Chương 1

Khi trời tang tảng sáng, Trần Bình Trọng dẫn đạo quân của mình về tới bờ Thiên Mạc. Mưa xuân vẫn lất phất bay. Sau màn mưa, bãi lầy Màn Trò càng tăng thêm vẻ bí ẩn. Những bụi lau đuôi cờ mới đâm bông kéo ngút ngàn. Tiếng lá xát vào nhau tưởng như cạnh sắc răng cưa của lá không hề vì ngấm nước mưa mà nhụt đi chút nào. Gió đông mỗi lúc mỗi mạnh dần thêm, đập điên đảo những bông lau còn cúp. Gió cứ tràn đi; tiết trời càng trở lạnh khiến Trần Bình Trọng rùng mình. Ông gò cương ngựa chiến, nheo mắt nhìn sâu vào bãi lầy, cố gắng tìm ra con đường độc đạo xuyên qua Màn Trò dẫn xuống mé nam vùng Thiên Mạc.
-Mưa thế này, Màn Trò càng nguy hiểm lắm đây-Trần Bình Trọng lẩm bẩm nói, mắt chăm chú nhìn đôi diều hâu lượn tròn trên bầu trời của bãi lầy.
Khúc sông Hồng chảy qua tỉnh Hưng Yên. Nay là Mạn Trù (Hưng Yên) Trần Bình Trọng đã từng vượt Màn Trò một lần khi ông mới được triều đình phái về trấn thủ lộ Khoái. Lần ấy cách đây đã sáu năm, mà sáu năm vừa qua, biết bao nhiêu việc nước, việc quân đã choán hết tâm trí ông. Bây giờ đứng trước Màn Trò, ông chỉ còn nhớ rằng vào đấy sẽ gặp những chằm đất lầy ngập lút đầu người, những ổ rắn độc đủ các loại và những vũng bùn nước lúc nhúc cá sấu. Màn Trò chỉ còn lưu lại trong trí nhớ của ông những hình ảnh như vậy trong lúc chính ông đang cần dẫn đạo quân này vượt qua bãi lầy. Đã vậy, đạo quân của ông lại đang mệt mỏi, đang thiếu lương ăn, trải qua ba ngày ròng rã vừa đánh vừa rút lui từ Vạn Kiếp về. Thật khó khăn!... Trần Bình Trọng quay lại ra lệnh cho viên chấp hiệu đi sau ông. Một ngọn cờ xanh vẫy lên, đoàn người ngựa dừng cả lại. Những người lính vơ quàng nắm lá lau khô, chụm lửa. Họ vừa sưởi cho đỡ cóng vừa dốc nốt những hạt gạo cuối cùng nấu ít cháo loãng. Từng làn khói xám đặc bốc lên, tỏa lẫn vào màn mưa đang vén rất nhanh. Trong chốc lát, vầng đông chiếu lộng lẫy cả một vùng Thiên Mạc mênh mang...
-Ai biết vùng này lên ngay ta hỏi!-Trần Bình Trọng giật giọng ra lệnh. Những người lính đứng gần ông vội vã truyền đi:
-Ai biết vùng này lên ngay hầu chủ tướng!
-... lên ngay hầu chủ tướng!
-... chủ tướng!
Tiếng lệnh truyền lan mãi xuống dưới những hàng quân cuối cùng. Tiếng lệnh truyền hòa lẫn vào tiếng nói cười râm ran của các chiến sĩ đang xúm xít quanh những đống lửa sưởi ấm. Trần Bình Trọng ngồi xuống một gốc cây đổ ven đường. Ông bỗng cảm thấy trong người bứt rứt, bồn chồn. Và cái bứt rứt ấy cứ lớn mãi lên trong lòng ông. Ông cố trấn tĩnh lòng mình. Ông cố suy nghĩ để quên đi cơn giận và cảm giác đói mệt đang muốn kéo ông nằm xuống mặt cỏ ngủ vùi. Trần Bình Trọng nghĩ về thế nước. Ông chỉ là viên tướng chỉ huy một đạo quân vài ngàn người. Những cuộc họp quan trọng của triều đình bàn việc lớn, ông không được dự. Nhưng ông rất tin tưởng ở tài cầm quân của Quốc công Tiết chế Trần Quốc Tuấn. Ông còn nhớ rất kỹ những điều Tiết chế đã dặn dò tướng sĩ trong các buổi học binh thư tại Giảng vũ đường. Ông còn nhớ dáng đứng oai phong của Tiết chế trong buổi duyệt toàn bộ quân đội tại bến Đông Bộ Đầu. Ông còn nhớ khi ông đang giữ ải Khả Lá, thì bản Hịch tướng sĩ của Tiết chế truyền đến. Bây giờ đây, bên tai ông, tưởng chừng lời hịch sang sảng vẫn còn vang động: “...Ta đây ngày quên ăn, đêm quên ngủ, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa...”
