, bỏ tiền vào người ông (trên đùi), ông ta cũng không nói tiếng nào. Nhưng đến chiều, ông ta gom tất cả tiền người ta cho, đem lên nhà bưu điện, gần Chùa Cầu, bỏ tiền đó vào thùng thư!
Còn một ông nữa, cũng tàng tàng, nhưng có gia đình chăm sóc, nuôi nấng, ăn mặc sạch sẽ, lịch sự thường đi lang thang suốt ngày trên đường phố. Ông ta cứ lặng lẽ đi, miệng lẩm bẩm tiếng Tây. Người ta bảo ông “cuồng chữ.” Ông có một tật lạ khiến tôi thường đi theo sau để xem. Hễ thấy ai đi giữa đường một mình, ông ta chạy tới thật nhanh và nhảy phóc qua đầu người ta như trong phim kiếm hiệp, khiến người đó thất kinh hồn vía!
Hội An bấy giờ còn có một nhân vật nữa là bà Lợi Điên. Bà ta còn trẻ, khoảng trên ba mươi. Bà ta cầm một cành cây, vừa đi vừa lầu bầu một mình, đôi khi nổi điên lên bà ta rượt đánh người đi đường, nhất là đàn ông, miệng chửi mắng, rồi đứng khóc “Sao anh bỏ em? Để em bơ vơ. Em nhớ anh!…” Người ta bảo bà ta thất tình. Nghe nói là có một cậu học trò nghèo, cha mẹ bà ta gả bà cho cậu ta còn nuôi nấng tử tế để cậu ta đi học, sau gửi cậu qua Pháp học tiếp. Khi học thành tài cậu ta ở luôn bên Pháp, lấy vợ Pháp, không chịu về Việt Nam nữa, bà ta thất tình thành người điên. Ít lâu sau nghe nói bà ta được đem gửi ra một căn nhà hoang gần chùa Chúc Thánh, vùng quê, cách Hội An vài cây số, để bà ta được nghe tiếng chuông mõ mà yên tĩnh tâm thần. Thế là trong những ngày nghỉ học, chúng tôi có thêm một thú vui nữa, là ra chùa Chúc Thánh chọc ghẹo bà Lợi Điên. Chúng tôi đứng từ xa kêu lên “Bà Lợi Điên! Bà Lợi Điên!” Bà ta đuổi đánh. Chúng tôi vừa chạy vừa cười vui. Có khi gọi mãi mà bà ta không rượt đuổi, chúng tôi từ từ đến gần hơn. Miệng vẫn kêu “Bà Lợi Điên! Bà Lợi Điên!” mà tinh thần rất căng thẳng và hồi hộp. Thế là thình lình bà ta vùng đứng lên, tay cầm roi rượt đánh. Những lần như thế chúng tôi chạy không kịp thở vì gần quá lại bất ngờ nữa. Nhưng như thế mới vui.
Trong thời gian ở tại ngôi nhà hoang, bà ta có một bà già săn sóc, lo cơm nước. Thế rồi một chuyện xảy ra. Có một anh lính ba trợn nào đó, tối nào cũng đến với bà Lợi Điên và tỉ tê “Anh là chồng em đây. Anh về với em…” … và bà Lợi Điên có chửa. Nghe nói sau đó anh ta chạy làng, nghĩa là trốn biệt. Chuyện đến chỗ nầy thuộc loại người lớn, tôi không còn để ý đến.
Ngoài chuyện chọc bà Lợi Điên, chúng tôi còn một thú vui nữa là bắn chim. Chim nhiều nhất là ở các chùa. Chúng tôi thường chui rào vào chùa bắn xoài và bắn chim. Chúng tôi dùng ná cao su, bắn đạn là những viên gạch, đá nhỏ. Thế nên, hễ nghe tiếng lóc cóc của mấy viên sỏi lăn trên mái chùa là các chú tiểu cầm roi rượt. Các chú nầy đều lớn hơn chúng tôi nhiều nên rượt rất nhanh. Có lẽ mục đích dọa cho chúng tôi sợ hơn là đánh đuổi. Nhưng các chú tiểu rượt rất lâu khiến chúng tôi chạy xanh mặt, quay lại vẫn thấy “ông thầy chùa” còn cách mình chỉ năm ba mét! Đuổi càng gần, các chú dậm chân càng mạnh, chúng tôi càng quýnh quíu chạy muốn hụt hơi. Đến khi chú tiểu dừng lại, chúng tôi vẫn cứ chạy, cả mấy trăm thuớc mới nằm lăn ra đất và thở. Ấy vậy mà hễ chùa có vía Phật hay lễ gì đấy, thiện nam, tín nữ ra vào tấp nập là làm gì chúng tôi cũng giả bộ hiền lành, vào chùa với vẻ kính cẩn, mộ đạo lắm. Mục đích để được chùa cho ăn chay. Đến giờ trưa, chùa dọn cơm chay ra, ai muốn ăn thì ngồi vào, của chùa mà! Bây giờ, nhớ lại tôi vẫn còn thèm cơm chay của chùa. Ngon hơn cơm chay tiệm rất nhiều.
