ỏ chiếc dù trong giỏ, lắc lắc thử liệu chừng nặng nhẹ, bà Sương tặc lưỡi nghĩ thầm: “Lỡ mưa sao? Cứ mang phòng hờ”. Lững thững đi bộ ra trạm xe buýt cách nhà chừng mươi phút. Trời đất im sững,  chẳng một ngọn gió, giống như trời đang chết đứng! Bà ngửa cổ nhìn trời, nhìn mây nghe ngóng. Đường phố vắng tắp. Đến gần trạm chờ xe buýt đã thấy có người ngồi đợi. Không phải những khuôn mặt quen mọi ngày. Hắn ngồi ngay chính giữa băng ghế. Một bên là chiếc túi xách lớn chiếm gần hết băng ghế. Hai chân xoạc ra. Quần áo lôi thôi. Khuôn mặt gầy, xương xương, râu quai nón lởm chởm, tóc cắt ngắn, nhiều chỗ dựng ngược như muôn ngàn mũi dáo chĩa thẳng lên trời soi bói. Chừng 26, 27 là giỏi! Chỉ bằng thằng cháu nội của bà Sương. Cái áo khoác ngoài kẻ ca rô đỏ, đen như quân cờ. Thấy bà Sương nhưng hắn vẫn ngồi yên, hai đùi còn rung rung, chân nhịp nhịp.
Thoạt đầu, bà đứng. Bỏ chiếc giỏ xuống đất, ngó mông ra đường. Chừng 2, 3 phút bà quay lại nhìn gã thanh niên xem y có ngồi dịch lại hay bỏ túi xách xuống đất chừa chỗ cho bà già không. Hắn cứ tỉnh bơ rung đùi, chẳng thèm nhìn trả lại bà lão vì bên cạnh gã vẫn còn một chỗ trống không rộng rãi lắm. Đã đi bộ nãy giờ mà lại còn phải đứng thì mệt cho đôi chân quá đi! Thôi, thì ngồi vậy!
Bà lão ngồi xuống cạnh hắn. Trông gã bẩn thỉu nhưng không thấy hôi hám. Cũng đỡ! Bà ngồi sít rịt vì nhích ra xa chút nữa thì một phần cái mông sẽ không có chỗ đỡ. Thằng quỷ! Bà già rủa thầm. Nhìn xuống đất, trúng ngay ngón chân cái lòi ra khỏi đôi giầy vải thủng một chút ở đầu mũi giầy của gã. Ngón chân ngọ nguậy theo nhịp rung trông tức cười hết sức. Ngón chân chĩa ra một cách vô trật tự y như một chỏm tóc trên đầu của hắn. Những cử động nhịp nhàng của ngón chân ngoẹo qua ngoẹo lại làm bà lão phát ngứa ngáy, bứt rứt khó chịu!
- Mưa! Mưa đi! Mưa lớn đi trời!
Bà Sương hết hồn! Ai nói vậy? Chẳng lẽ...? Quay sang nhìn gã thanh niên. Y đang mấp máy môi lập lại câu nói khi nãy:
- Mưa! Mưa đi!
Tự dưng bà thấy có cảm tình với hắn hơn. Cũng người đồng hương. Bà lão bắt chuyện:
- Cậu người miền đâu vậy?
Hắn hơi nhếch người nhìn bà Sương. Đôi mắt của gã mới kỳ dị làm sao. To, sáng rực như tỏa ra một thứ điện vô hình, không đen nhưng xam xám và xoắn nhìn mê mê như muốn hớp hồn bà lão. Bà cũng ngay đơ ra nhìn hắn. Không lẽ con mắt người ta mà lại có sức mạnh kỳ cục thế ư? Hai bên nhìn nhau ở một khoảng cách quá gần. Khi gã nhếch mép cười, mấy chiếc răng trắng bóc nhô ra coi hay quá.
- Người Việt. –Hắn trả lời cụt ngủn.
- Biết là người Việt, nhưng người ở vùng nào? – Bà Sương kiên nhẫn lập lại câu hỏi.
Hắn nhìn bà lão rồi lại cười, lần này không phải chỉ thấy vài cái răng mà cả hàm răng trắng tinh:
- Người Việt.