Trần Bình Trọng phà mạnh một hơi thở dài... Ông cũng đã bao nhiêu đêm mất ngủ, ông cũng đã ruột đau như cắt bao ngày, nhớ những khi “...sứ giặc đi lại rầm rập ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ!” Lũ giặc nào chẳng lòng tham không đáy, bạc vàng nào đối với chúng cho vừa, cũng như thịt dê nào đủ cho bầy hổ đói... Trần Bình Trọng lại phà một hơi thở mạnh. Lòng căm thù giặc của Tiết chế đã khiến cho tướng sĩ càng vững lòng tin ở triều đình. Riêng ông, Trần Bình Trọng, càng mài sắc ý chí diệt lũ giặc nước. Vừa qua, quân các lộ kéo lên Vạn Kiếp chật đất, chật sông. Hai mươi vạn chiến sĩ, giáo mác lập lòe, cờ phướn phấp phới. Ngựa hí, voi gầm, trời long đất lở. Những tưởng phen này được đánh cho lũ giặc nước tan không còn mảnh giáp... Lúc bấy giờ, Trần Bình Trọng đóng quân trên bến Bình Than. Đứng trên đài nhìn xa chót vót trên ngọn đa cổ thụ. Trần Bình Trọng thấy rõ quân sĩ đôi bên hàng ngày di chuyển để bày thành thế trận trong vùng Vạn Kiếp đồi núi trập trùng. Trước mặt trận địa của ông là một mỏm đồi cao có một toán quân giặc đóng chiếm. Chúng kéo cờ thám mã, hiệu cờ của bọn lính trinh sát. Trần Bình Trọng hiểu rõ sự nguy hiểm của loại lính giặc này. Ông đã liền mấy đêm điều khiển các chiến sĩ của ông bám sát, tìm hiểu cách đóng quân của chúng. Ông đã lập xong kế hoạch, một kế hoạch đánh chắc thắng. Nhưng vừa lúc đạo quân chính của giặc tràn tới thì thình lình... Tiết chế hạ lệnh rút lui!... Nghĩ đến đấy, Trần Bình Trọng đâm choáng váng. Ông nắm chặt tay, đấm mạnh xuống đùi mình một cái. Làm tướng mà phải rút lui là một điều rất đau lòng!...
Ông cảm thấy bực bội và càng đắm sâu vào những suy nghĩ miên man... Ông là một vị tướng. Ông hiểu rằng cầm quân có lúc tiến nhưng cũng có lúc lùi nếu cần thiết. Lùi để làm cho địch Sinh kiêu căng, lùi để nhử địch vào sâu trong thế trận bày sẵn, lùi để tránh thế mạnh ban đầu của địch. Ông hiểu như vậy, nhưng ông vẫn đau lòng và từng lúc, tim ông đập rộn lên, ruột gan như xát muối...
Từ giữa đám quân đông, một cậu bé chen tới trước mặt ông. Dáng người còm nhỏ của chú ta chìm ngập giữa các đợt sóng của dải cờ và ngù giáo. Cậu bé quỳ một gối chào Trần Bình Trọng và nói:
- Thưa chủ tướng, tôi là Hoàng Đỗ xin lại hầu.
