- 2 -


- 2 -
CƠN BẢO

( THE STORM by McKNIGHT MALMAR )

     àng tra chìa vào ổ khóa và vặn tay nắm cửa. Cơn gió tháng ba giật cánh cửa khỏi tay nàng và dộng nó vào vách tường. Phải dùng sức mới đóng được cửa ngược với sức đẩy của cơn lốc, và nàng đóng được vừa kịp lúc cơn mưa ào ạt đổ xuống đập mạnh vào các cửa sổ như thể cố gắng đuổi theo nàng vào trong khiến nàng không nghe được tiếng chiếc taxi nổ máy quay ra đường.
Nàng thở ra khoan khoái rằng mình lại trở về nhà và về kịp lúc nữa.  Trong những trận mưa như thế này các ngã tư đường thường bị ngập nước. Chỉ trể nửa giờ thôi thì xe taxi không thể chạy được vì nước ngập cao và lại không có một ngỏ quanh nào khác.
Không một ánh đèn nào trong nhà cả. Vậy là Ben không có ở nhà. Khi nàng mở ngọn đèn bên cạnh ghế trường kỹ, nàng có một cảm giác thay đổi đột ngột. Suốt trên đường về nhà (nàng đã đi thăm chị nàng) nàng đã hình dung mình bước vào một căn nhà sáng đèn với Ben ngồi đọc báo bên lò sưởi. Nàng đã thích thú khi nghĩ đến nổi ngạc nhiên sung sướng của Ben khi thấy nàng về nhà sớm hơn một tuần. Nàng biết gương mặt tròn của chàng sẽ sáng lên như thế nào và đôi mắt chàng sau gọng kính sẽ ánh lên vui thú như thế nào. Nàng biết cả cái cách chàng sẽ nắm lấy đôi vai nàng, nhìn vào mặt nàng để xem sau một tháng xa cách đã có sự thay đổi gì nơi nàng, rồi chàng sẽ hôn nàng thật kêu lên đôi má giống như một đại tướng Pháp đang ban phát huy chương vậy. Rồi nàng sẽ pha café và tìm một miếng bánh, hai vợ chồng sẽ ngồi nói chuyện bên nhau cạnh lò sưởi.
Nhưng Ben không có ở nhà. Nàng nhìn đồng hồ treo bên trên lò sưởi và thấy đã gần 10g tối. Có lẻ chàng không định về nhà tối nay vì chàng không biết nàng về. Ngay như trước khi nàng đi thăm chị nàng, chàng thỉnh thoảng cũng ở lại thành phố suốt đêm vì công việc kéo dài khiến chàng bị trể chuyến xe lửa cuối. Nếu đêm nay chàng không về sớm thì coi như chàng sẽ không về được.
Nàng không thích nghĩ thế chút nào. Cơn bảo càng lúc càng to. Nàng nghe cả tiếng oằn oại, uốn mình của cây cối, tiếng gió rít quanh từng góc của căn nhà nhỏ. Lần đầu tiên nàng thấy hối tiếc đã dời nhà đến vùng ngoại ô xa này. Lúc đầu thì cũng có bạn láng giềng ở cách khoảng 15 dặm nhưng họ đã dời đi nơi khác cách đây vài tháng, và bây giờ nhà của vợ chồng nàng đứng trơ trọi một mình.
Trước kia nàng không hề quan tâm đến sự trơ trọi này. Ở đây thật tuyệt…cho hai người. Nàng vui sướng được sắp đặt chưng dọn cho căn nhà của chính mình nên không thấy cần sự hiện diện cùa ai khác ngoài Ben. Nhưng bây giờ, một mình với cơn bảo lúc nào cũng như chực tràn vào nhà, nàng thấy sợ hãi phải ở cách biệt như vầy. Phía đường này không có ai ở cả. Con đường trước nhà chạy dài ngang một vùng đất trại mênh mông mãi tận đến một khu rừng cây dầy đặc cách đó một dặm.
Nàng máng nón và móc áo khoác vào tủ rồi đến trước tấm gương treo ở hành lang để cài lại những lọn tóc mềm mại đã bị gió thổi tung ra. Nàng không để ý đến khuôn mặt tái nhợt với chiếc mủi nhỏ và thân hình thon gọn với dáng trẻ con trong chiếc áo len của người lớn, không để ý cả đến đôi mắt nâu to nhìn nàng từ trong gương.
Nàng cài lọn tóc cuối cùng vào búi tóc rồi quay đi, đôi bờ vai hơi buông thỏng. Có một vẻ gì trẻ con ở nàng, như một cô gái nhỏ đang trông đợi sự che chở, một vẻ gì non dại nhưng quyến rũ dù nàng rất đơn giản. Nàng 31 tuổi và đã lập gia đình được 15 tháng. Việc nàng đã lấy chồng đối với nàng là một phép lạ.