Hội An là một thị trấn nhỏ, mọi người lại biết nhau, nên xảy ra một chuyện gì nhỏ nhặt, chỉ năm phút sau là “Thượng Chùa Cầu, hạ Ông Bổn” (hai đầu của thị xã) biết hết. Có một bà đi chợ về dọc đường rêu rao “Có dị nhân xuất hiện dưới chợ.” Tôi chạy xuống xem. Hóa ra là có một ông, không hiểu người xứ nào, Trung Đông, Ả Rập gì đấy, lạc vào Hội An. Người ta xúm quanh ông ta, đứng nhìn sa đà. Tôi cũng chen vào xem. Ông ta cũng là người thường, nhưng khi người ta mời ăn cơm với cá, thịt, ông ta lắc đầu. Ông ta chỉ đòi ăn bánh mì với củ cải trắng và uống bia. Ông ta không nói được tiếng Việt, đối với dân Hội An đã là rất quái dị, lại thêm chuyện ăn uống không giống ai, người ta đồn nhau đến xem cũng đúng thôi. Hội An như một cái túi, bị lãng quên từ lâu, ánh sáng văn minh không đến được nên bọn trẻ cũng thành lạc hậu. Một lần, có chiếc xích lô máy chạy vào Hội An, vậy là mọi người rùng rùng đi xem, nhất là để nghe tiếng xích lô nổ máy ầm ầm “Hắn kêu răng mà nghe điếc óc, điếc tai!” Họ chưa bao giờ thấy chiếc xích lô máy. Có chăng là trên bìa mấy quyển vở, có hình chiếc xích lô máy với người chạy xe trông rất giống ca sĩ Chế Linh.
Hội An thời tôi còn nhỏ, khoảng đệ thất, tôi còn nhớ được một chuyện khác là về con chó của ông chủ tiệm thuốc tây Đức Phú trên đường Lê Lợi. Đó là con chó Bẹt rê (berger?) rất to. Con chó nầy thường cột sau nhà, nhưng ai vào mua thuốc tây, nó ở nhà sau sủa lên “gầu! gầu!…” nghe đã khiếp, thành ra tiệm ế khách. Một lần có ông nhà quê đi ngang qua, nó sủa, ông ta đứng lại, dòm vô nhà và nói “Mầy ngon ra đây! Tao bắt làm thịt cho rồi.” Ông ta cứ đứng nói như thế mãi. Ông chủ tiệm giận quá mới bảo “Ông bắt được thì tôi cho ông. Nhưng nó cắn thì ông ráng chịu. Dám không?” Ông nhà quê trả lời “Khó chi! Ngày mai tôi ra đây, có đem sẵn cái bị, ông thả chó ra, tôi bắt về làm thịt ăn chơi.” Tưởng nói giỡn, không ngờ hôm sau ông nhà quê đến với thằng con trai. Ông ta đứng trước cửa vỗ vỗ tay khiêu khích, con chó sủa rân trời. Ông Đức Phú mới mở dây xích, con bẹt rê trong nhà phóng ra, nhào lên người ông nhà quê để cắn. Không ngờ bị ông ta khóa cổ, thằng con đứng sẵn bên cạnh, mở cái bao tải ra, ông ta bỏ con chó vào trong bao tải rồi hai cha con xách đi thẳng! Ông chủ tiệm chưng hửng!
Ông Đức Phú có hai người con trai. Thời tôi mới lên đệ thất thì hai anh nầy đã lớn, học trên tôi rất xa, có lẽ cũng đệ tứ, đệ tam là ít. Người anh thì hiền nhưng người em thì “hoang trổ trời.” Có một giáo sư thường sai anh ta ra nhà ông phu trường mua nước ngọt đem vô lớp cho thầy. Anh ta mua rồi uống trước và đổ nước lạnh vào cho đầy ly. Giáo sư uống cứ chê nước ngọt nhạc thếch chứ không biết đã bị anh ta uống bớt. Ông Đức Phú, là cha của anh thường bắt anh học bài rồi dò bài xem có thuộc không. Ông Đức Phú lãng tai, mỗi khi bị cha kêu ra, anh ta phải ngồi trước mặt và đọc bài trong khi cha anh ngồi trên ghế xa lông, cầm quyển vở có bài học của anh để kiểm tra xem có thuộc không. Ông ta không biết rằng người anh đã lẻn ra đứng sau lưng. Người anh cứ dòm vô bài mà cha anh đang cầm trên tay và đọc nho nhỏ, anh ta chỉ việc nhắc lại thật to. Cha anh lãng tai, không nghe người anh nhắc bài, tưởng anh ta thuộc bài rồi.
Nói đến Hội An là người ta nghĩ đến Chùa Cầu. Đó là biểu hiệu của Hội An cũng như chợ Bến Thành là biểu hiệu của Sài Gòn vậy. Lịch sử Chùa Cầu thì sách vở có nói nhiều, nhưng những người không đọc sách và bọn nhỏ tụi tôi thì có một lịch sử khác. Rằng bên Nhật thường bị động đất, nhà sụp người chết, năm nào cũng xảy ra. Thầy địa lý Nhật bảo rằng, động đất là tại vì con cù (rồng đất) thường quẩy đuôi. Muốn cho nó khỏi quẩy đuôi, phải ếm cái đầu, không cho cục cựa. Mà cái đầu nó lại nằm tại Hội An trong khi cái đuôi lại nằm bên Nhật!? Mấy ông phù thủy Nhật đến Việt Nam xây cái chùa trên đầu con rồng, còn ếm thêm một cây gươm dưới đất cho con rồng hết đường cục cựa. Vậy là bên Nhật không còn động đất nữa. Chúng tôi tin lắm. Tuổi trẻ con, những chuyện truyền kỳ đó, đương nhiên phải là có thật. Thế nên, thỉnh thoảng chúng tôi rủ nhau xuống dưới lạch nước, dưới Chùa Cầu lấy cây thọt khắp nơi, hi vọng thấy được lưỡi gươm. Nhưng thọt mãi, chỉ thấy rác rến hôi thối, gớm ghiếc!
