Dịch giả: Vũ Kim Thư
Chương 1
Nguyên tác Đức văn : Lieben Deinen Nachsten
Bản Pháp văn: Les Exilés do Andre R. Picard dịch.

Bản Việt Văn: Bản Du Ca Cuối Cùng Của Loài Người Không Còn Đất Sống do Vũ Kim Thư dịch.

  Đang ngủ say, Kern giựt mình nhổm phắt lên, nghe ngóng. Như tất cả những kẻ bị tróc nã, Kern tỉnh hẳn ra, sẵn sàng chạy trốn. Ngồi bất động trên giường, hơi nghiêng người một bên, anh nghĩ tới cách đào thoát một khi thang lầu bị chận.
Căn phòng ở tận lầu tư. Cửa sổ mở ra sân chẳng có bao lơn nên không thể từ đó đu mình tới ống máng. Thế là không thể trốn thoát qua ngả đó. Chỉ còn một cách duy nhứt là băng qua hành lang để chạy tới vựa lúa, và từ đó, vượt mái ngói sang nhà bên cạnh.
Kern nhìn xuống mặt đồng hồ dạ quang. Năm giờ hơn. Trời vẫn còn tối trong phòng, hai tấm vải trải giường gần đó làm thành hai đốm mờ. Anh chàng Ba Lan nằm sát tường đang ngáy.
Nhẹ nhàng và cẩn thận, Kern bước xuống giường, rón rén tới cửa. Ngay lúc đó, người nằm trên chiếc giường giữa phòng động đậy, hỏi nhỏ:
- Chuyện gì vậy?
Kern không đáp, áp sát tai vào cửa. Người vừa hỏi đứng lên. Anh ta mò tìm trong đống đồ treo ở thanh giường sắt. Aùnh đèn bấm bật lên, một vũng sáng tròn mờ nhạt rọi vào cánh cửa màu nâu và một phần người của Kern với chiếc quần đùi nhầu nát và mái tóc rối bù. Người cầm đèn bấm bực mình, hỏi:
- Ê, chuyện gì vậy?
Kern đứng thẳng lên:
- Không hiểu. Tôi giựt mình vì nghe có tiếng động.
- Tiếng động? Nhưng tiếng động gì, đồ ngu?
- Có tiếng động ở tầng dưới. Tiếng người nói, hay tiếng bước chân gì đó, không rõ lắm.
Người cầm đèn bấm bước xuống giường, đi tới cửa. Anh ta mặc áo sơmi vàng nhạt, dài gần tới gối còn ló ra đôi chân rắn chắc đầy lông lá. Hắn hỏi Kern:
- Ở đây bao lâu rồi?
- Hai tháng.
- Có lần nào bị bố ráp chưa?
Kern lắc đầu.
- Hừ, vậy là nghe lầm rồi. Người ta đáng rắm ban đêm chắc cũng tưởng là tiếng sấm.
Anh ta chiếu đèn vào mặt Kern:
- Mấy tuổi rồi? Chắc hai mươi? Dân tị nạn hả?
- Đúng.
Anh chàng Ba Lan ngồi ở góc phòng lè nhè:
- Jesus Christus tso siem Stalo.
Người mặc áo sơmi đưa ánh đèn về phía đó, một bộ râu rễ tre, một cái miệng há hốc và hai con mắt mở to dưới đôi chân mày rậm hiện ra. Người cầm đèn bấm gừ gừ:
- Câm miệng lại, Ba Lan! Chúa đã chết từ lâu!
- Tso?
Kern vụt chạy lại giường:
- Rồi, họ đang tới. Mình phải vượt mái nhà.
Người cầm đèn bấm xoay tròng người thật nhanh. Tầng dưới có tiếng cửa mở tung và tiếng người xôn xao.
- Ê, chạy đi Ba Lan! Cảnh sát tới!
Anh ta quơ lấy đồng hồ trên giường, hỏi Kern:
- Biết đường hả?
- Biết. Bên phải, dọc theo hành lang. Lên thang lầu phía sau bồn nước.
- Được rồi, dông! Anh ta vừa nói vừa nhè nhẹ mở cửa ra. Gã Ba Lan lẩm bẩm:
- Matka boska.
- Câm miệng! Nhớ là không được khai gì cả, nghe chưa?
Kern và người mặc sơmi băng qua hành lang bẩn thỉu. Họ bước nhẹ đến nỗi còn nghe được tiếng nhỏ giọt tí tách của vòi nước khóa không được chặt.
- Qua bên này.
Kern vừa bảo nhỏ vừa lách vào góc quanh và chạm phải vật gì đó khiến người lảo đảo. Vừa kịp nhận ra viên Cảnh sát trước mặt, Kern toan quay người lại thì bị đánh mạnh vào tay.
- Đứng yên! Đưa tay lên!
Kern buông đống đồ xuống, khuỷu tay trái đau buốt, cả cánh tay tê dại. Người mặc sơmi vừa định chồm tới thì một họng súng chĩa vào ngực. Anh ta từ từ đưa hai tay lên.