Trần Bình Trọng vẫn mải suy nghĩ. Hai mắt ông mở trừng trừng mà ông vẫn không nhận thấy có người trước mặt. Mãi sau, ông mới sực tỉnh. Ông chăm chú ngắm cậu bé và cảm thấy gương mặt này quen quen. Trên vầng trán dô của chú ta có thích chàm ba chữ “Quan trung khách”. Ba chữ thích chàm đó khiến Trần Bình Trọng nhớ ra đây là một chú bé đã từng bị ông phạt giam vì tội dám cưỡng lại lời ông. Trần Bình Trọng cau mày hỏi:
-Ngươi đến hầu ta có việc gì?
-Thưa chủ tướng, tôi cũng không biết. Vừa rồi có lệnh đòi người lên hầu cho nên tôi phải lên.
- À! Ngươi biết thế đất vùng này sao?
-Dạ biết!
Trần Bình Trọng nhìn từ đầu đến chân cậu bé. Chú ta mặc một manh áo chiến rộng quá. Vải áo bạc màu xếp lùng nhùng quanh cái thắt lưng. Ngang sườn, chú ta giắt một cái roi ngựa bằng gỗ liễu. Trần Bình Trọng nhớ dần ra. Hoàng Đỗ là một chú lính chăn ngựa trong đạo quân của ông. Chú ta thường lấy trộm ngựa chiến đem ra bãi sông tập quần. Viên chỉ huy đô đã nhiều lần đánh đòn mà chú ta cũng vẫn không chừa.
-Ngươi biết rõ thế đất này thật à?-Trần Bình Trọng hỏi gặng.
-Thưa chủ tướng, tôi vốn là người Thiên Mạc.
Trần Bình Trọng chợt nhìn thấy cổ chú lính có đeo một sợi dây thao màu lục. Ông kinh ngạc giơ tay gỡ sợi dây thao. Sợi dây thao có đeo một đồng tiền bạc giấu kín trong ngực chú bé.
-Ngươi lấy cái này ở đâu thế?
Chú bé tái mặt. Chú nhìn ông tướng của mình một lúc rồi mới đáp:
-Đồng tiền này là đồng tiền tôi được thưởng.
-Hả? Được thưởng à?... Ở đâu thế?
-Thưa, sau trận Khả Lá cuối mùa đông năm ngoái.
Thốt nhiên Trần Bình Trọng nhớ lại như in trận phá vây ải Khả Lá. Đó là một trận đẫm máu không cân xứng giữa hai lực lượng. Lúc bấy giờ đứng giữa vòng vây, Trần Bình Trọng nhìn bốn bề thấy quân giặc trùng trùng điệp điệp... Ông đã cùng những người lính của mình dốc sức đánh một mũi, mở đường máu thoát khỏi vòng vây. Sau trận này, Trần Bình Trọng thưởng tiền bạc cho tất cả những người lính đã cùng phá vây với ông... Ờ... Đúng, chú bé này cũng đã được chính tay ông thưởng cho đồng tiền. Nét mặt ông dịu hẳn xuống. Ông hỏi tiếp cậu bé chăn ngựa, giọng đã nhẹ nhàng hơn:
-Ngươi bị bán làm nô từ bao giờ thế?
Cậu bé chăn ngựa im lặng một lúc lâu, dường như không muốn nhắc tới chuyện cũ đau lòng. Mãi sau, giọng nói khó nhọc của chú ta mới thốt lên được:
-Thưa, từ năm tôi mười một tuổi. Cha tôi mắc nợ người ta không trả được. Chủ nợ bắt tôi đem bán làm nô. Người ta thích lên trán tôi ba chữ này.