Lên trung học tôi hết tin chuyện con cù, nhưng Chùa Cầu giúp tôi một dịp được một đứa con gái ôm. Số là một buổi tối, tôi đi lang thang gần đến Chùa Cầu thì thấy một cô bé cứ đứng thập thò chỗ cột điện mà không dám qua cầu. Khi tôi đi đến thì cô ta đi theo sau lưng. Trong cầu tối lù mù như động ma lại thêm mấy cây nhang khi mờ khi tỏ trước tượng mấy con khỉ, con chó càng thêm rùng rợn… Khi đến giữa cầu, tôi bỗng dừng lại và kêu lên “Ma kìa!” Vậy là cô ta nhảy tới ôm tôi cứng ngắt. Tôi cũng ôm lại cô để dìu cô qua cầu. Khi ra khỏi cầu cô bỏ chạy mất. Lần đầu trong đời, được một đứa con gái ôm, tôi về khoe tùm lum với tụi bạn, đứa nào cũng suýt soa rằng tôi gặp may. Tôi không biết mặt mũi cô bé đó ra sao, nhưng vẫn còn nhớ đến bây giờ.
Hội An có một thú vui nữa là lội nước lụt. Sau nầy lớn lên đi làm việc ở Huế, năm nào Huế cũng có lụt mà chẳng thấy cô cậu học trò Huế nào lội nước lụt như bọn nhóc tụi tôi ở Hội An. Hàng năm, đến mùa đông mưa dầm là chúng tôi cầu cho nước lụt. Bọn trẻ con chúng tôi đâu có nghĩ đến nỗi khổ của người dân thôn quê mỗi khi có thiên tai. Trẻ con ở Mỹ mỗi khi có bão tuyết cứ mở TV ra là biết mình được ở nhà. Lúc xưa ở Hội An, chúng tôi biết chắc là được nghỉ học vì nước lụt nhưng vẫn phải đến trường, cô thầy cũng phải đến trường. Sáng đó thầy hiệu trưởng cho người lên ty tiểu học nhận chỉ thị cho nghỉ học hay không mới về trình lại thầy hiệu trưởng. Lúc đó mới thông báo từng lớp biết. Buổi sáng đó chúng tôi đến trường, vào lớp ngồi chỉnh tề, có cô thầy nhưng ai cũng ngóng chờ tin, chẳng học hành, bài vở gì cả. Chúng tôi rủ rê, bàn tán nhau chuyện lội nước lụt. Đến khi nghe tin cho về là học trò cả trường la ó, ùa ra khỏi lớp, mặt mày sáng rỡ. Đa số chúng tôi không về nhà vì sợ cha mẹ cấm lội nước lụt vừa nguy hiểm vừa có thể bị cảm lạnh. Nguy hiểm vì có cậu học sinh ngồi trên thuyền vừa đánh đàn vừa hát với chúng bạn rất là nên thơ, thình lình thuyền bị lật úp mà cậu không biết bơi nên chết chìm! Nhưng đó là chuyện hi hữu. Tai nạn chúng tôi thường gặp là bước hụt chân từ trên lề xuống lòng đường, nước ngập đến ngực. Đa số chúng tôi thường lận vở vào bụng, thế là vở bị ướt mem, nhòe nhoẹt hết cả! Đường ngập nước chúng tôi thường lội là đường Nguyễn Thái Học, nước không chảy xiết lại tấp nập thuyền và người nên rất vui. Những đứa có tiền thì thuê thuyền chèo lên chèo xuống dọc đường phố. Những người ở hai bên đường đứng trên lầu thòng những cái giỏ nhỏ, trong có tiền, xuống cho những người bán quà rong bằng thuyền, lấy tiền và bỏ hàng vào giỏ, người trên lầu kéo lên… Chúng tôi cứ lội nước như thế cho đến trưa mới về nhà ăn cơm.
Tôi có thằng bạn tên Trần Ngọc Lợi, kể chuyện nước lụt rất hay. Nhà nó trước bờ sông Bạch Đằng. Bờ sông Bạch Đằng thì thyền bè cũng không dám héo lánh nói gì người ta. Nước chảy rất xiết mà sông thì cuồn cuộn, mênh mông, lênh láng. Nhà cửa bên kia bờ sông (Cẩm Nam?) ngập đến nóc, cây cao nhất cũng chỉ lú cái ngọn. Thằng Lợi ở chỗ như thế nên nó có quyền kể những chuyện mà không ai kiểm chứng được. Mà mùa lụt nào nó cũng có một vài chuyện hấp dẫn để kể cho tụi nhóc chúng tôi nghe. Tôi chỉ còn nhớ được vài chuyện mà đến bây giờ tôi vẫn còn thấy thú vị, huống gì lúc còn bé.