- Quay lưng lại. Tới đứng trước cửa sổ.
Người Cảnh sát cầm súng bảo đồng nghiệp:
- Xét xem chúng có gì không?
Viên Cảnh sát thứ hai lục soát trong đống đồ một lúc lâu:
- Ba mươi lăm Đức kim, một đèn bấm, một ống điếu, một con dao, một cái lược bẩn, hết.
- Có giấy tờ gì không?
- Hai ba lá thơ hay cái gì giống như vậy.
- Giấy thông hành?
- Không.
Người Cảnh sát cầm súng lườm lườm:
- Giấy thông hành đâu?
Kern đáp gọn:
- Không có.
- Biết quá mà.
Rồi chĩa súng vào lưng người mặc áo sơmi, viên Cảnh sát đổi giọng:
- Còn mày, thông hành đâu? Bộ chờ tao dạy cho cách mở miệng hả?
Hai người lính nhìn nhau. Người không có súng phá lên cười. Người kia liếm môi rồi gằn từng tiếng một:
- Được lắm, coi đây, thằng du đãng, đồ ma cô…
Viên Cảnh sát bỗng ngưng ngang, tung một quả đấm như búa bổ vào cằm người mặc sơmi. Suýt ngã té nhưng người mặc sơmi gượng lại rồi lặng nhìn viên Cảnh sát. Kern chưa hề thấy một cái nhìn như thế.
Viên Cảnh sát gầm gừ:
- Không nói hả? Mầy còn đợi…
- Không có.
- Không có – người Cảnh sát nhại lại – Thấy không, nó bảo không có giấy thông hành. Đồ vô lại! Mặc đồ vào, mau lên!
Một toán Cảnh sát chạy rầm rập dài theo hành lang. Các cửa phòng bị đẩy bật tung ra. Một sĩ quan Cảnh sát tới:
- Chuyện gì đây?
- Hai tên này định bay qua mái nhà.
Viên sĩ quan nhìn hai kẻ bị bắt. Anh ta còn trẻ, mặt gầy và xanh mét, râu mép được cắt tỉa cẩn thận và bốc mùi nước hoa. Kern nhận ra ngay đó là loại nước hoa 4711. Gia đình Kern chế tạo nước hoa nên anh ta phân biệt dễ dàng.
Viên sĩ quan ra lệnh:
- Phải đặc biệt để ý hai tên này. Còng chúng lại.
Người mặc áo sơmi đột nhiên hỏi:
- Cảnh sát thành Vienne có được quyền đánh đập những người bị bắt giữ không?
Viên sĩ quan đáp gọn:
- Còn nhiều quyền hơn.
- Thôi, đi!
Kern và người kia mặc quần áo vào. Người Cảnh sát không có súng móc còng ra:
- Lại đây, các con. Mang còng cũng như mang bao tay vậy thôi.
Thép chạm vào tay nghe lành lạnh. Lần đầu tiên Kern bị còng. Những vòng thép không hề gây trở ngại lúc đi. Nhưng Kern có cảm tưởng như không phải chỉ có hai cổ tay bị xích.
Bên ngoài, trời đã sáng mờ. Hai chiếc xe Cảnh sát dừng lại trước ngôi nhà. Steiner, người bị bắt chung với Kern – nheo mắt:
- Một đám tang thượng hạng, phải vậy không cậu bé?
Kern không trả lời, cố che đôi tay bị còng vào vạt áo. Một vài gã bán sữa tươi tò mò đứng lại xem. Trong khuôn cửa tối mờ, một vài bóng người xuất hiện. Có tiếng cười chế nhạo giọng đàn bà.
Khoảng ba mươi người bị bắt lên xe, những chiếc xe Cảnh sát không mui. Hầu hết đều ngoan ngoãn trèo lên, trừ bà lão chủ nhà trọ, mập béo, trạc năm mươi tuổi. Vài tháng trước, bà ta đã cho sửa sang đôi chút hai tầng lầu trên của ngôi nhà tồi tàn thành một nơi ở trọ. Rồi tiếng đồn lan mau là người ta có thể đến trọ nơi đó mà không cần có giấy tờ hợp lệ mà cũng chẳng phải khai báo gì cả. Trong tất cả những người ở trọ chỉ có bốn người khai báo: một gã bán hàng rong, một chuyên viên trừ chuột và hai ả điếm. Những kẻ ở lậu chỉ trở về lúc ban đêm. Hầu hết đều là dân tị nạn hay di dân từ Đức, Ba Lan, Ý và Nga tới.
Viên sĩ quan bảo bà chủ nhà trọ:
- Thôi lên mau đi. Chút nữa tới bót rồi giải thích.
Bà chủ nhà trọ rít lớn:
- Tôi phản đối.
- Được rồi, muốn phản đối bao nhiêu cũng được. Nhưng bây giờ thì phải lên xe.