Nàng bắt đầu đi quanh khắp nhà vừa bật các ngọn đèn lên. Ben đã dọn dẹp nhà cửa khá ngăn nắp, không bừa bãi nhiều như tánh thường tình của đàn ông, nhưng nói cho cùng chàng là một người ngăn nắp. Nàng nhận ra là căn nhà rất lạnh. Hiển nhiên là Ben đã hạ thấp nhiệt độ, chàng vẩn rất cẩn thận về những chuyện như thế. Chàng không ưa phí phạm.
Nhiệt kế được đặt ở mức 58, thảo nào nhà chẳng lạnh. Nàng đẩy cây kim nhỏ lên đến số 70 và tiếng máy đặt dưới hầm nổi lên đột ngột rền rĩ khiến nàng sợ hãi trong giây lát.
Nàng đi vào nhà bếp pha một ít café và trong khi chờ đợi cho café nhểu hết nàng đi rảo quanh khắp tầng dưới. Nàng thấy bồn chồn một cách lạ lùng và không thể thoải mái được. Tuy vậy nàng vui thích được trở về giữa những đồ vật sở hửu của mình, về ở căn nhà của riêng mình. Nàng ngắm nghía phòng khách với một cái nhìn mới. Quả là một căn phòng xinh xắn dù có hơi nhỏ.
Những vải in hoa tươi sáng phủ bàn ghế và treo ở các cửa sổ trông đẹp và vui mắt, chiếc trường kỷ nàng mua cách nay 3 tháng đặt ở giữa bức tường dài thật thích hợp. Nhưng những chậu hoa nàng đặt dọc theo thành cửa sổ đã chết rụi, Ben đã quên tưới nước cho chúng. Nàng đã chăm sóc kỷ lưỡng biết bao, bây giờ chúng ủ rủ, héo úa, rụi tàn trên nền đất bụi trắng. Hình ảnh đó cộng với nổi buồn chán đột ngột khiến nàng không còn thấy thích thú với việc trở về nhà của mình nửa.
Nàng trở lại nhà bếp rót một tách café lòng mong muốn Ben sẽ về để cùng uống với mình. Nàng mang tách café vào phòng khách đặt nó xuống cái bàn tròn nhỏ bên cạnh chiéc ghế lớn đặc biệt của Ben. Lò vẫn bận rộn hoạt động tỏa ra sức nóng nhưng nàng cảm thấy lạnh hơn bao giờ. Nàng run rẩy đi lấy cái áo ấm cũ của Ben để trong tủ và quấn quanh người trước khi ngồi xuống.
Gió đập mạnh vào cửa cái và các cửa sổ, không gian chứa đầy âm thanh của nước, nước chảy vào các ống cống, chảy xuống từ các máng xối, đập mạnh trên mái nhà. Lắng nghe, nàng sốt ruột ước muốn đến sự hiện diện của Ben. Chưa bao giờ nàng cảm thấy cô độc thế này và chàng là cả một niềm an ủi lớn lao. Chàng đã rất tử tế để nàng đi vắng lâu như vậy vì chị nàng bị bệnh. Chàng đã sắp xếp mọi việc và đã đưa nàng lên xe lửa, đặt vào tay nàng nào sách vở, kẹo và trái cây. Nàng biết những món quà đó đối với chàng là rất nặng vì chàng không dể tiêu phí tiền như vậy. Thành thật mà nói, chàng có hơi keo kiệt, tuy vậy chàng là một người chồng tốt. Nàng thở dài, không biết có phải vì đã để lở mất thời trẻ trung lãng mạn của mình?! Nàng nhấp chút café và lập lại chắc chắn với chính mình rằng chàng là một người chồng tốt. Dầu chàng lớn hơn nàng 10 tuổi, hay theo ý riêng và có lẻ thỉnh thoảng có hơi độc tài và cáu kỉnh một chút, nhưng chàng đã cho nàng điều mà nàng nghỉ rằng mình mong muốn, đó là một căn nhà riêng và một sự đảm bảo tương lai. Nếu sự đảm bảo đó không đầy đủ nàng cũng không thể trách chàng được.
Mắt nàng bắt gặp một vật trắng de ra dưới một tạp chí trên bàn bên cạnh nàng. Nàng đưa tay về phía đó nhưng những ngón tay nàng như lưỡng lự không muốn nắm lấy vật đó. Tuy vậy nàng vẫn kéo nó ra và nhận thấy, đúng như nàng đã đoán trước, nó là một trong số những phong thư màu trắng. Phong thư trống rỗng và như thường lệ, nó mang một địa chỉ được đánh máy: Benj.T.Willsom,Erq.,Wildwood Road,Fairport,Conn. Dấu bưu điện là thành phố New York. Y như vậy không thay đổi.
Nàng nghe một sự co thắt quen thuộc ở tim khi cầm nó trên tay. Những phong thư này chứa đựng những gì nàng không bao giờ biết. Điều nàng biết rõ là ảnh hưởng của chúng đối với Ben. Sau khi nhận thư – cứ cách một hoặc hai tháng là có một cái gửi đến – Ben thường khó chịu và có lúc rất là xấu tánh. Cuộc sống êm đềm của họ bị phá vở. Lúc đầu nàng đã tra gạn Ben, đã cố xoa dịu, an ủi chàng, nhưng chẳng bao lâu nàng nhận thấy làm như vậy càng khiến chàng thêm tức giận, nên sau đó nàng đã tránh không nói đến những thư ấy nửa. Suốt cả tuần lễ sau khi nhận được một thư, hai người cùng ở chung một phòng, cùng ngồi một bàn mà như hai kẻ xa lạ, họ ngồi trong im lặng, chàng thì cáu kỉnh, nàng thì sợ hãi.