“Hôm nước lụt ngập cả tầng dưới, cả nhà tao phải dọn hết lên lầu, nhưng vẫn để cửa ra vào ở tầng dưới cho cá vào tránh nước lụt. Cá nhiều lắm, tao ngồi ở thang lầu câu một lúc là đủ cá ăn cả ngày. Một buổi sáng, tao cầm cần xuống cầu thang thì thấy một con rết, to bằng cái đòn gánh, nằm khoanh tròn trên tam cấp cầu thang. Tao lấy cái thúng úp lên rồi kêu ba tao xuống coi. Ba tao lấy cái thùng sắt bự, bỏ con rết vô nhốt lại. Tụi bây biết không? Tối đến, cái thùng sáng trưng như có thắp đèn. Ba tao bảo con rết nầy đã tu thành chánh quả nên có ngọc…”
Tụi tôi nóng ruột, hỏi “Sao không giết đi mà lấy ngọc?”
“Đâu có được! Giết con rết thì ngọc tiêu ra nước ngay. Tụi bây chả biết gì! Ba tao lấy một cái rổ thưa, đặt trên một cái lu, trong lu có nhiều nước rồi làm thịt con gà, bỏ trên rỗ và bắt con rết cho vô rổ. Rết rất thèm thịt gà, nó phải nhả viên ngọc đang ngậm trong miệng ra để ăn thịt gà, vậy là viên ngọc lọt xuống dưới rỗ rơi xuống nước, con rết chịu thua, không cách gì lấy lại viên ngọc vì đã chìm xuống đáy lu rồi. Ba tao giết con rết và lấy viên ngọc.”
Tụi tôi nhân đạo “Giết nó chi cho tội nghiệp!”
“Không giết, nó cắn chết người giữ ngọc để lấy lại viên ngọc. Tụi bây biết viên ngọc nầy dùng làm gì không? Người nào lận nó trong người thì nghe hiểu được các loại côn trùng, súc vật, chim chóc nói chuyện với nhau. Trước trận lụt vừa rồi, ba tao nghe bọn kiến nói với nhau “Hai mươi âm lịch nầy, nước sẽ dâng cao, chúng ta phải mau mau đưa trứng và lương thực lên lầu gấp.” Nghe được như thế, ba tao ra lệnh phải lo dọn đồ đạc lên lầu. Đúng ngày hai mươi, tao ngủ dậy, thấy nước đã vô nhà. Sang năm tao sẽ báo trước cho tụi bây biết ngày nước lụt để chuẩn bị nghỉ học, lội nước lụt…”
“Bộ mầy nghe được tiếng bọn kiến chuyện trò à?”
“Không! Ba tao nghe. Tao có xin mượn ba tao viên ngọc, nhưng ba tao không cho vì tao nhỏ tuổi, nghe tiếng súc vật sẽ giảm thọ.”
Lần khác nó kể chuyện Long Vương lấy súc (cây gỗ lớn).
“Bữa đó nước lên rất cao, tao đi ngủ sớm. Đến khuya, tao bỗng nghe ngoài sông có tiếng trống đánh và tiếng hò hét như đang có chiến trận. Tao mở mắt ra thì thấy ba tao đang đứng ở cửa sổ nhìn ra sông. Tao chạy đến nhìn thì thấy ngoài sông đèn đuốc sáng rực, binh tôm tướng cá ngồi trên những súc gỗ to tướng, vừa hò reo, vừa chèo. Nước chảy đã nhanh mà gỗ trôi càng nhanh hơn, cứ vùn vụt như tàu thủy. Mỗi súc gỗ có một con rồng nhỏ đứng chỉ huy, có lẽ đó là các con của Long Vương. Năm nào Long Vương cũng cho binh tướng ngược giòng nước lũ, lên rừng đốn gỗ về biển Đông xây cung điện dưới thủy cung.”
“Nhưng tôm cá làm sao chèo được?”
“Tôm cá lúc đó cũng có tay chân như người thường vậy, nhưng mặc đồ đẹp lắm. Họ mặc đồ xưa giống trong hát bội.”
Những chuyện nó kể là vào thời tiểu học, lên trung học, tôi biết là nó xem chuyện cổ tích và chuyện tàu, tranh tàu mà phịa ra. Nhưng lúc còn nhỏ bất cứ chuyện cổ tích nào cũng làm cho trí tưởng tượng của chúng tôi bay bổng đến những thế giới thần tiên và chúng tôi tin những chuyện đó là có thật. Bây giờ thì hết tin rồi và chắc là bạn cũng không tin. Nhưng hiện nay, vùng thôn quê dọc hai bên sông Thu Bồn ở Quảng Nam, người ta vẫn coi chuyện đó là đương nhiên, họ còn xác nhận với bạn “Chính mắt tôi thấy rõ ràng. Mấy súc gỗ đó trôi giữa giòng nước lũ, không ai dám vớt vì trên đó có mấy con rắn thần to tướng trấn giữ. Ban đêm các ngài binh tôm tướng cá mới hiện ra chèo mấy súc gỗ đó về biển Đông…” Nước lụt thì rắn rết, chồn cáo, chuột bọ… phải bám vào cây cối trốc gốc trôi nổi để tị nạn là chuyện thường.
Thằng Trần Ngọc Lợi nầy đã làm một chuyện động trời. Đó là năm đệ tứ, nó đã tò tí với cô Xuân Lan, bạn học cùng lớp, cô ta có chửa và nó cưới làm vợ.
Nó là đệ tử ruột của ông võ sư Năm Sửu. Ông ta truyền nghề võ cho nó nên ở Hội An, nó là tay trừ gian diệt bạo. Cô bồi, du đãng mà hó hé, nó kêu ra dợt cho một trận là êm re. Thằng Lợi, tuy có vợ, có con mà vẫn ham chơi như tụi tôi. Vợ chồng nó sống bám vào cha mẹ, nên nó vẫn thế.