Bà lão chịu thua vì biết hỏi tới gã cũng sẽ chỉ trả lời y như vậy. Chắc nó không hiểu tiếng Việt nhiều như mấy đứa cháu của bà. Bà Sương quay nhìn  ra đưòng. Trời bỗng dưng tối hơn, âm u và nhiều mây. Trời tỉnh rồi! Hết chết đứng! Làm như cái túi trần gian ở khoảng này bỗng dưng bị túm trọn lại trong một cái bọc tôi tối, nặng nề. Chung quanh như đang thu gọn lại. Rồi lác đác vài hột mưa. Có hột to bằng hạt bắp rơi xuống ngay phía lề đường xi măng lốm đốm. Điệu này chắc mưa lớn! Bà Sương cầu cho xe buýt tới trước cơn giông.
Bên cạnh bà, gã thanh niên đứng nhổm dậy. Trông nó vui sướng một cách lạ thuờng. Tay chân, đầu tóc ngọ nguậy như có con gì đang bò khắp người. Nếu mà gã đeo thêm một cái máy gì bên tai nữa thì gã sẽ giống hệt thằng cháu nội ở nhà.
Hớn hở thò tay ra ngoài hứng vài hột mưa rồi gã lại thụt vào rú lên:
- Mưa rồi! Mưa rồi!
Nhân lúc gã đứng lên, bà Sương nhích vào bên trong băng ghế cho thoải mái. Chiếc xe buýt số 23 mắc dịch đâu sao hoài không thấy tới? Bà lão có biết đâu hôm nay đổi giờ!
Cơn mưa ào đến. Thôi thì hột to hột nhỏ tranh nhau đổ xuống dành phần hơn. Cũng may không có gió nhiều nên mưa chỉ tạt vào chút ít bên trong. Cả một khoảng trước mặt mù mịt, toàn nước với nước. Bà Sương thở dài thầm: “Điệu này xe buýt có đến, trèo lên được xe cũng ướt hết! Về bịnh, con cái lại kêu rên, cằn nhằn!”
Hắn nhìn khoảng trống bà Sương chừa rất nhỏ, nhìn bà lão, rồi đẩy chiếc túi xách dịch sang một bên, ngồi xuống. Quay sang bà, hắn thân thiện:
- Mưa rồi thấy không bác?
Trong tiếng mưa lộp độp rơi trên mái nhựa của trạm xe buýt, bà Sương phải ghé đầu sang gần mới nghe tiếng gã nói.
Tự dưng bà cũng không thấy ngại hắn nữa:
- Bộ cậu thích mưa lắm hả?
Hắn lắc đầu:
- Không thích! Khi mưa ngừng rồi mới thích.
Bà lão tò mò hỏi tới:
- Sau cơn mưa có gì mà thích?
Hắn không trả lời chỉ nhe răng cười. Nụ cười mới hồn nhiên làm sao.
Đổi câu chuyện, lần này đến phiên bà Sương nói trước:
- Chờ xe buýt đi đâu vậy?
- Đâu có chờ xe đâu. Bác  chờ xe buýt hả?
Thằng này chắc khùng khùng! Mình hỏi nó, nó lại hỏi mình. Bà Sương đáp:
- Ừ!
- Đi gần hay xa?
- Không xa, nhưng không đi bộ được.
Nó gật gù, không nhìn bà lão nữa mà nhìn ra ngoài đường. Một vài chiếc xe chạy vọt ngang.
Cả hai người lại cùng nhìn ra đường, nhìn màn mưa và nghĩ đến những điều không giống nhau. Họ cùng chờ đợi.
Nhiều lần bà lão định bắt chuyện với gã nhưng rồi lại thôi vì không biết phải nói chuyện gì với hắn. Hết nhìn mưa rồi lại nhìn ngón chân ngọ nguậy như khua động cả một khoảng không chật hẹp dưới mái trạm xe buýt. Cái thằng này không ngồi yên được! Bà lão than thầm: “Quái! Sao mãi xe buýt không đến?”. Bà có biết đâu cái đồng hồ vĩ đại của cả nước Mỹ đã chạy chậm lại một giờ, chỉ duy nhất còn mình bà vẫn theo cái đồng hồ cũ và những  nề nếp mà bà đeo đuổi cả mấy chục năm nay, trung thành, tuyệt đối.