Phong thư này mang dấu bưu điện cách đây ba ngày. Nếu Ben về nhà tối nay có lẻ chàng sẽ cau có và cơn bảo càng làm chàng khó chịu thêm, nhưng dẫu sao nàng vẫn ước muốn chàng sẽ về.
Nàng xé phong thư ra từng mảnh vụn và ném chúng vào lò sưởi. Gió lắc căn nhà trong vòng tay khổng lồ của nó và một nhánh cây đập vào mái nhà. Nàng vừa định ngồi thẳng lên thì một chuyển động ở cửa sổ đập vào mắt nàng.
Nàng cứng người tại chổ, không thở, tay vẫn còn đưa ra và người hơi nghiêng về phía lò sưởi lạnh. Nàng chắc chắn cái loáng trắng ở cửa sổ đằng sau màn mưa đó là một khuôn mặt người. Nó có đôi mắt. Nàng quả quyết có một cặp mắt nhìn chăm chú vào nàng.
Tiếng gào thét của gió đổi sang một âm điệu đe dọa riêng tư. Nàng cứng người một lúc lâu, không rời mắt khỏi cửa sổ, nhưng không có gì di động ở đó cả ngoại trừ nước mưa chảy xuống mặt cửa kiếng và đằng sau màn mưa là bóng tối mà thôi. Những âm thanh duy nhất là tiếng rên siết của cây cối, tiếng gầm thét của nước và tiếng hú hung bạo của gió.
Nàng bắt đầu thở lại, cuối cùng đã tìm lại được can đảm để tắt đèn và đi đến cửa sổ. Bóng tối như một bức tường không xuyên thấu được và đầy bí mật, và bóng tối trong nhà làm cho cơn bảo như ùa sát vào hơn, như thể một đàn sói đang bao vây quanh nhà. Nàng vội vã bật đèn lại.
Hẳn là  nàng đã tưởng tượng ra đôi mắt soi mói đó, vì không ai có thể ở ngoài trời vào một đêm thế này. Không ai cả, nhưng nàng vẫn thấy mình tràn ngập sợ hãi.
Phải chi Ben về nhà. Phải chi nàng đừng quá trơ trọi như vầy.
Nàng rùng mình và kéo áo ấm của Ben vào sát người. Nàng tự cho mình là một kẻ xuẩn ngốc nhưng nàng vẫn thấy không thể chịu đựng được sự cô độc. Tai nàng cố nghe ngóng tiếng bước chân rảo ngoài cửa sổ, và rồi nàng bắt đầu tin là có tiếng bước chân thật – chậm chạp, nặng nề.
Không chừng có thể gọi Ben ở khách sạn nơi chàng thỉnh thoảng vẫn đến ngụ đêm. Nàng thấy không cần dành cho chàng một sự ngạc nhiên về việc về sớm của mình nửa. Nàng muốn nghe giọng nói của chàng. Nàng đến máy điện thoại và nhấc ống nghe lên.
Nhưng đường dây đã chết. Dây điện đã đứt, dĩ nhiên rồi. Nàng cố chống lại cơn sợ hãi và nghỉ thầm: khuôn mặt ở cửa sổ chỉ là ảo giác thôi, do ánh sáng phản chiếu lên khung cửa loáng nước và cả tiếng bước chân cũng vậy, chỉ là ảo tưởng mà thôi. Nếu là tiếng bước chân thật thì không thể nào nghe thấy được trong cơn bảo ầm ỉ như thế này. Không có gì đe dọa nàng cả vì ai lại ra ngoài vào một đêm bảo tố như vầy. Bảo đã được các bức tường chặn đứng bên ngoài rồi và chỉ sáng mai thôi mặt trời sẽ lại chiếu sáng như cũ.
Chuyện nên làm bây giờ là giữ cho mình được thoải mái và nên nghỉ ngơi xem sách, còn chuyện đi ngủ thì chắc chắn nàng không thể ngủ được rồi. Có đi ngủ cũng chỉ nằm đó tỉnh thức rồi nghĩ đến khuôn mặt ở cửa sổ cùng tiếng bước chân mà thôi.
Nàng sẽ lấy một ít củi để đốt lò sưởi. Nàng đứng do dự ở đầu cầu thang dẫn xuống hầm. Ánh điện, khi nàng bật lên, có vẻ yếu ớt, bức tường xi-măng đối diện chân cầu thang ẩm ướt, trông ghê sợ và gió đang thổi lạnh hai mắt cá chân nàng. Mưa thổi tạt vào qua cửa ngoài dẫn vào hầm vì cửa đó hiện đang mở rộng.