Hai Cảnh sát viên kéo tay bà ta đẩy lên. Viên sĩ quan nhìn về phía Kern và Steiner:
- Coi chừng hai tên đó.
Steiner lên xe:
- Cám ơn.
Kern bước lên theo. Xe nổ máy. Một giọng đàn bà từ phía một cửa sổ kêu lớn:
- Vĩnh biệt, nghe!
Rồi một giọng đàn ông vang tới:
- Giết hết bọn di dân khốn nạn đó đi. Như vậy đỡ khỏi phải nuôi.
Xe chạy khá nhanh vì đường phố vẫn còn thưa vắng. Khoảng trời phía sau các dãy nhà như lùi lại, đang bắt đầu sáng tỏ với màu xanh trong, nhưng những người bị giam bó trên xe chỉ là một khối mờ ảm đạm như cành liễu mùa thu. Một vài Cảnh sát viên gặm bánh mì thịt và uống cà phê trong bình đựng nước.
Gần tới cầu Aspern, một chiếc xe rau cải băng qua đường. Các xe Cảnh sát thắng gấp rồi gia tăng tốc độ. Ngay lúc đó, một người bị bắt trên chiếc xe thứ hai nhảy xuống. Cả một thân người rơi phịch trên mặt đường.
Người tài xế hô to:
- Dừng lại. Bắn ngay, nếu nó chạy.
Chiếc xe thắng lết. Một số Cảnh sát viên trên xe nhảy phóc xuống, chạy tới nơi. Gã tài xế quay nhìn ra sau. Thấy người kia vẫn còn nằm bất động, hắn lui xe lại.
Người toan đào tẩu nằm ngửa giữa đường, gáy chạm vào một hòn đá. Ông ta nằm đó, chiếc áo ngoài mở rộng, tay chân dang thẳng ra trông như một con dơi khổng lồ vừa bị hạ. Viên sĩ quan hét lớn:
- Lôi nó dậy.
Hai người Cảnh sát khom xuống. Rồi một người đứng lên:
- Chắc gãy xương, hết đứng nổi nữa.
- Đứng không nổi hả? Lôi nó dậy.
Người Cảnh sát đánh Steiner lúc nãy thản nhiên bảo:
- Cho nó một đá là nó đứng dậy ngay.
Người nằn dưới đường rên nhỏ. Một Cảnh sát viên lắc đầu:
- Không dậy được đâu. Đầu ông ta chảy máu.
Gã tài xế xuống xe, càu nhàu:
- Quân ăn hại!
Rồi hắn ngước lên những người còn trên xe, trợn mắt:
- Ngồi yên nghe không! Đồ khốn kiếp! Rắc rối mãi!
Chiếc xe lúc đó đã đậu sát người bị thương. Từ trên nhìn xuống, Kern nhận ra kẻ toan chạy trốn đó là một người Do Thái – Ba Lan ốm yếu, râu xám bạc. Kern đã từng nhiều lần ở cùng phòng với con người già nua đó. Anh còn nhớ hồi khuya, ông lão đứng bên cửa sổ lâm râm cầu nguyện với một xâu bùa trên tay. Ông ta sống với nghề bán dạo các ống chỉ may, dây nhợ, và đã từng bị trục xuất ba lần khỏi nước Aùo.
Viên sĩ quan hất hàm:
- Đứng lên! Tại sao nhảy xuống xe? Bộ sợ lắm rồi hả? Aên trộm hay giựt dọc?
Ông lão máy môi, mắt mở to nhìn viên sĩ quan.
- Sao, ông ta nói gì?
Người Cảnh sát đang quỳ một chân bên cạnh ông ta, đáp:
- Ông ta bảo là quá sợ.
- Sợ. Dĩ nhiên. Sao không bảo là đã giết cha, giết mẹ? Ông ta nói gì?
- Ông ta nói là chẳng làm gì đáng trách cả.
- Tất cả đều nói vậy. Bây giờ làm sao đây?
Từ trên xe, Steiner bảo:
- Phải gọi bác sĩ.
Viên sĩ quan lườm:
- Câm! Tìm đâu ra bác sĩ giờ này? Cũng không thể để nằm giữa đường. Rồi thế nào cũng có người đổ lỗi cho Cảnh sát.
Steiner lại nói:
- Nên đưa vào nhà thương. Cần đưa gấp.
Viên sĩ quan do dự vì biết rằng ông lão đang bị thương rất nặng nên quên nạt Steiner.
- Nhà thương! Họ không nhận đâu. Phải có giấy nhập viện. Trước hết còn phải làm phúc trình.
Steiner nói:
- Đưa vào bệnh viện Do Thái. Họ không cần giấy nhập viện, không cần phúc trình. Cũng không cần phải có tiền.
Viên sĩ quan nhìn anh ta không chớp mắt:
- Sao biết rõ vậy, hả?
Một Cảnh sát viên đề nghị:
- Nên đưa tới một trạm cứu cấp. Ở đó luôn luôn có y tá trực hoặc một bác sĩ. Họ sẽ lo những gì cần thiết, mình kể như phủi tay.