Hết nhìn màn mưa rồi bà lão lại nhìn mấy hình vẽ nguệch ngoạc trên bức vách của trạm xe buýt. Vài bữa thấy chùi sạch bong, rồi không lâu lại thấy lắm hình thù quái gở. Nhiều lần bà có cảm tưởng trạm xe buýt này đã được đổi, nhưng không đâu, nó vẫn thế, ở ngay góc đường này, chờ đợi những chuyến xe, những con người.
Những giải mưa cứ thưa dần, nhanh chóng như lúc cơn mưa đến vội vã. Đã nhìn thấy rõ bên kia đường. Các cửa hàng vẫn còn đóng im ỉm. Những bảng hiệu sáng hẳn lên. Yên tĩnh. Chẳng bao lâu trời lại hửng nắng, phơn phớt màu sáng. Cái âm u ngắt lạnh bỗng loãng, tan đi, trả lại những khoảng trống dường như thênh thang hơn và bừng bừng đâu đó những rung động ầm ì của trời, của đất xa xa, ườn mình rũ cho hết những khắc khoải ướt nhẹp. Những vách tường loang lổ bên kia đường cũng nhạt dần. Duy nhất thấy bóng ông Tàu già mở cửa tiệm ra trước lề đường nhìn xuôi ngược, nhổ phẹt xuống giòng nước còn đọng hai bên đường. Tần ngần đứng ngó trạm xe buýt đối diện bên kia, có lẽ định khạc, nhổ thêm một lần nữa rồi thôi. Uể oải quay vào trong tiệm. Những cửa hàng bên cạnh vẫn còn lặng thinh. Những song sắt xám xịt kéo kín mít trong cái yên tĩnh của một sớm Chủ Nhật như những đôi mắt còn khép kín. Chẳng phải người, xe cộ cũng trốn biệt. Đâu đó bắt đầu có tiếng chim riu rít gọi nhau.
Tất cả những thay đổi nhanh chóng như đang từ một ngày này sang một ngày khác, như sự đổi ý bất thình lình, đánh lừa con người, trong đó có bà lão. Mà thật! Hôm nay không giống mọi ngày, từ chuyến xe quen thuộc đến người, đến cảnh vật. Giống như cơn mưa bất ngờ. Mưa kiểu này là Trời đái đây mà! Hứng rồi đái bậy! Bà lão tủm tỉm cười vì những ý nghĩ ngộ nghĩnh.
Trời âm ẩm, rồi nắng lên. Cái nắng đuọc lột trần, trong và sạch làm sao. Từng mảng mây xám cuốn đi cho bằng hết. Cái túi đã được mở tung ra trở lại. Trời cao vút hẳn lên, rồi xanh, rồi trắng. Khoảng đường trước mặt còn đọng một vài vũng nước mưa ở những ổ gà chưa được sửa. Đúng là ngày Chủ Nhật, lâu lâu mới thấy một chiếc xe chạy băng qua.
Bây giờ đến phiên bà lão sốt ruột, đứng dậy. Gã thanh niên như đồng tình, nói với bà, hai mắt y sáng rực như có ngọn lửa đang đốt:
- Đi không bác?
Bà lão nhăn nhó:
- Xe đã tới đâu mà đi?
- Không, đi xuống kia kìa! –Y chỉ mông ra đường.
- Xuống kia là xuống đâu?
- Bác thấy chỗ vũng nước kia không? Ngay gần chỗ quẹo đó.
- Thấy. Sao?
- Xuống đó vui lắm.
- Quẹo chỗ đường đó hả?
- Không! Chẳng quẹo đâu hết. Ở ngay đó chứ.
- Làm gì có chỗ nào mà xuống với chẳng lên! – Bà lão lắc đầu ngán ngẩm cho gã thanh niên chắc chắc mắc bệnh tâm thần.
- Xuống được mà! – Y quả quyết, mặt hơn hớn.
Bà lão cười nhẹ:
- Xuống đó có gì vui?