Nàng biết rỏ là chốt cửa bên trong thỉnh thoảng không được chắc, nếu không đóng cẩn thận thì gió có thể làm nó lỏng ra. Tuy nhiên cửa mở càng làm tăng nổi sợ hãi của nàng. Nó như cho thấy sự hiện diện của một cái gì đó hơn cả cơn bảo. Phải mất một lúc lâu nàng mới thu được can đảm đi xuống bậc thang và vói tay ra ngoài bóng đêm để tìm tay nắm cửa.
Chỉ một loáng đó nàng đã bị ướt nhưng đôi mắt liếc nhanh chớp nhoáng của nàng không thấy gì bên ngoài cửa ngoại trừ bóng những cây trường khế đen ngòm, đong đưa bên hông nhà. Gió giúp nàng đóng sầm cửa lại, nàng dùng hết sức đẩy chốt cửa vào và lúc lắc xem có thật chắc chưa. Nàng gần muốn khóc, vui mừng biết rằng cửa đã thật chặc không dễ cho ai muốn lẻn vào.   
Nàng đứng với bộ đầm ướt dán sát vào người trong khi một ý nghỉ nảy ra khiến xương cốt nàng như tan ra nước. Giả sử - giả sử khuôn mặt ở cửa sổ có thật. Giả sử người chủ khuôn mặt đó đã tìm được chỗ ẩn náu, chỗ ẩn náu duy nhất trong khoảng cách ¼ dặm, đó là căn hầm này?!
Nàng gần muốn chạy bay lên cầu thang nhưng cố dằn lại. Không nên hốt hoảng như thế, trước kia nàng cũng đã trãi qua nhiều cơn bảo rồi. Chỉ vì lần này nàng có một mình, nàng không được để trí tưởng tượng nổi dậy trong nàng. Tuy vậy nàng không thể ném qua một bên nỗi khiếp sợ vô lý đang xâm chiếm người nàng, mặc dầu nàng có cố gắng đè  nén nó xuống một chút. Nàng bắt đầu nghe lại tiếng bước chân rảo bên ngoài. Mặc dầu nàng biết đó chỉ là tưởng tượng nhưng nó lại có vẻ thật một cách ghê sợ - tiếng chân nghiến trên sỏi, chậm rãi, nặng nề, thôi thúc, giống như tiếng đi gác của một người lính canh.
Nàng chỉ cần lấy một ôm củi để đốt lò sưởi, sẽ có được ánh sáng, hơi ấm và niềm an ủi; rồi nàng sẽ quên những nổi kinh khiếp này.
Căn hầm có mùi ẩm mốc. Ánh sáng bị mạng nhện làm nhòe đi. Nước mưa theo một kẻ nứt nhỏ trên tường chảy xuống đọng thành một vũng nước nhỏ trên nền nhà.
Đống củi nằm ở một góc phòng cách xa tầm ánh đèn. Nàng dừng lại che mắt nhìn quanh, không ai có thể núp ở đây được; căn hầm quá trống trải, các cây cột chống quá nhỏ không che được một người.
Lò dầu ngừng chạy với một tiếng “click”khô khan. Lúc đó nàng mới nhận ra âm thanh rè rè của nó đã phần nào làm bầu bạn với nàng nãy giờ. Bây giờ không còn gì làm bạn với nàng dưới căn hầm này cả ngoài tiếng gầm gừ của bảo.
Nàng đi như chạy lại đống củi nhưng một cái gì đó khiến nàng ngừng và quay lại trước khi cúi xuống ôm những khúc củi lên.
Cái gì thế? Không phải tiếng động. Một cái gì đó nàng đã thấy trong lúc vội vã băng qua nền nhà bụi bặm. một cái gì là lạ.
Nàng đảo mắt tìm kiếm. Nàng đã trông thấy một tia sáng ở một nơi không thể có tia sáng được.
Một nổi sợ hãi không tả được bóp nghẹt tim nàng. Mắt nàng mở to, tròn và đen như mắt một con nai đang khiếp sợ. Chiếc rương cũ của nàng để dựa vách tường, nắp hơi hé lên để lộ một kẻ hở, và từ kẻ hở này một điểm ánh sáng phản chiếu chọc thủng ánh sáng mờ ảo của căn hầm.
Như một người bị thôi miên nàng đi về phía chiếc rương. Đây chỉ lại thêm một điều vô lý nửa, cũng như phong thư trên bàn, khuôn mặt ở cửa sổ và cánh cửa hầm mở mà thôi nàng nghĩ. Không có lý do gì để phải sợ hãi quá độ như thế.
Tuy nhiên nàng chắc chắn là mình không những đã đóng chặt mà còn cài chốt trên nắp rương lại nửa. Nàng chắc chắn vì nàng đã cất hai hoặc ba cái áo khoác cũ vào đó, gói kỹ trong giấy báo và đóng chặt để tránh mối.
Bây giờ nắp rương lại nhích lên khoảng một phân và tia sáng cũng vẫn còn đó. Nàng giở bật nắp lên và đứng nhìn vào rương một lúc lâu trong khi  từng chi tiết của những vật trong đó in sâu vào trí nàng như hình ảnh trên một cuốn phim. Từng chi tiết nhỏ thật rõ ràng không thể tẩy xóa và không bao giờ quên được.