- Tốt, khiêng ông ta lên. Tới đó để một người ở lại canh. Đủ chuyện rắc rối.
Những người Cảnh sát đỡ ông lão dậy. Ông ta rên rỉ, mặt xám xịt. Họ đặt ông lên sàn xe. Ông lão giựt mình, mắt mở to. Một cái gì khác thường hiện ra trong ánh mắt, trên khuôn mặt thống khổ thù hận. Viên sĩ quan cắn môi:
- Ngu quá! Từng tuổi đó mà còn dám nhảy trong lúc xe đang chạy. Thôi, nổ máy đi. Chạy từ từ.
Phía dưới đầu ông lão, máu từ từ đọng vũng. Những ngón tay trơ xương cào nhẹ sườn xe. Môi lần lần co lại, lộ rõ mấy chiếc răng, trông giống như phía sau khuôn mặt đang nhăn nhó vì đau đớn đó, một kẻ nào khác đang mỉm cười câm lặng và khinh bạc.
Người Cảnh sát lúc nãy quỳ bên cạnh ông lão bây giờ lại quỳ xuống nâng đầu ông lên cố giữ cho khỏi chạm vào sàn và xe nhồi lắc. Một lúc khá lâu, người Cảnh sát nói:
- Ông ta bảo muốn đi tìm mấy con vì chúng nó sắp chết đói.
- Khùng, làm sao chết đói được. Chúng nó ở đâu?
Người Cảnh sát khom mình sát xuống rồi ngẩng lên:
- Ông ta không chịu nói, sợ chúng bị trục xuất vì không có giấy tờ cư trú.
- Lại kiếm chuyện. Ông ta nói gì nữa?
- Ông ta xin thiếu úy thứ lỗi.
Viên sĩ quan ngạc nhiên:
- Sao?
- Ông ta xin thứ lỗi vì đã gây phiền phức.
- Thứ lỗi, lại chuyện lạ gì nữa đây?
Viên sĩ quan lắc đầu, nhìn sững ông lão.
Xe dừng lại trước trạm cứu thương. Viên sĩ quan ra lệnh:
- Đưa ông ta vào. Nhưng phải coi chừng. Rohde, ở lại đây cho đến khi tôi điện thoại tới.
Một số Cảnh sát viên đỡ ông lão dậy. Steiner nghiêng mình tới:
- Ông già, chúng tôi sẽ tìm thấy mấy đứa nhỏ. Bọn này sẽ giúp chúng, nghe rõ không?
Ông lão nhắm mắt lại, rồi mở ra. Ba người Cảnh sát khiêng ông ta vào trạm. Cánh tay người bị thương đong đưa, kéo lê trên thềm đường. Một lúc sau, mấy người Cảnh sát trở ra và lên xe. Viên sĩ quan hỏi:
- Có nói thêm gì nữa không?
- Không. Hoàn toàn hôn mê. Nếu gãy xương sống, chắc không lâu.
- Kệ. Vậy là bớt đi một tên Do Thái.
Người Cảnh sát đánh Steiner lúc nãy vẫn nói giọng thản nhiên trong khi viên sĩ quan lẩm bẩm:
- Xin mình tha lỗi. Kể cũng lạ…
Steiner chen vào:
- Nhất là giữa thời buổi này.
Viên sĩ quan như chợt tỉnh:
- Có câm miệng lại không? Đợi khóa lại hả?
Những người bị bắt được giải tới Cục Cảnh sát Elisabeth. Kern và Steiner được tháo còng ra, đi theo những người kia vào một gian phòng rộng lớn, chìm trong bóng tối. Hầu hết đều ngồi im lặng. Họ đã quá quen với cảnh đợi chờ. Chỉ có bà chủ trọ mập mạp là không ngừng kể lể.
Chín giờ, từng người một được gọi đi. Kern bước vào mộ căn phòng có hai Cảnh sát viên, một thư ký mặc thường phục, viên sĩ quan và ông Trưởng.
Cục Cảnh sát khá lớn tuổi. Ông trưởng Cục ngồi trên chiếc ghế dựa bằng gỗ, hút thuốc. Ông bảo viên thư ký:
- Lấy lý lịch.
Người thư ký gầy đét như một con cá hộp nhưng giọng to sang sảng:
- Tên họ?
- Ludwig Kern.
- Sanh ngày?
- 30 tháng 11 năm 1914 tại Dresde.
- Quốc tịch Đức?
- Không có quốc tịch. Người ta đã lấy lại.
Người Trưởng Cục nhìn Kern:
- Mới hai mươi mốt tuổi? Phạm tội gì?
- Không có tội gì cả. Người ta rút quốc tịch lại vì cha tôi. Lúc đó, tôi còn vị thành niên nên cũng bị rút luôn.
- Nhưng tại sao bị rút?
Kern không muốn trả lời ngay. Cả một năm di trú đã dạy cho Kern phải cân nhắc từng chữ trước khi trả lời.
- Người ta vu cáo cha tôi chống chế độ.