Chú bé sờ tay lên mấy chữ “Quan trung khách”, mấy chữ đánh dấu một con người mất quyền tự do, có thể bị chủ nô bán đi mua lại như mua bán một con vật vậy. Hoàng Đỗ cúi mặt xuống. Chú bé thấy mình chẳng có điều gì đáng hổ thẹn cả. Nhưng chú cúi mặt vì không muốn để Trần Bình Trọng nhận thấy vẻ mặt xúc động của mình. Trần Bình Trọng cũng im lặng một lát. Ông hối hận đã hỏi chạm vào niềm riêng của cậu bé chăn ngựa đã từng phá vây với ông. Trong đạo quân của ông có khá nhiều nô tì người lộ Khoái. Trải qua hai tháng chiến đấu trên biên thùy phía bắc, ông đã hiểu họ nhiều. Ông hiểu về lòng yêu nước của họ. Ông hiểu về sự khát khao thoát kiếp nô tì của họ. Ông càng dịu giọng:
-Ta muốn cho quân nghỉ một buổi trước khi rút về phía nam lộ Khoái. Ngươi tìm cho ta một chỗ đóng quân và tìm cho ta một người dẫn đường vượt bãi lầy Màn Trò.
Cậu bé chăn ngựa ngẫm nghĩ. Chẳng hiểu nếu mình thẳng thắn nói ra thì người ta có tin mình không? Màn Trò là một vùng bí ẩn, rộng lớn, chứa đầy cạm bẫy. Nhưng chú đã được cha chú dẫn đi khắp mọi xó xỉnh của bãi lầy. Chú có thể giữa ban đêm cũng tìm ra đường vượt Màn Trò. Nhưng nói ra điều ấy liệu có người tin được không? Chú mới chỉ là đứa bé mười lăm tuổi đầu. Cuộc đời cơ cực của người nô tì lại làm cho chú héo hon cằn cỗi như trái ổi khô thế này. Ai dám tin lời một đứa bé còm nhom chỉ đứng đến ngang ngực mình!... Nhưng rồi chú lại nghĩ tới lời cha dặn trong buổi chia tay năm xưa. Cha chú đã nắm chặt đôi vai nhỏ của chú và dặn: “Dù mày có bị người ta bắt làm nô thì mày cũng đừng quên rằng mày là con người!” Là con người! Đã vậy thì cứ nói cho đúng với lòng mình. Hoàng Đỗ trả lời:
-Chủ tướng nên đem quân về đóng ở làng Xuân Đình. Làng này cách cửa Hàm Tử chẳng bao xa, lại ở kề bên lối rẽ vào bãi lầy Màn Trò. Như thế, nếu muốn tiến hoặc lùi ngả nào cũng đều tiện cả.
Trần Bình Trọng vui mừng hỏi:
-Đường về Xuân Đình có dễ đi không?
-Thưa, chỉ mươi dặm đường cát sa bồi êm chân lắm. Nhưng mà...
-Sao?
- Nhưng mà vượt qua Màn Trò mùa này thì khó khăn lắm.
Trần Bình Trọng cau mày kinh ngạc. Ông hỏi:
-Ta tưởng mùa này mưa xuân nhỏ, nước cạn, vượt Màn Trò chắc cũng dễ dàng chứ?
Cậu bé chăn ngựa nghiêm trang đáp:
-Màn Trò là một vùng trũng rất rộng, mỗi bề ngang dọc hàng trăm dặm. Mùa nước, lũ sông Thiên Mạc tràn vào, Màn Trò thành một biển nhỏ, nước phù sa đỏ ngầu. Lúc ấy nhìn vào chỉ thấy mênh mông chẳng biết đâu là bờ bụi. Nhưng chính vào vụ nước vượt Màn Trò không khó khăn, miễn là có đủ thuyền và người chèo lái. Còn về mùa này, Màn Trò đói nước. Đâu đâu cũng là chằm lầy, ổ rắn. Cá sấu cũng làm hàng trăm tổ để đẻ trứng. Vượt bằng thuyền thì dễ mắc cạn mà vượt bộ thì cần có người thuộc rất kỹ đường qua bãi lầy.
Trần Bình Trọng sầm mặt. Ông nghĩ thầm, nếu biết vậy thì ông dẫn quân về mặt này làm gì! Chẳng thà vòng qua sông Kinh Thầy về đông nam lộ Khoái còn hơn. Nhưng bây giờ quân đã dẫn về đây rồi. Tốt nhất là tìm cách vượt Màn Trò thôi. Trần Bình Trọng nhìn chỏm khăn quấn rối trên đầu cậu bé chăn ngựa. Ông đắn đo trước khi hỏi:
-Ngươi có thể tìm được người dẫn đường cho ta vượt bãi lầy không?