Chúng tôi lên trung học lại có một trò bất lương là bắt gà trộm nấu cháo ăn. Cứ chạng vạng tối là tôi đi rảo khắp các xóm, dòm ngó xem mấy con gà nhà người ta đi ngủ chỗ nào. Đến tối, thằng Lợi chở tôi đến bằng xe đạp, tôi leo rào vào, ôm gà ra và nó đạp như gió cuốn. Chúng tôi rất thú vị với trò nầy, vừa hồi hộp vừa sợ, giống như lúc nhỏ chọc ghẹo bà Lợi Điên hay bắn chim trong vườn nhà chùa vậy. Tôi bắt gà rất tài, không con nào kêu cả. Tôi lòn tay dưới bụng con gà và nâng nhẹ lên, con gà chỉ kêu cúc cúc nho nhỏ chứ không vùng vẫy, kêu la gì cả. Khi nào không tìm thấy gà người ta để bắt trộm, tôi về trộm gà ở nhà, của má tôi nuôi, đem lại nhà thằng Công nấu cháo. Khi bị mất gà, má tôi chửi thôi, bể làng bể xóm, chửi khơi khơi chứ có biết ai ăn trộm gà đâu? Tối thứ bảy mất gà, sáng chủ nhật, điểm danh mấy con gà, thấy vắng mặt một con là má tôi chửi. Tôi đang ngủ phải vùng dậy bỏ đi!
Khi nào không có gà thì thằng Mạc Phi Hoàng rủ tôi lên lầu nhà nó bắt bồ câu để tối đem đến nhà thằng Công. Bồ câu già nấu hoài vẫn dai nhách, nuốt không vô! Nhưng có cháo để xì xụp với nhau là vui rồi.
Thằng Công là nhân vật tôi đã kể ở mấy chuyện khác. Ba nó đi làm xa, chỉ có mẹ ở nhà. Bà ta rất hiền và thương con, tụi tôi đến làm gì mặc kệ. Nó có mấy đứa em, thằng em trai tên Bổn, sau thành nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ. “Dạ Vũ” không phải là ca nhạc nhảy đầm như ở Mỹ mà có nghĩa là đêm mưa. Thằng Công chỉ biết có một bài hát duy nhất, từ tiểu học đến trung học cũng chỉ bài đó “Anh ơi, tôi lên đường phố cũ tìm anh chiều hẹn hò. Trao nhau niềm vui cuối tuần. Vì hơn mấy lần… Ai quen ai khi bàn tay trót nằm trong bàn tay rồi…” Trong lớp học, hễ giảng bài xong, còn dư mấy phút, thầy cô thường bảo “Ai biết hát, lên hát một bài.” Vậy là tụi tôi đẩy nó lên”Công! Lên hát Anh ơi tôi lên đường phố cũ đi!” Cũng có một thằng khác tên Vương Tử Hoàng, cũng chỉ một bài, hát hoài, từ tiểu học lên trung học “Đêm dâng với ngọn triều. Dô tà dô kéo thuyền nhổ neo. Vi vu buồm lên cao. Dô tà dô sóng reo dạt dào..” Hai đứa hắn hát mãi như thế khiến cả lớp đều thuộc lòng. Về sau, lớn lên, lang bạt khắp nơi, nhưng mỗi lần nghe lại những bài hát đó, đứa nào cũng nhớ Hội An, nhớ bạn bè, nhớ hai thằng ca sĩ “chỉ biết một bài duy nhất.” Như tôi đã kể trong vài chuyện khác, thằng Công thường bị bạn bè trong lớp đem ra làm nạn nhân để chọc ghẹo nữ giáo sư mới, trong mỗi đầu niên học, (Với nam giáo sư thì chúng tôi không thấy vui). Đó là khi cô kêu thằng Công lên trả bài là chúng tôi thưa “Công ngủ rồi cô!”…
Đối vơiù nữ giáo sư, tôi chẳng ngán. Đến giờ trả bài, tôi thường không thuộc bài, nên lẻn xuống cuối lớp, ngồi thụp, sau lưng bạn, im re. Khi giáo sư kêu tên tôi lên trả bài, các bạn biết “hoàn cảnh” tôi, nên thưa là tôi vắng mặt. Hết giờ trả bài, tôi lại về chỗ cũ mà ngồi. Giáo sư có thấy, hỏi sao lúc nãy đi đâu? Thì tôi thưa “Em không thuộc bài nên em trốn dưới gậm bàn.” Có giận thì cho hột vịn lộn, còn hơn lên bảng mà ấm ớ, mất mặt nam nhi!