- Có những thứ mà trên này không có.
“Thằng này ấm ớ quá! Mà sao bỗng dưng mình cũng nói mấy chuyện vớ vẩn với nó làm gì? Thật là lẩm cẩm!”
Tưởng thế là xong. Nhưng gã thanh niên bước xuống khỏi lề đường, quay lại hỏi bà lão lần nữa:
- Đi không?
Bà lão lắc đầu. Không muốn nói nữa. Nói gì với nó cũng vô ích.
Nó nghiêng đầu, cũng mấy cái răng trắng tinh lộ ra trong nụ cười hóm hỉnh, giơ tay ngoắc ngoắc bà lão rồi bỏ đi sang vũng nước ở góc đường chỗ quẹo.
Đứng trước vũng nước không lâu lắm rồi nó thò chân khuấy nước. Rút chân ra, rú lên. Nó giơ cả hai tay lên trời múa may như người điên. Không! Nó chính là thằng điên!
Không một chiếc xe nào chạy ngang. Gã lại săm soi nhìn vũng nước, nhúng không phải một chân mà cả hai chân, rồi như bị vũng nước nuốt một cái ực. Gã biến mất! Biến như một cái búng tay ngay tróc! Mất tiêu! Mất... thật!
Bà lão  hoảng hồn! Chết! Nó làm sao rồi! Nó rơi xuống đâu rồi? Nó bảo đi xuống, mà nó đi xuống thật! Dưới lòng đường làm gì có gì?
Quên cả chuyện chờ xe buýt, bà lão nhìn trước sau, băng ngang đường, nhanh nhẹn hơn lúc thường. Đến bên vũng nước mưa, bà hồi hộp nhìn vào. Thấy ngay mình! Tưởng ai!
Lại nhìn, lần này từ tốn cẩn thận hơn. Ngoài mình ra còn thấy mây xanh, mây trắng, đẹp quá trời đất, long lanh, rung rinh còn đẹp hơn trên kia. Đó là một ổ gà khá lớn nhưng không sâu. Nước trong vì không có xe chạy cán ngang qua. Mà cái thằng nó biến cũng nhanh nên nước trong veo. Bà còn nhìn thấy rõ trong ánh nước lung linh, vài hòn đá bằng cái trứng gà nằm lăn lóc trong đó. Thế nó đâu rồi? Làm sao nó biến đi đâu được? Bà lão hoang mang nhìn lại bên kia đường, ngay trạm xe buýt. Chiếc xắc to tổ bố của gã thanh niên vẫn nằm nghễu nghện trên băng ghế. Bà nhìn quanh, vẫn không thấy gã đâu. Bà chắc chắn mình không hoa mắt. Mắt bà còn khá, không đến  nỗi nào. Vậy thì gã biến đi đàng nào?
Tự dưng thấy sờ sợ. Bà lại ngó ngang ngó dọc, quay tới quay lui rồi trở về trạm xe buýt bên kia đường. Ngồi xuống ghế, nhìn cái bị của gã, lòng thấy nao nao rồi đâm thắc mắc: “Mà đi đâu mới được chứ? Nó nói rõ ràng đi xuống chứ không phải đi lên? Lạ quá!”
Bà ngồi chờ. Bây giờ không phải chờ chuyến xe buýt số 23 mà là chờ sự xuất hiện của gã thanh niên mặc áo ca rô đỏ. Tại sao  lại chờ gã? Những câu nói lung tung của nó khi nãy lại dật dờ trở lại với bà. Ở dưới đó có những thứ gì mà trên này không có là cái quái gì? Đối với gã, trên đời này cái gì gã không có? Còn mình? Vừa tự hỏi xong là bà Sương thấy nhói một cái ngay trong bao tử đang rỗng. Thứ chi mà bà chẳng có, có điều giữ được hay không giữ được mà thôi. Chỉ có thế mà bỗng dưng bà lão thấy nồng nồng trong mũi, nong nóng ở mắt, làm như bị đụng ngay chỗ nhược! Tự dưng bà oán trách ông chồng bỏ đi sớm quá! Lẽ ra bà đi trước mới phải. Tóc còn xanh rói mà đã cùi cụi một mình. Rồi cũng có sao đâu. Bốn chục năm đã qua, hay thêm vài năn nữa thì cũng vậy thôi. Chỉ vì cái câu nói của gã thanh niên mà làm cho mình đau bao tử! Thật là bậy quá!