Cậu bé chăn ngựa nhìn thẳng vào cặp mắt nghi ngờ của Trần Bình Trọng và đáp bằng một giọng đều đều:
-Cả vùng này chỉ có hai người thuộc Màn Trò. Hai người này biết đủ mọi xó xỉnh của bãi lầy. Một người thì tôi không biết có còn ở đây không vì từ dạo theo quân lên ải Khả Lá tôi bặt tin ông ấy. Nhưng còn một người nữa...
Trần Bình Trọng hỏi dồn dập:
-Ai? Ai vậy? Có ở ngay đây không?
Cậu bé chăn ngựa khẽ mỉm cười. Cậu cúi cái mình gầy nhỏ, kính cẩn đáp:
-Thưa chủ tướng, tôi đã từng được cha tôi dẫn vào Màn Trò. Cha tôi lăn lộn kiếm ăn năm sáu năm trời trong bãi lầy ấy. Trong Màn Trò, chim trời và cá nhiều vô kể, bắt không thể hết được.
Trần Bình Trọng im lặng ngắm vầng trán bướng bỉnh của cậu bé. ánh mắt của ông lướt trên khuôn mặt gầy sạm nắng. Ông lặng ngắm đôi mắt long lanh thông minh đang nhìn lại ông một cách thẳng thắn đầy tự tin. Trần Bình Trọng nhìn xuống dải thao xanh đeo kín đáo trong cổ áo của cậu bé. Rồi ông quả quyết đứng phắt dậy, ra lệnh:
-Truyền cho các đô ngũ sắp sửa lên đường!
Lệnh của ông được truyền đi mau chóng. Các chiến sĩ nhộn nhịp đóng ngựa và sửa sang giáp, mũ. Trần Bình Trọng dẫn Hoàng Đỗ vượt lên đầu hàng quân. Ông bảo một tì tướng nhường ngựa cho cậu bé. Hoàng Đỗ đưa Trần Bình Trọng lên một mỏm đất cao trên đê.
-Cửa Hàm Tử!-Hoàng Đỗ chỉ cho Trần Bình Trọng một vùng rộng thênh thang, nước liền mây ở chân trời. Từ cửa Hàm Tử, ngón tay của cậu bé chăn ngựa chỉ sang một chòm xóm nhỏ bé kề bên sông Thiên Mạc. Cậu nói tiếp:
-Còn kia là làng Xuân Đình, quê tôi.
Trần Bình Trọng lặng nhìn chòm nhà im lìm trong lđá tre xanh. Không một làn khói nào bốc lên dù rất mảnh. Trên cao lại có từng đàn chim trời bay lượn thoải mái. Những con chim thung dung chao cánh rồi là xuống đậu trên những mái tranh tiều tụy lẻ loi.
-Làng vắng người!-Trần Bình Trọng lẩm bẩm. Ông lo lắng cho đạo quân của ông thiếu sự giúp đỡ cần thiết của những người dân ở chính đất này. Con ngựa của Hoàng Đỗ nện vó bồn chồn. Nó gò cổ đòi cương trong khi cậu bé chăn ngựa bồi hồi im lặng nghĩ đến làng mình. Hoàng Đỗ nghĩ đến người cha của mình. Đã hơn một năm trời nay cậu không được tin cha. Cậu muốn chắp cánh bay ngay về làng. Trần Bình Trọng hỏi:
-Có lẽ dân làng bỏ đi hết rồi chăng?
Hoàng Đỗ lắc đầu, đôi mắt cậu long lanh:
-Người Xuân Đình chẳng bao giờ nhát thế đâu. Chắc ban ngày họ tạm tránh vào đâu thôi.