Thằng Công có mấy đứa em gái, rất hiền, chuyên môn lúc thúc dưới bếp nấu cháo gà. Chúng tôi ở trên lầu tán phét chờ ăn cháo. Có một chuyện bắt gà trộm mà tôi vẫn nhớ mãi. Một thằng bạn khác hình như tên Bòng, rủ tôi đi bắt gà trộm. Tôi chỉ nó cách bắt gà nhưng nó chê, bảo rằng cách của nó ngon hơn “Cứ nắm cổ gà cho thật chặt, rồi ôm chạy, ai biết được?” Thế rồi tôi theo nó. Nhiệm vụ tôi đứng ngoài rào, canh chừng, nó leo rào vào… Một lần, nó vào sau hè nhà người ta, lát sau đi ra. Tôi không thấy nó ôm gà mà cầm vật gì trong tay, cứ đưa ra phía trước và đi hối hả ra đường. Tôi đi theo, ra ngoài đường chính, có ánh đèn điện. Trời đất quỉ thần ơi! Nó cầm trong tay đầu một con rắn. Mình con rắn quấn quanh cánh tay nó. Tôi hoảng kinh, đứng đằng xa mà nhìn chứ không biết làm sao cứu nó. Thế rồi nó ngồi xuống lề đường, dưới trụ điện, bắt đầu mài đầu con rắn xuống mặt đường nhựa. Thì ra có một loại rắn, gọi là rắn rồng hay gì đấy, thường vào nhà bắt chuột hoặc ăn trộm trứng gà trong các ổ gà. Con rắn cứ nuốt nguyên trứng gà vào bụng, chỉ một lát sau là ói cái vỏ trứng dẹp lép ra, tròng trắng, tròng đỏ đã tiêu hóa hết cả rồi. Vì con rắn cũng đang rình, tìm cách ăn trộm trứng gà của con gà mái đang ấp. Con rắn đang ngóc đầu chờ dịp thuận tiện bên cạnh ổ gà. Vậy là thằng bạn tôi tưởng là đầu gà, cứ nhè đầu rắn mà chộp lấy. Khi biết chộp phải con rắn, nó không dám buông ra và cứ nắm chặt đầu rắn mà đi. Nó ngồi mài mãi, con rắn đã chết, thân hình đã buông lỏng, không còn quấn vào cánh tay nó nữa, nó vẫn cứ mài. Khi tôi đến gần, thấy thế bảo nó là con rắn đã chết rồi, nó mới ngừng tay. Tôi thấy đầu con rắn mòn hết thâm đến thịt da tay, nó vẫn mài. Lớp thịt tay nó, chỗ ngón cái và ngón trỏ bị mòn, chảy máu tùm lum mà nó không biết. Sáng hôm sau, đi học, tay nó băng vải, không chép bài được. Từ đó nó không dám bắt gà trộm nữa.
Bây giờ tôi xin nói chuyện tình yêu. Người Pháp có câu “Người mà không có tình yêu như quả đất không có mặt trời.” Tôi không hiểu rõ câu đó, nhưng quả thật, tuổi mới lớn mà không có người để yêu thì chán hết sức. Khổ nỗi, yêu thì được, nhưng làm thế nào để tỏ tình? Đâu phải thời đại văn minh bây giờ, mới nứt mắt đã bồ bịch tùm lum. Lại thêm cái computer là phương tiện để các cô, các cậu “chat” thoải mái. Đôi khi còn cho nhìn những bí mật của nhau nữa. Thời tụi tôi thì vô phương, lại thêm thành phố nhỏ, hơi chút là thiên hạ ầm ỹ ngay. Chỉ trường hợp thằng Lợi với cô Lan là thiên hạ chịu thua, chúng giữ kín bưng, bạn học ngồi bên cạnh cũng không biết! Sau nầy tôi hỏi thằng Lợi. Nó kể, đại khái, hai đứa viết thư cho nhau rồi bỏ trong quyển vở, sau buổi học, giả vờ mượn vở để về chép bài…Khi tình đã “lên men giấm” nó rủ rê em đi tắm biển Cửa Đại. Mà đi vào buổi tối, chẳng ai thấy. Bãi biển cửa đại, có rừng dương liễu, kéo vào đó thì như vào “đám lá tối trời,” lại vào ban đêm thì đất cũng tối thui! Cô Lan, gia đình ở dưới quê, lên Hội An trọ học, chẳng ai “quản lý,” mới ra nông nỗi! Tụi nó mới đệ tứ, khoảng mười lăm, mười sáu mà thành vợ chồng, trong khi bọn tôi đã học đệ nhị mà vẫn cứ vác quả tim cô đơn, cà lơ thất thểu trên đường phố, mà chẳng thấy người đẹp nào chịu đưa bàn tay ra đón nhận. Hình như bọn con gái cũng thế, coi bộ còn khó khăn hơn. Không lẽ thương ai, mình là con gái, lại đi tỏ tình trước! Mà có ngỏ ý cũng vô ích. Bọn con trai chỉ để ý đến người chúng thích thì có vác loa mà chõ vô tai nó hét lên “Em yêu anh!” nó cũng phe lờ. Bởi vậy mới có tình yêu đơn phương. Gì chứ những mối tình đơn phương thì tôi thiếu khối. Tôi cứ chọn những cô đẹp nhất, dễ thương nhất trường mà yêu. Yêu một chiều, chẳng làm phiền ai, nên nhiều cô không biết. Tôi xin kể sau đây, một trong những mối tình đơn phương đó, kể ngắn thôi, để bạn khỏi chán.
Năm đó tôi học đệ tam. Trường Trần Quí Cáp, Hội An, vì thiếu phòng học nên một phòng giành cho hai lớp. Buổi sáng một lớp, chiều lớp khác. Tôi học buổi sáng. Là vua trốn học nên thỉnh thoảng tôi và vài đứa nữa, leo cửa sổ, chui rào (lúc đó trường chưa xây tường) chạy đi chơi. Cứ tưởng tượng chui khỏi rào, đứng nhìn các lớp học lặng trơ, tụi bạn phải trả bài, làm bài, còn mình thì thảnh thơi, mới thấy cái thú trốn học. Chúng tôi thích nhất là đi tắm sông. Bơi lội, hò hét, đùa nghịch cho đến chán thì mặc áo quần, trở lại trường, lại chui rào, vào lớp học tiếp. Thân thể mát mẻ, tinh thần thỏa mái, học thêm mấy giờ nữa là tan trường!