Khi chuyến xe buýt số 23 trờ tới, cửa trước xịch mở, người tài xế chờ. Bà Sương vẫn ngồi yên, làm như đây không phải là chuyến xe mà bà chờ đợi nãy giờ. Chừng không tới một phút, cửa xe buýt đóng lại rồi chuyển bánh đi. Mùi khói xe và xăng dầu thoang thoảng thốc vào mũi bà lão. Chuyến xe và cuộc hành trình quen thuộc đã chạy tuột ra khỏi sáng sớm mai một ngày Chủ Nhật trong vòng quay nhất định và liên lỉ của bà Sương. Chuyến xe thiếu bà lão đã trở thành chuyến xe lạc giữa đời, hay chính bà lão đang bị bứt khỏi những mắt xích quen thuộc để rồi trở thành kẻ bị bỏ lại? Hình như những điều đó chỉ còn nhấp nháy chút đỉnh và không nghĩa lý gì nữa khi bà Sương lại đứng dậy, nhìn trước nhìn sau và băng sang đường, trở lại vũng nước mưa.
Soi mình bên vũng nước, vẫn thấy trời xanh mây trắng lung linh, lại thấy mình nhưng không thấy gã thanh niên đâu cả. Bà khẽ kéo cao ống quần lên sợ ướt, nhưng vẫn đứng ì ra đó nhìn vũng nước. Nhìn xuống vũng nước, rồi lại ngửa cổ lên trời. Một chiếc xe chạy ngang bên mé ngoài làm rung động, vũng nước chao đi, mấy đám mây bồng bềnh huyền ảo kỳ diệu. Ngay đến bóng bà trong đó cũng chấp chới như ai đó. Cái rung động, loang loáng của mặt nước làm cho hình bóng bà như đang chao đảo, dục giã một điều gì. Đúng là mặt giáp mặt. Cái “mình” này mới ác ôn côn đồ! Nó đeo bà dính như sam và toàn xúi bẩy những chuyện tào lao thiên địa! Ai xúi mình không sao, chứ mình xúi mình mới là khổ!
Lần này làm thật! Bà lão kéo một bên quần lên cao chút xíu và đưa gót giầy quậy quậy nhúng nhúng xuống nước, mắt nhắm tịt lại chờ đợi một điều gì đó xảy ra. Cái tích tắc chọn lựa giữa mình và “mình” có chút xíu mà dễ sợ thật! Nhưng chẳng có gì xảy ra cả, chỉ ướt gót giầy! Bừng bừng cả mặt, bà lão vẩy vẩy gót giầy như hắt mấy giọt nước còn bám vào xuống vũng nước mưa  rồi lầm lũi đi trở lại sang đường bên kia. Đến bên trạm xe buýt, bà lão không thèm nhìn đến túi xách của gã mà nhấc chiếc túi của mình rồi quay trở lại đường cũ.
Lần trở về bà không nhìn gì hết mà chỉ nhìn mặt lề đường cùng đôi chân mình đang chậm rãi bước tới. Bà lão lẩm bẩm: “Giê Su Ma, lạy Chúa tôi, con suýt mất linh hồn!”. Lòng nặng trĩu ăn năn, nhưng bà thừa hiểu một con người khác ở trong bà luôn luôn rình rập kêu réo đòi trả lại những phần mà nó bị cướp mất hay phải quên đi. Nay đòi, mai đòi, sáng kêu, trưa dục, khuya gọi! Cái con người đó cũng từ trong bà mà ra thôi.
Chân rảo bước đi, miệng vẫn lẩm bẩm: “Đâu phải mình bị ma quỷ cám dỗ không thôi, chính mình cũng cám dỗ ma quỷ!”
Sau lưng bà Sương, trên băng ghế ở trạm xe buýt, chiếc túi xách của gã thanh niên không còn nữa, biến mất tiêu như chủ của nó.
Mặc Bích

Xem Tiếp: ----