- Do Thái?
- Cha tôi. Không phải mẹ tôi.
- Aø hà!
Ông Trưởng Cục bùng tàn thuốc xuống đất:
- Tại sao cậu không ở lại nước Đức?
- Họ lấy giấy thông hành của chúng tôi lại và trục xuất. Nếu còn ở lại đó, chúng tôi sẽ bị giam. Thà sống ở một nước ngoài còn tốt hơn.
Ông Trưởng Cục cười ra điều thích thú:
- Cũng phải… Nhưng cậu làm thế nào để vượt biên giới không có giấy thông hành?
- Vào lúc đó, chỉ cần có giấy cư trú là vượt được biên giới Tiệp Khắc và sống trong vùng đó. Tôi vẫn còn giữ một tấm. Chứng chỉ đó cho phép chúng tôi lưu trú tại Tiệp ba ngày.
- Và sau đó?
- Sau đó chúng tôi được cấp giấy lưu trú ba tháng. Hết hạn là phải đi ngay.
- Cậu tới Aùo bao lâu?
- Khoảng ba tháng.
- Tại sao không đi khai báo?
- Vì đi khai là bị trục xuất ngay.
- Aø! – Ông Trưởng Cục vỗ nhẹ vào tay ghế – Làm sao cậu biết rõ như thế?
Kern không muốn kể lại là anh và cha mẹ, lần đầu tiên vượt biên giới Aùo, đã đến khai báo với nhà chức trách. Ngay trong hôm đó, cả ba đều bị đuổi trở lại. chính vì vậy mà lần sau họ không khai báo nữa.
Kern hỏi lại:
- Nhưng không phải đúng như vậy sao?
Gã thư ký xẵng giọng:
- Không có quyền hỏi ngược lại.
Ông Trưởng Cục hỏi tiếp:
- Cha mẹ cậu đâu?
- Mẹ tôi đang ở Hunggari nhờ gốc gác Hung nên được cấp giấy lưu trú ngay. Cha tôi bị bắt và bị trục xuất lúc tôi không có ở khách sạn nên không rõ.
- Cậu làm nghề gì?
- Sinh viên.
- Sống bằng cách nào?
- Tôi còn một ít tiền.
- Bao nhiêu?
- Mười hai Đức kim. Còn một ít nhờ bạn bè giữ giùm.
Sự thật Kern không có quá mười hai Đức kim. Đó là tiền mà anh đã tìm được nhờ bán dạo xà bông và nước hoa. Tuy nhiên, nếu nói rõ ra, Kern sẽ bị phạt về tội hành nghề bất hợp pháp.
Ông Trưởng Cục Cảnh sát đứng lên ngáp dài:
- Thôi, xong chưa?
Gã thư ký đáp:
- Còn một tên nữa. Hay nói nhưng chẳng có gì.
Ông Trưởng Cục nhìn viên sĩ quan:
- Chỉ là những kẻ nhập cảnh lậu. Chắc không phải âm mưu của Cộng sản. Ai tố cáo?
- Một chủ nhà trọ khác. Cạnh tranh nghề nghiệp.
Ông Trưởng Cục cười to. Thấy Kern vẫn còn đứng đó, ông ta bảo:
- Thôi, xuống dưới đi. Chắc cậu đã biết là phải bị giam mười lăm ngày rồi trục xuất – Ông ta lại ngáp dài – Phải kiếm cái gì ăn và uống một ly bia cho tỉnh táo.
Kern bị đưa tới một phòng giam hẹp hơn lúc nãy. Ngoài anh ra, còn năm người khác trong số có anh chàng Ba Lan cùng ở chung phòng trọ. Khoảng mười lăm phút sau, Steiner được dẫn vào. Anh lại ngồi gần Kern.
- Lần đầu tiên bị nhốt hả cậu bé?
Kern gật đầu.
- Mới bị giam mà ủ rũ như một tên sát nhân à?
Kern mím môi:
- Cũng gần như thế. Nhà tù… tôi vẫn giữ những cảm nghĩ lúc trước.
Steiner lắc đầu:
- Cậu nên nhớ đây chưa phải là nhà tù. Chỉ mới bị câu lưu thôi. Nhà tù… còn phải chờ ít lâu.
- Còn anh, đã bị tù chưa?
- Rồi. Chỉ lần đầu là đã nếm đủ mùi và nhớ mãi. Nhưng về sau thì quen đi. Đặc biệt là trong mùa Đông, hoàn toàn bình yên. Một người không có thông hành là một bản án tử hình treo. Nếu không chịu đựng nổi chỉ còn tự sát.
- Nhưng trường hợp có giấy thông hành? Có giấy thông hành cũng chưa phải là sẽ được phép hành nghề ở nước ngoài.
- Dĩ nhiên là không. Nhưng ít ra nhờ đó mà mình được quyền chết đói một cách bình yên. Khỏi phải lúc nào cũng nơm nớp sợ.
Kern nhìn sững một chỗ phía trước.