Trong cái giây lát đó nàng không cử động được một sớ thịt nào. Nổi khủng khiếp như một chiếc áo choàng đen chụp phủ  quanh nàng, làm ngưng đọng hơi thở nàng và làm què quặt tứ chi nàng.
Rồi mặt nàng trắng bệch ra. Nàng đóng sầm nắp rương lại và chạy bổ nhào lên cầu thang như một người điên. Nàng thở tiếng như khóc, sâu trong lồng ngực, như xé tận buồng phổi. Nàng đóng ập cửa ở đầu cầu thang đánh sầm một tiếng làm rung chuyển căn nhà và xoay chìa khóa. Thở hổn hển và với đôi tay run rẩy nàng kéo chiếc ghế bằng gổ trường khế nặng nề ở cạnh bàn ăn đem tấn bên dưới tay nắm cửa căn hầm.
Gió ngậm căn nhà trong đôi hàm răng của nó và dục dặc như thể con chó dục dặc con chuột trong miệng.
Ý nghĩ đầu tiên của nàng là chạy ra khỏi nhà nhưng khoảng thời gian chạy từ bếp ra cửa trước nàng chợt nhớ đến khuôn mặt ở cửa sổ. Có lẻ nàng đã không tưởng tượng ra nó. Có lẻ đó là khhôn mặt của một tên sát nhân đang chờ đợi nàng bên ngoài trong cơn bảo, sẵn sàng để nhảy bổ vào nàng từ trong bóng tối.  
Nàng té ngồi vào chiếc ghế lớn, thân hình co rúm của nàng run rẩy từng cơn. Với thứ đó ở trong rương nàng không thể ở lại đây được, nhưng nàng cũng không dám bỏ đi. Tâm hồn và thể xác nàng kêu gọi đến Ben, chàng sẽ biết phải làm gì. Nàng nhắm mắt lại rồi mở ra và dụi thật mạnh. Hình ảnh đó tiếp tục ăn sâu vào óc nàng như thể nó được vẻ bằng a xít. Tóc nàng sổ ra nằm từng lọn mềm mại trên trán, môi nàng nhợt nhạt vì sợ hãi.
Chiếc rương cũ của nàng chứa xác chết co quắp của một phụ nữ. Nàng không trông thấy mặt vì cái đầu cúi quặp vào chổ trủng của vai và mái tóc óng ánh xòa xuống che lắp mặt. Người phụ nữ mặc chiếc đầm đỏ, một bàn tay gác lên mép rương và trên ngón thứ ba có đeo một chiếc nhẩn đàn ông, mặt nhẩn chạm hình một con sư tử chồm lên ôm trong hai chân trước một viên kim cương nhỏ. Chính viên kim cương này đã bắt ánh đèn, ngọn đèn nhỏ ở góc hầm trong ánh sáng lờ mờ đã bắt được ánh phản chiếu của nó.
Nàng không bao giờ quên được chiếc nhẩn đó, cũng không thể quên được hình ảnh người phụ nữ đó: đôi cánh tay tái xanh của cô ta, hai đầu gối co lên chịu vào thành rương với làn vớ mềm mại, óng ánh trong ánh sáng lờ mờ, những lọn tóc che phủ mặt cô ta.
Cơ thể nàng vẫn run rẩy co giật từng hồi. nàng cắn nhẹ lưỡi và ấn một tay vào hàm để răng khỏi đánh lập cập. Vị mằn mặn của máu trong miệng khiến nàng tỉnh táo hơn. Nàng cố bắt trí óc phải làm việc, phải suy nghĩ, phải tỉnh táo nhưng sự nhận thức rằng mình bị giam hảm nơi đây với xác một người phụ nữ bị giết liên tiếp đập vào thần kinh nàng như một cái chày vồ.
Nàng kéo áo khoác sát vào người, cố gắng làm tan đi cái lạnh chết người đang bao phủ nàng. Dần dần một cái gì hơn cả việc sát nhân, hơn cả cái chết bắt đầu xâm nhập trí nảo nàng. Nàng dần nhận ra rằng ngoài sự kiện đó còn sẽ có những hậu quả tiếp theo. Xác chết trong căn hầm không phải là một sự việc riêng lẻ mà là một loạt sự việc nào đó đã đưa đến sự hiện diện của nó ở đó và sẽ dẩn đến sự phát hiện ra nó ở đó. Rồi cảnh sát sẽ đến.
Thoạt đầu ý nghĩ về cảnh sát thật là một điều an ủi – những viên chức cao lớn vận đồ xanh sẽ đến đem xác chết ra khỏi căn hầm của nàng, sẽ đem nó đi thật xa khiến nàng không cần nghĩ đến nó nửa.
Nhưng rồi nàng nhận thức rằng đó là căn hầm của chính nàng – nàng và Ben, mà cảnh sát vốn hay nghi ngờ và tò mò. Họ có thể nghi là nàng đã giết cô ta không? Có thể làm họ tin rằng nàng chưa hề gặp cô ta lần nào không?