Một lần, tôi với thằng bạn trốn học, xuống phía chùa Sư Nữ tắm sông. Khi chúng tôi chuẩn bị lên bờ thì có hai chị đàn bà ôm áo quần xuống bến giặt giũ. Không biết hai chị tâm sự gì mà cứ nói mãi, chúng tôi không thể lên bờ mặc áo quần được. Vì bến sông đó thuộc vùng quê, thường xuyên vắng vẻ, nên chúng tôi tuy đã học đến đệ tam mà vẫn cứ tắm theo kiểu ông Adam, nghĩa là không mặc đồ lót, sợ ướt lây qua quần dài, vào lớp thì kỳ cục. Thế là chúng tôi cứ lội lên, lội xuống mãi cho đến trưa, hai chị đàn bà ra về, mới lên mặc đồ, vội vã đến trường, thì đã đến giờ của lớp buổi chiều. Sáng hôm sau đi học, thấy trong hộc bàn, sách vở vẫn còn nguyên, nhưng có thêm một mảnh giấy nhỏ, trên đó có mấy câu, chê rằng đi học mà đút vở bụi tre, không biết xấu hổ. Thấy nét chữ chân phương, tôi đoán là chữ con gái nên để ý xem cô nào đã ngồi chỗ của tôi. Hóa ra đó là cô Lê Thị Thanh học lớp đệ ngũ. Cô nầy có biệt danh là Thanh Móm, chiếc miệng móm khiến cô trở thành cô bé có duyên nhất trường. Đôi môi cô hồng tự nhiên như mím lại, dễ thương hết sức! Tóc cô nhiều, phủ đầy lưng, đôi mắt thông minh, sáng trưng… Được một người đẹp như thế ngồi chỗ của mình, tôi dại gì mà không viết thư bỏ hộc bàn! chẳng phải thư mà chỉ là mảnh giấy nhỏ. Tôi viết bằng tiếng Anh, khi làm thơ tặng cô thì tôi viết tiếng Việt. Tôi học đệ tam, ban C (văn chương) mà tiếng Anh, tôi viết xong, về nhà giở tự điển ra mới thấy trật bậy, trong khi cô trả lời, có những chữ tôi không hiểu! Tôi làm thơ tỏ tình thì cô nói sang chuyện học hành, đại ý muốn cô trả lời thì phải chăm học, không được trốn học nữa… Cứ cách vài bữa, tôi tặng cô một bài thơ, có khi chỉ vài câu, toàn thơ con cóc. Suốt một năm như thế, (được một bầy cóc!) nếu chép ra, chắc cũng phải một tập thơ dày.
Cô Thanh học rất giỏi, năm nào cũng lãnh phần thưởng nhất lớp, đôi khi còn thêm phần thưởng hạnh kiểm toàn trường nữa. Năm nào, lễ phát phần thưởng, tôi cũng đến dự để được ngắm cô yểu điệu lên lãnh thưởng. Cô còn nhỏ nên đôi khi ôm phần thưởng lớn, che cả mặt, không thấy đường, tôi rất hồi hộp và thương cô vì sợ cô vấp ngã.
Hết năm đệ tam thì tôi không còn ngồi chung chỗ với cô Thanh nữa. Nhưng buổi tối, tôi thường đi ngang nhà cô, để được thấy cô ngồi học ở một bàn nhỏ trong phòng khách. Từ năm đệ nhị, tôi phải gạo bài để thi tú tài, nên tối nào tôi cũng thức khuya. Đang học bài, tôi thường buông sách vở, lang thang ngoài đường phố một lúc cho thảnh thơi tâm trí, để về học tiếp. Dù đi đâu, tôi cũng phải vòng xuống phía chợ, ngang qua nhà cô Thanh một lần. Đôi khi, cô đang học, nhìn ra, thấy tôi, cô đứng dậy, bước ra cửa để tôi được gặp. Chúng tôi chỉ nói vơ vẩn mấy câu, độ năm mười phút, rồi cô bảo “Về học bài đi! Sắp thi rồi.” Nghe thế, tôi ngoan ngoãn đi về, lòng sung sướng lắm, học bài mau thuộc!
Thời đó, khoảng thập niên sáu mươi, có phong trào học trụ điện. Nghĩa là ban đêm, vắng vẻ, bọn học trò đem sách vở ra ngoài các trụ đèn đường, ngồi học bài cho đỡ buồn ngủ, lại có thêm bạn bè, thỉnh thoảng trò chuyện cũng vui. Chúng học đến gần sáng mới vào nhà ngủ. Bọn con gái không ra trụ đèn học bao giờ. Tôi cũng thế. Tôi có cách học riêng. Mỗi ngày tôi tự ra lịnh cho mình học đủ tám tiếng (ở nhà). Ví dụ đang học, chỉ mới mươi phút, buồn ngủ, tôi lăn ra ngủ, nhưng ghi rõ mười phút, dậy học tiếp độ hai giờ, buồn tình, tôi buông sách đi chơi, tôi ghi thêm hai giờ nữa… Miễn sao ngày đó phải đủ tám tiếng. Thế nên bọn học trụ điện cứ thấy tôi, đêm khuya còn lang thang ngoài đường, vậy mà thi tú tài vẫn đậu?!