Steiner vỗ vai Kern:
- Ngẩng đầu lên, bé con! Cậu còn có hy vọng sống trong thế kỷ hai mươi, thế kỷ của văn minh, tiến bộ và tình người.
Một người nhỏ thó, sói đầu, ngồi trong góc phòng bỗng lên tiếng:
- Bộ họ không cho mình ăn uống gì hả? Cũng chẳng có cà phê.
Steiner quay lại:
- Cứ gọi tên hầu bàn là có ngay bốn món ăn. Cả trứng cá thu cũng có.
Anh chàng Ba Lan chắc lưỡi:
- Đồ ăn ở đây rrất rrất tệ.
Steiner nhìn anh ta:
- A, người của Jesus Christ. Quen ở tù rồi hả?
Anh chàng Ba Lan lặp lại:
- Rrất rrất tệ và rrất rrất ít…
Gã đầu sói nhăn mặt:
- Chết rồi. Tôi còn một con gà quay trong vali. Chừng nào họ thả mình ra?
Steiner thản nhiên:
- Trong vòng mười lăm hôm. Đó là giá biểu thông thường của những di dân không có giấy tờ hợp lệ. Có phải vậy không, Jesus Christ?
Anh chàng Ba Lan xác nhận:
- Mười lăm ngày hoặc nhiều hơn. Rrất rrất ít đồ ăn. Rrất tệ, súp chỉ toàn là nước.
- Vậy là chết rồi. Con gà của tôi thiu mất. Trời! Hai năm mới có được một con gà. Phải dành dụm từng xu. Định làm một phát ngon lành.
Steiner châm chọc:
- Hãy chờ tới tối rồi rên la. Cứ tưởng như ông bạn đã ăn rồi là đỡ khổ ngay.
Gã đầu sói nhìn Steiner, giận dữ:
- Sao? Bạn nói gì? Đừng lẩm cẩm chớ! Tôi còn định để dành một cái đùi cho sáng hôm sau.
- Vậy thì cứ chờ tới trưa mai.
Anh chàng Ba Lan chen vào:
- Với tôi thì không quan trọng. Không bao giờ ăn thịt gà.
- Dĩ nhiên là không quan trọng với bạn vì bạn làm gì có được con gà quay như tôi.
- Dầu cho có, cũng không quan trọng. Không bao giờ ăn thịt gà. Aên là mửa – Anh chàng Ba Lan vuốt râu – Với tôi con gà là không quan trọng.
Gã đầu sói tru tréo:
- Ê, tôi không hỏi tới nghen!
Anh chàng Ba Lan thích thú:
- Ngay như con gà ở đây tôi cũng không ăn.
- Trời ơi, mấy người ở đây có ai nghe nói như vậy không – Người chủ con gà quay vừa nói vừa bụm mặt.
Steiner cảm hứng:
- Ông bạn Ba Lan là một triết gia gà. Nè, có ăn gà tiềm không?
Anh chàng Ba Lan quả quyết:
- Không.
- Gà nướng?
- Nhứt định không ăn gà.
Người chủ con gà quay chịu không nổi:
- Đừng làm tôi điên lên.
Steiner vẫn ung dung hỏi anh chàng Ba Lan:
- Nhưng còn trứng gà, có ăn không?
- Trứng gà hả? Trứng gà thì… tuyệt. Rrất rrất ngon.
- Lạy Chúa! Con gà vẫn có chỗ yếu.
Anh chàng Ba Lan phản đối ngay:
- Trứng gà rrất rrất ngon. Bốn, sáu, mười hai trứng: sáu trứng trụng nước sôi, sáu trứng chiên sống. Thêm khoai tây chiên. Ưø, chiên với mỡ heo.
Gã con gà rên rỉ:
- Im đi! Đóng đinh nó! Chịu hết nổi rồi!
Một âm thanh ấm và trầm pha lẫn giọng Nga từ góc phòng vọng ra:
- Xin quý vị bớt cãi vã về một vấn đề không có thực. Tôi đã lén đem vào được một chai Vodka. Quý vị có vui lòng dùng chút ít không? Rượu sưởi ấm trái tim và lắng dịu tinh thần.
Người Nga vừa nói vừa mở nút chai rượu. Ông ta uống một ngụm rồi trao cho Steiner. Steiner cũng uống một ngụm rồi trao chai cho Kern. Kern lắc đầu. Steiner bảo:
- Uống đi cậu bé. Phải tập thích nghi hoàn cảnh.
Anh chàng Ba Lan chêm vào:
- Rượu Vodka rrất rrất ngon.
Kern ngượng ngạo uống một ngụm và trao chai cho người Ba Lan. Anh chàng tu một hơi dài khiến gã Con Gà sợ hết vội giựt chai ra.
- Bộ uống hết một mình, hả?
Anh ta vội vã nốc nhiều ngụm rồi phân trần với người Nga:
- Thấy không, gần cạn chai rồi.
Người Nga tỏ ra lịch sự:
- Không sao. Tới chiều là tôi sẽ được tự do rồi.