Hay là họ sẽ nghĩ rằng Ben đã làm điều đó? Hay là họ sẽ dựa vào những bức thư trong những phong bì trắng? Vào sự vắng mặt trong công việc của Ben? Vào chuyến viếng thăm chị nàng mà Ben đã hết lòng giúp đở để dễ bề dựng một cuộc sống thứ hai cho mình? Có thể họ sẽ cho rằng người phụ nữ kia là một người tình bị bỏ rơi, đã săn đuổi chàng bằng những lá thư cho đến khi trong cơn tuyệt vọng chàng đã giết cô ta? Đó chỉ là một giả thuyết mơ hồ, thật thế! Nhưng cảnh sát có thể suy luận như thế lắm. Họ có thể lắm chứ!
Bây giờ thì một cơn sợ hãi mới lại xâm chiếm nàng. Phải đem xác chết đó ra khỏi căn hầm, phải đem dấu nó đi. Không nên để cảnh sát nối cô ta với căn nhà này.
Nhưng cái xác đó to lớn hơn nàng, nàng không đủ sức dời nó đươc.
Nàng thấy cần có Ben hơn lúc nào hết. Phải chi chàng về nhà lúc này! Về để đem cái xác đi, dấu nó ở nơi nào mà cảnh sát không thể phăng đến căn nhà này được. Chàng đủ sức để làm việc đó.
Cho dù nàng đủ sức di chuyển xác chết nàng cũng không dám làm vì có một tên đi rảo bên ngoài, dù thật hay tưởng tượng đi nửa. Có lẻ cửa căn hầm không phải vô tình mở ra. Hay có thể nó đã vô tình mở ra và tên sát nhân đã chụp lấy cơ hội đó để đem cái chứng tích tội ác của hắn đặt trên đôi vai vô tội của gia đình Willsom.
Nàng thu mình tại đó, run rẩy. Dường như cửa bẩy đã đóng sầm lại nhốt nàng: một bên là cơn bảo và sự im lặng của máy diện thoại, một bên là sự hiện diện của tên đi rảo và cái xác cứng ngắt trong rương nàng. Nàng bị kẹt giữa hai sự việc đó không vùng vẫy được.
Như để làm tăng thêm sự tuyệt vọng của nàng, gió lại gào thét to hơn và một thân cây ngã đánh ầm trên mặt tường. Nàng nghe thấy tiếng kiếng bể.
Thân hình run rẩy của nàng căng lại như một vành cung đã được giương hết mức. Có phải tên đi rảo đang tìm cách đột nhập vào nhà không? Nàng cố đứng lên đi rảo quanh các cửa sổ tầng dưới và trên. Tất cả kiếng cửa đều nguyên vẹn đủ sức chịu đựng sức đập mạnh của mưa.
Không sức mạnh nào có thể sai khiến nàng trở xuống căn hầm để xem coi có gì xảy ra ở dưới không.
Tiếng mưa bảo làm át hẳn các tiếng động khác. Tuy nhiên nàng không thể gạt bỏ được cái ý nghỉ là nàng nghe có tiếng chân người đi vòng quanh nhà, là có những cặp mắt đang tìm một khe hở để theo dõi nàng.
Nàng kéo lá sách ở các cửa sổ xuống, nó giúp nàng cảm thấy an toàn hơn một chút, chỉ một chút thôi. Nàng tự nhủ tiếng kiếng bể khi nảy chỉ là do một nhánh cây bị thổi xuyên qua cửa sổ hầm.
Ý nghĩ đó chẳng đem lại cho nàng chút an ủi nào nhưng nàng biết rằng việc đó chẳng quấy rầy người phụ nữ kia chút nào. Bây giờ không gì có thể an ủi nàng ngoài bờ vai chắc chắn của Ben, vòng tay chàng quanh người nàng và  bộ óc khôn ngoan của Ben sẽ biết cách  đem xác chết ra khỏi nhà.
Một cảm giác tê dại bao trùm lấy nàng, dường như nàng không còn sức để sợ hãi nữa. Nàng quay lại chiếc ghế và cuộn mình trên đó. Nàng âm thầm cầu nguyện cho Ben về và cho trời sáng.
Đồng hồ chỉ 12g30 khuya.
Nàng co ro trên ghế, không cử động, không suy nghĩ, không cả sợ hãi, chỉ đờ đẫn tê dại. Như thế kéo dài thêm một giờ đồng hồ nửa, và rồi cơn bảo bổng như nín thở trong giây lát, và trong cái khoảng yên lặng ngắn ngủi đó, nàng nghe có tiếng bước chân ngoài lối đi – tiếng bước chân thật sự, chắc chắn, nhanh nhẹn và vang to. Tiếng chìa tra vào ổ khóa. Cửa mở và Ben bước vào.
Chàng ướt sũng, dơ bẩn và trắng bệch vì mệt mỏi nhưng đúng là Ben. Khi đã chắc là Ben nàng ôm chầm lấy chàng, lắp bắp kể lại điều nàng đã trông thấy.