Hoàng Đỗ chỉ tay về phía Màn Trò. Đôi mắt thông minh của cậu bé chăn ngựa thoáng ánh lên một vẻ kiêu hãnh. Trần Bình Trọng liếc nhìn người nô tì của mình. Ông lưỡng lự giây lát rồi đột ngột thúc mạnh hai gót giày vào bụng ngựa. Con ngựa chiến giật mình chồm lên, tung vó phi rất nhanh. Hoàng Đỗ dẫn Trần Bình Trọng vượt qua cổng chính, vòng ra mé sau làng. Hai người xuống ngựa rồi thận trọng bước dần vào giữa chòm nhà im lìm. Những con chim đang đậu trên mái nhà hoảng sợ cất cánh bay vù lên. Chúng kêu inh ỏi ngang trời.
-Họ đi hết thực rồi!-Trần Bình Trọng ngơ ngác nhìn những căn nhà nhỏ không còn một vật đáng giá. Nhà nào cũng đã dọn sạch trơn. Hoàng Đỗ bồi hồi đi giữa những kỷ niệm thuở nhỏ. Những gốc sung mọc dệ ao, những tán bàng rợp bóng nay chỉ còn trơ những cành gầy guộc. Này đây chiếc cầu ao bắc bằng hai đoạn tre trên mặt nước mùa xuân lặng sóng, thỉnh thoảng một con rô đớp bọt dưới chân bèo... Tất cả đều gợi cho Hoàng Đỗ một cảm giác êm đềm thân thiết. Chú bé chăn ngựa bước vào một căn nhà. Hoàng Đỗ vốc một nắm tro trong bếp giơ lên cho Trần Bình Trọng xem. Tro đã nguội nhưng vẫn chưa rã, còn phân biệt được dễ dàng đâu là tàn gỗ, đâu là than trấu. Trần Bình Trọng nhìn những mảnh vườn nhỏ bị đào xới chẳng còn lấy một luống khoai non.
-Họ chỉ tạm lánh vào Màn Trò thôi!-Cậu bé chăn ngựa thích thú khi nhận thấy những cái làm cho cậu tin rằng những người dân Xuân Đình đã vào Màn Trò, và một điều chắc chắn nữa là họ đã có một người dẫn đường thật tốt. Trần Bình Trọng lơ đãng nhìn quanh. Ông chưa tin rằng những người dân Xuân Đình hãy còn ở quanh quất đâu đây. Dường như không hề chú ý tới điều ấy, chú bé nói, giọng rất tự tin:
-Chắc chắn là dân Xuân Đình vào Màn Trò! Bến thuyền cuối làng không còn lấy một cái thúng cóc.
Trần Bình Trọng nói:
-Nếu vậy thì ngươi đi gọi họ về đây.
-Thưa chủ tướng, không nên đi gọi. Cứ để mặc họ họ sẽ về tìm ta.
Cậu bé nô tì chỉ về những bụi lau rậm xa xa:
-Bây giờ chắc ở đấy phải có hàng trăm cặp mắt đang xem xét những gì xảy ra trong làng Xuân Đình. Họ chưa thể biết chắc đạo quân vào làng là quân ta hay là giặc. Như thế, nếu ta tiến vào Màn Trò, họ sẽ đánh trống báo có động. Dân làng sẽ chạy hết. Còn nếu như ta cứ ở nguyên đây, họ theo dõi, khi nào họ nhận ra ta đúng là quân triều đình, tự họ sẽ tìm đến ta.
Đôi lông mày của Trần Bình Trọng giãn dần. Ông ngẫm nghĩ rồi hạ lệnh cho quân nghỉ, trừ những toán tuần phòng cẩn mật bốn mặt làng. Ông bảo cậu bé nô tì chăn ngựa.
-Ngươi ở quanh đây, nhỡ ta có cần hỏi điều gì nữa chăng.
Cậu bé nô tì cúi đầu vâng lệnh, nhưng lại đột ngột nhìn lên thưa:
-Chủ tướng cho phép tôi đi một lát tìm người nhà ạ.
Vẻ dễ dãi, Trần Bình Trọng gật đầu:
-Được, đi đi, mau về nhé!
Và khi thấy cậu bé nhảy chân sáo ra đường làng, con đường rợp bóng tre xanh dịu, Trần Bình Trọng bất giác mỉm cười...