Thế còn chuyện tình của tôi với cô Lê Thị Thanh đi đến đâu? Thì tôi đã nói trước, đó là tình yêu đơn phương, làm sao có chuyện éo le, gay cấn để kể ra!
Từ năm tôi học đệ tam đến năm đệ nhất, thi xong tú tài hai, tôi và cô Thanh chỉ gặp nhau vào buổi tối, nói với nhau vài câu… Suốt mấy năm, cũng chỉ có mấy câu chào hỏi đó thôi. Tôi không biết cách nào tỏ tình, mà cô thì, có lẽ xem tôi như người bạn hay người anh, nên hai đứa không tiến thêm một chút thân tình nào. Có duy nhất một lần. Tối đó, tôi đến để từ giã cô vào Sài Gòn học đại học. Cô ra cửa, đứng cạnh tôi. Vô tình, tay cô chạm vào tay tôi. Chạm nhẹ thôi. Vậy mà tôi sung sướng đến ngẩn ngơ. Ngẩn ngơ mãi.
Chuyện tình yêu của tôi chỉ chừng đó! Nhưng suốt đời, tôi coi như “một mối tình” vì sau đó, tôi chẳng yêu ai và cũng chẳng ai yêu tôi cả!
Đọc đến đây, chắc bạn đã chán ba chuyện yêu quái lẩm cẩm của tôi rồi. Tôi xin kể qua chuyện tôi về lại Hội An, sau mấy chục năm xa thành phố cổ đó.
Tôi từ Mỹ đi máy bay về Sài Gòn, rồi đón xe về Hội An.
Hội An vẫn thế, nhưng nó đã mất cái hồn, mất cái tình đối với tôi rồi. Tôi như người ngoại quốc đến một xứ lạ, cứ đi lơ ngơ, nghiêng ngó mà không gặp được một người quen. Trước giờ vẫn thế. Tuổi trẻ Hội An, lớn lên là như con chim xa tổ. Đứa nào cũng nghĩ đến một phương trời khác, thế là chúng đi biệt. Sau năm bảy lăm đổi đời, chúng bay còn xa hơn, đến cả phương trời tây. Đứa bị kẹt lại cũng tìm cách ra khỏi Hội An. Vô Sài Gòn, ra Đà Nẵng, chí ít cũng Tam Kỳ, Tiên Phước…
Buổi tối, gần về khuya, mọi người đều rút vào nhà. Đường phố hẹp, vắng tanh trong ánh đèn vàng vọt, khiến con đường hun hút, âm u như đường hầm. Tôi lang thang ngang qua nhà các bạn cũ. Tôi nhớ các bạn tôi nhưng chúng không còn ở đấy nữa! Tôi đi theo các con đường mà trước đây, tôi thường đi. Tôi cũng vòng xuống ngã chợ, nơi nhà cô Thanh. Vẫn mái hiên nơi cô và tôi thường đứng chuyện trò, nhưng cô đã đi rồi! Nếu còn, cô cũng đã lớn. Cô nữ sinh bé nhỏ ngày xưa đã hoàn toàn đi vào quá khứ!
Hội An đã lạ, tôi càng lạ hơn. Cậu học sinh năm xưa, tâm hồn trong trắng, tự tin nay đã thành một người lớn tuổi, chán ngán sự đời. Bãi bể nương dâu. Công danh sự nghiệp như phù vân. Ngẫm lại, chỉ thấy thời đi học là thần tiên hơn cả.
Tôi về lại Sài Gòn, tìm thăm một người bạn, tên Châu Đình Khôi. Anh ta là anh rể của cô Lê Thị Thanh, cho biết cô Thanh, nay đã là góa phụ, có hai con, học hành nên người. Tôi ngỏ ý muốn đến thăm cô. Người bạn đưa tôi đến nhà cô, gần ngã tư Bảy Hiền.
Cô Thanh vẫn thế, tuy có vẻ chững chạc hơn. Môi vẫn hồng duyên dáng, mắt vẫn sáng, thông minh. Gặp tôi, cô mừng rỡ lắm. Cô nhìn tôi với ánh mắt triều mến.
Mục đích tôi đến thăm cô là để xin lỗi cô về những bài thơ, câu thơ tỏ tình, đã làm phiền cô. Vì lúc đó cô còn nhỏ quá, học đệ ngũ, khoảng mười bốn, mười lăm, đâu biết gì! Thế nên tôi mới nhắc chuyện cũ.
- Thanh còn nhớ? Lúc Thanh học đệ ngũ, anh học đệ tam. Hai đứa ngồi cùng một chỗ, anh thường viết cho Thanh, để trong hộc bàn…
- Anh để trong hộc bàn còn quí! Có khi lấy phấn vẽ mũi tên, chỉ lòng vòng, chỗ nầy, chỗ kia, nhét dưới chân ghế, chân bàn…Làm Thanh phải đi tìm…
- Anh còn làm thơ con cóc…
Cô nhìn tôi cười.
- Để đó mà con cóc! Thanh không quên đâu. Anh gửi cho Thanh những câu như thế nầy… Và những câu nầy nữa… câu nầy nữa…
Cô đọc mãi, đọc mãi, những câu thơ, bài thơ con cóc của tôi, (Ôi! Cả một bầy cóc, ngày xưa!) tôi đã gửi cho cô, có lẽ không sót câu nào.
Tôi ngồi lặng người, nhìn sững cô.
 
Phạm thành Châu

Xem Tiếp: ----