Steiner hỏi:
- Thật à?
Người Nga hơi nghiêng đầu tới:
- Rất tiếc là tôi không hề nói dối. Là dân Nga nên tôi có giấy thông hành Nansen.
Anh chàng Con Gà bỗng lễ độ:
- Giấy thông hành Nansen. Như vậy ông bạn thuộc giai cấp quý tộc trong xã hội của những người mất quê hương.
Người Nga nhã nhặn:
- Xin chia buồn vì anh bạn không được may mắn lắm!
Steiner phản ứng:
- Có gì đâu. Các người đi trước và tới trước. Cả thế giới thương xót các người vì các người chỉ là một con số ít so với bọn này. Thế giới cũng thương hại bọn nầy nhưng càng ngày bọn này càng đông hơn nên trở thành phiền toái.
Người Nga nhún vai rồi chìa chai rượu sang người cuối cùng trong phòng giam nãy giờ chưa lên tiếng.
- Xin ông vui lòng uống một ít cho ấm áp.
Anh chàng im lặng từ chối:
- Cám ơn, tôi không phải là người trong giới các bạn.
Tất cả đồng loạt quay nhìn hắn.
- Tôi có giấy thông hành còn hiệu lực, một tổ quốc, một chứng chỉ cư trú và một giấy phép hành nghề.
Tất cả đều tròn mắt. Người Nga thở ra và ngập ngừng:
- Xin lỗi… Nhưng tại sao ông bạn bị bắt?
- Vì nghề nghiệp. Tôi không phải là dân tịn nạn vô gia cư, không giấy tờ hợp pháp. Tôi là chuyên viên móc túi biết tự trọng và cũng là một cây bạc lận.
Buổi trưa, họ được cho ăn súp đậu nhưng không có đậu. Buổi chiều cũng thế, nhưng được thêm một mẩu bánh mì và một ít cà phê. Tới bảy giờ, cửa mở ra. Người Nga được gọi trả tự do đúng như ông ta tiên đoán. Ông ta chào từ biệt từng người như đã là bạn chí thiết, rồi nói riêng với Steiner:
- Trong mười lăm hôm nữa, tôi sẽ ghé quán Sperler. Có lẽ là bạn đã được thả và tới đó. Không chừng tôi sẽ có một vài tin hay.
Tới tám giờ, gã đánh bạc lận đã có vẻ muốn giao thiệp với những người kia. Hắn lấy một bao thuốc lá ra mời. Tất cả đều vui trong khói thuốc. Bóng tối và những đốm lửa đỏ trên đầu thuốc tạo thành một không khí gia đình. Gã móc túi cho biết là đã bị bắt vì nhà chức trách muốn điều tra xem trong vòng sáu tháng qua, anh ta có làm ăn một cú nào không. Vẫn theo anh ta thì họ không tìm ra được một bằng chứng nào. kể chuyện mình xong, anh chàng móc túi kiêm đánh bạc lận đề nghị chơi bài. Vừa nói anh ta vừa nhanh như cắt cho xuất hiện một bộ bài trong tay giống như các nhà ảo thuật.
Phòng tối om. Nhưng với tài nghề ảo thuật, gã móc túi lại cho xuất hiện một cây đèn cầy và một bao diêm. Hắn gắn đèn cầy vào bờ tường. Aùnh đèn nhòe nhoẹt và chập chờn.
Anh chàng Ba Lan, gã Con Gà và Steiner xáp tới. Con Gà dè dặt hỏi:
- Mình chơi không tiền, hả?
Gã đánh bạc lận cười:
- Dĩ nhiên.
Steiner hỏi Kern:
- Không chơi à?
- Tôi không biết đánh bài.
- Nên học chớ, cậu bé. Suốt buổi tối không chơi bài thì làm gì?
- Mai đã.
Steiner quay người lại. Ánh đèn mờ làm thành những vết lồi lõm trên mặt hắn.
- Có chuyện gì buồn sao?
- Chẳng có gì cả. Chỉ hơi mệt. Cần nằm một chút.
Gã đánh bạc lận bắt đầu xào bài với tất cả nghệ thuật của một tay điếm. Hắn chìa bộ bài ra. Anh chàng Ba Lan rút một con chín, gã Con Gà kéo con đầm, Steiner và gã đánh bạc lận mỗi người một con ách.
Gã đánh bạc lận ngước mắt:
- Kinh đi.
Hắn rút một lá. Lại một con ách. Hắn cười rồi đưa bài sang Steiner. Steiner kéo dưới bộ bài… một lá ách chuồn. Con Gà cười:
- Hên quá vậy!
Gã đánh bạc lận không cười. Hắn nhìn sững Steiner:
- Bạn cũng biết mấy trò nầy nữa à? Có phải người trong nghề không?
- Không. Chỉ chơi tài tử thôi. Biết được một tay thiện nghệ, cũng là điều hân hạnh.