Ben hôn nhẹ lên má nàng và gở tay nàng ra. “Này, này em yêu, anh ướt sũng đây này, em sẽ ướt hết cho coi.” Chàng gở cặp kiếng xuống đưa cho nàng lau khô dùm. Chàng nheo mắt vì ánh đèn. “Anh phải đi bộ từ ngả tư đường vào đấy. Thật là một đêm!” Chàng tháo bao tay cùng áo khoác ngoài ra, “Em không biết anh vui thế nào khi thấy nhà sáng đèn. Lạy Chúa, thật là thích thú được trở về nhà!”
Nàng cố kể lại những giờ khủng khiếp vùa qua nhưng Ben lại ngắt lời nàng. “Em yêu, chờ một chút đi. Anh thấy là em đang lo lắng về một chuyện gì đó nhưng hãy chờ đến khi anh thay đồ khô đã, rồi anh sẽ xuống và mình sẽ nói chuyện. Em pha một ít café và làm vài miếng bánh nướng đi. Anh mệt quá, lội từ ngã tư vào còn gì, anh tưởng không đi nỗi chứ. Đi cả giờ đó.”
Trông chàng mệt thật, nàng nghĩ vẻ quan tâm. Bây giờ Ben đã về thì mình có thể chờ được. Những giờ vừa qua giờ có vẻ là một cơn ác mộng, ghê sợ nhưng chắc không có  thật.
Với sự hiện diện của Ben, vửng chắc và vui vẻ, nàng tự hỏi những giờ qua phải chăng chỉ là một cơn ác mộng?! Nàng nghi ngờ ngay cả sự hiện hữu của xác chết trong rương mặc dầu nàng có thể hình dung cảnh đó thật rỏ ràng. Có lẻ chỉ có cơn bảo là thật.
Nàng vào nhà bếp và bắt đầu pha café. Chiếc ghế - vẩn nằm chắn ngay cửa hầm, là vật nhắc nhở nàng đến nổi khủng khiếp vừa qua. Bây giờ có Ben trông nó thật buồn cười, nàng đem nó lại đặt ở chỗ cũ cạnh bàn ăn.
Ben xuống trước khi café kịp nhỏ hết. Được thấy chàng mặc chiếc áo ngủ xám cũ kỹ thật êm đềm làm sao! Hai tay chàng đút cả vào hai túi áo. Trông chàng thật bình thường, khỏe mạnh với khuôn mặt tròn ửng hồng lên vì chà sát bằng khăn bông và mớ tóc ngắn dựng đứng thành những cột nhỏ ẩm ướt chung quanh chỗ hói của chàng. Nàng cảm thấy xấu hổ khi kể cho chàng nghe về gương mặt ở cửa sổ, về cửa ở hầm mở toang và cuối cùng về xác chết trong rương. Bây giờ nàng thấy rỏ rằng những việc đó không thể nào đã thực sự xảy ra được.
Không chút do dự Ben nói đúng điều nàng vừa nghĩ. Chàng đến vòng tay ôm lấy nàng. “Tội nghiệp em. Anh chắc là cơn bảo đã làm em sợ trối chết. Nó đã đem cho em những nỗi khủng khiếp đó.”
Nàng mĩm cười xấu hổ. “Vâng, em gần muốn nghĩ như vậy. Bây giờ có anh về em thấy thật an toàn, nhưng Ben ơi, anh xem lại trong rương được không? Em muốn chắc chắn vì em đã thấy cô ta thật rõ ràng. Làm sao em lại có thể tưởng tượng một chuyện như thế được chứ?!”
Ben chiều ý. “Được rồi, anh sẽ xem nếu như vậy sẽ làm em dễ chịu hơn. Anh sẽ xem ngay bây giờ, như thế anh mới có thể yên tỉnh uống café được, phải không nào?”
Chàng đến mở cửa hầm và bật đèn lên. Tim nàng một lần nữa bắt đầu đập thình thịch làm ù cả hai tai. Tiếng cửa xuống hầm mở ra gợi lại bao sự sợ hãi nàng đã trãi qua: nào xác chết, nào cảnh sát, nào những nghi ngờ sẽ bao vây nàng và Ben, sự cần thiết phải che dấu tội ác của một kẻ nào đó…
Nàng không thể nào tưởng tượng ra một chuyện như vậy được. Không thể tin rằng trong chốc lát nàng lại có thể tin rằng trí óc nàng đã đánh lừa nàng. Nhưng Ben sẽ biết sự thật ngay thôi.
Nàng nghe tiếng “kích” khi Ben mở bật nắp rương ra. Nàng nắm chặc lưng một chiếc ghế chờ nghe tiếng chàng. Trong một giây tiếng Ben vang lên.
Nàng không thể tin được. Tiếng Ben vui vẻ và đầy tự tin như khi nãy. Chàng nói, “Chẳng có gì cả ngoài một vài gói đồ. Em xuống xem nè.”
Không có gì cả à?