Gã đánh bạc lận vẫn không rời mắt Steinter:
- Không phải vậy. Tôi muốn biết là vì chính tôi phát minh ra trò nầy.
Steiner dụi tàn thuốc:
- À, thật sao! Tôi học ở Budapest lúc bị giam.
Trước khi bị trục xuất. Do một người Katsher.
Gã đánh bạc lận thở ra khoan khoái:
- Katsher! Thế là đúng rồi. Katsher là học trò tôi. Bạn cũng khá lắm.
- Càng đi nhiều càng già dặn, thế thôi.
Gã đánh bạc lận trao một bộ bài cho Steiner rồi lên giọng:
- Thưa quí vị, ánh sáng rất tồi nhưng chúng ta chỉ chơi để giải khuây thôi. Thành thật mà nói…
Kern nằm dài, nhắm mắt. Một cơn buồn mờ mịt, dày như sương mù bao phủ Kern. Cuộc thẩm vấn ban sáng khiến anh không ngớt nhớ tới cha mẹ. Đây là lần đầu tiên sau một thời gian khá lâu, anh nhớ tới. Kern nhìn thấy lại hình ảnh người cha khi ông từ trụ sở Cảnh sát về. Một người thương gia cạnh tranh nghề nghiệp đã tố cáo cha Kern với Gestapo, cho là ông có tư tưởng chống chánh quyền, nhằm mục đích phá hại cơ sở sản xuất nước hoa và xà bông thuốc của ông để rồi sẽ mua lại cơ sở nầy với giá rẻ. Aâm mưu đó đã thành công như hàng ngàn âm mưu khác. Sau sáu tuần bị giam, cha Kern trở về như một cái xác không hồn. Ông không nói gì cả, lẳng lặng bán lại cơ sở của mình cho gã gian thương đó với giá rẻ mạt. Tiếp theo đó là lịnh trục xuất và một cuộc đào tẩu triền miên. Từ Dresde tới Prague, từ Prague tới Brunn, từ đó họ vượt biên giới Aùo ban đêm, sáng hôm sau họ bị đuổi sang Tiệp Khắc, rồi từ nơi nầy, vài hôm sau, họ lại vượt biên giới sang thành Vienne trong khi mẹ Kern bị gãy tay và phải cột lấy với một sợi dây lượm ở dọc đường. Từ Vienne họ sang Hunggari, ở lại ông bà ngoại, rồi Cảnh sát tới. Kế đến là cuộc chia ly với mẹ vì bà là người gốc Hung nên được cho ở lại. Lại tới Vienne lần nữa, bán dạo xà bông, nước hoa, dây giày… hết nhà nầy sang nhà kia để đỡ đói – và cái sợ dai dẵng của kẻ sống lậu, sợ bị tố cáo, sợ bị bắt… cho đến một đêm người cha không trở về chỗ trọ, Kern sống một mình cả tháng, chạy trốn từ nơi nầy sang nơi khác…
Kern lăn qua một bên, đụng phải một người. Nằm sát bên Kern là một khối đen nhòa, một người khoảng năm mươi tuổi từ sáng tới giờ gần như không buồn cử động.
- Xin lỗi, tôi không thấy.
Không có tiếng trả lời. Kern nhìn kỹ. Mắt ông ta vẫn mở. Kern biết rõ trạng thái tinh thần ấy. Đã nhiều lần, anh chứng kiến cảnh tượng đó trong một cuộc chạy trốn. Tốt hơn hết là nên để ông ta yên.
Thình lình Con Gà kêu lên:
- Mẹ, mình ngu quá! Ngu hết cỡ!
Steiner thản nhiên:
- Tại sao? Con đầm cơ là đúng rồi.
- Không phải vậy. Đáng lẽ phải nhờ thằng cha người Nga tới lấy con gà gởi vào. Ngu quá, ngu như con bò.
Hắn nhìn quanh với bộ điệu như trời sập đến nơi.
Kern bỗng thấy mình cười. Anh không muốn cười nhưng không dằn được. Anh cười rung cả người, cười như điên. Cái gì đó đã khiến anh cười, quét sạch tất cả, cơn buồn thảm, quá khứ và ưu tư.
Steiner rời mắt khỏi những lá bài, nhìn Kern:
- Cái gì vậy, cậu bé?
- Không biết. Tôi cảm thấy buồn cười không chịu nổi.
- Cười được là tốt.
Steiner vừa nói vừa kéo con già bích, thắng anh chàng Ba Lan ván đó.
Kern tìm một điếu thuốc. Tất cả đối với Kern bỗng thật đơn giản. Anh quyết định sẽ học chơi bài ngày mai và có cảm tưởng là quyết định đó sẽ thay đổi toàn diện cuộc sống của mình.
Nguyên tác Đức văn: Lieben Deinen Nachsten của Erich Maria Remarque.
Bản Pháp văn: Les Exilés do Andre R. Picard dịch.
Bản Việt Văn: Bản Du Ca Cuối Cùng Của Loài Người Không Còn Đất Sống do Vũ Kim Thư dịch.