Đầu gối nàng nhủn đi khi nàng theo cầu thang lần xuống căn hầm một lần nữa.
Hầm vẫn còn hôi mốc, ẩm ướt và đầy mạng nhện. Lằn nước vẫn còn chảy xuống vách tường nhưng vũng nước thì đã loang rộng hơn. Đèn vẫn lù mù.
Nó vẫn đúng y như nàng nhớ chỉ khác là gió đang rít qua khung cửa sổ bể và mưa đang tạt vào trên những mảnh kính rải rác trên nền hầm. Cành cây nằm ngang khung cửa đã đập văng hết kính trên đó không chừa lại một mảnh nào cả.  
Ben đang đứng cạnh chiếc rương mở nắp chờ nàng. Thân hình bệ vệ của chàng như một trụ cột vửng chắc che chắn cho nàng. “Thấy không.” Ben nói, “Chẳng có gì cả. Chỉ có quần áo cũ của em thôi, phải không?”
Nàng đến cạnh Ben. Nàng sắp điên rồi sao? Bây giờ đây liệu nàng có nhìn thấy cái xác co quắp trong đó không? Hay nhìn thấy chiếc áo đỏ và cặp đầu gối phẳng bóng trong khi Ben không nhìn thấy gì? Hay thấy chiếc nhẩn với hột kim cương nằm giữa hai bàn chân con sư tử?
Nàng miễn cưỡng nhìn vào trong rương. “Không có gì cả!” Chỉ có những gói đồ bọc bằng báo gọn ghẻ mà nàng đã cất kỹ ở tận đáy rương, không có gì khác.
Hẳn nàng đã tưởng tượng ra cái xác đó. Nghĩ vậy nàng thấy nhẹ nhỏm nhưng đồng thời rất thắc mắc và sợ hãi. Nếu trí óc nàng có thể đánh lừa nàng như thế, nếu nàng có thể tưởng tượng ra một chuyện ghê sợ đến vậy, như thấy xác người đàn bà trong rương với đầy đủ chi tiết tỉ mỉ đến thế thì những ngày tháng sắp tới của nàng thật đáng kinh sợ. Làm sao nàng có thể chắc là mình sẽ không tưởng tượng ra một chuyện ghê sợ khác nữa?!
Dĩ nhiên, nỗi nguy hiểm thật sự về thể xác không hiện hữu và cũng chưa từng hiện hữu. Sự đe dọa về luật pháp đối với Ben chỉ dựa vào một “giấc mơ” mà thôi.
“Em đã mơ thấy những điều đó, hẳn là vậy.” Nàng thú nhận. “Nhưng em không có ngủ, em đã thấy thật là rõ ràng.” Tiếng nàng đứt quảng… “Em đã nghĩ… Ồ, Ben ơi, em đã nghĩ…”
“Em đã nghĩ gì, em yêu?” Giọng chàng thật lạ, không giống Ben chút nào cả. Nó có vẻ lạnh lùng và sắc nhọn.
Chàng đứng nhìn xuống nàng với một vẻ bất động khiến nàng cảm thấy tê lạnh hơn cả làn gió lạnh đang lùa qua khung cửa bể. Nàng cố đọc ý nghĩ trên mặt chàng nhưng ánh đèn quá yếu ớt. Mặt Ben đầy bóng tối khiến chàng trông xa lạ và có một vẻ gì nham hiểm.
Nàng nói. “Em…” và ngập ngừng.
Chàng vẫn không cử động nhưng giọng bổng đanh lại. “Em đã nghĩ gì chứ?”
Nàng lùi xa chàng.
Lúc đó Ben bổng cử động nhưng chỉ là để rút hai bàn tay ra khỏi hai túi áo và đưa cả hai cánh tay về phía nàng. Trong một giây nàng đứng sửng nhìn chòng chọc vào cái vật đã làm nàng khiếp đảm và trong cổ họng nàng một tiếng thét chưa kịp thành âm.
Nàng sẽ không bao giờ biết được đôi tay giương ra của chàng là để kéo nàng vào lòng che chở của mình hay là để bấu vào cái cổ trắng ngần của nàng, vì lúc đó nàng đã quay mình chạy bổ lên cầu thang trong một nổi sợ hãi kinh khiếp chỉ muốn tìm đường chạy trốn.
Ben thét lên, “Janet, Janet!” Bước chân chàng nặng nề phía sau  nàng. Chàng trợt chân ở cuối cầu thang quỵ một gối và chửi thề.
Sự sợ hãi giúp thêm sức mạnh và gia tăng tốc độ cho nàng. Nàng không thể nào lầm lẩn được. Mặc dầu nàng chỉ thấy có một lần nhưng nàng nhận ra ngay trên ngón út của bàn tay trái Ben là chiếc nhẩn không thể nào lầm lẫn được mà người phụ nữ chết đã mang.
Cơn gió ơn lành giật cửa trước ra khỏi tay nàng, đẩy rộng nó sang một bên và nàng đã chạy ra ngoài bóng đêm che chở an toàn của cơn bảo.
Xong 9 tháng 3, 1982  
Hoàng_Yến