Phần I

    
ào mùa thu năm 1944, khi kế hoạch đảo chính Pháp thành công. Ở tỉnh Vĩnh Long quân đội Nhật đến khoảng một đại đội, tuy chưa làm gì nhưng người dân rất sợ. Takeru Yamato được điều động tiếp cận các vùng đồng bằng sông Cửu Long. Takeru Yamato có một vẻ mặt hiền lành, anh thích săn chim, nên anh thường lang thang vào những vùng hẻo lánh để thoả mãn sở thích. Hôm đó quá say sưa mà trời lại tối, nên anh với người thông dịch tìm một nhà nào đó để ngũ qua đêm. Đó là nhà ông Hai Ngọc nổi tiếng nhiều ruộng vườn mà chỉ có một cô con gái đang tuổi xuân thì tên là Hoàng Lan. Ông Hai Ngọc không phải là địa chủ, gia tài có được nhờ ông bà mấy đời để lại. Họ là những người đi khai hoang suốt cả đời chứ chẳng bóc lột ai. Pháp đô hộ, ông đóng thuế đầy đủ nên chẳng có gì rầy rà. Khi Nhật đánh đổ Pháp, ông cũng đóng thuế cho Nhật, chứ chẵng dám có thành kiến nào. Khi người thông dịch đến hỏi trọ, ông nhìn Takeru thấy hiền lành và không có vẻ  gì là người hay thích dùng quyền uy. Takeru còn  khoe chùm chim, làm ông thấy gã sĩ quan Nhật có vẻ “dễ thương” hơn là con nhà binh thích dụng võ. Ông thuận tình cho Takeru trọ qua đêm, một mặt tò mò và hiếu khách nữa.
Takeru đưa xâu chim cho người nhà ông Hai Ngọc. Ông bảo họ nấu cháo và hẳn nhiên con gái ông là người dọn ra. Cô Hoàng Lan còn ngây thơ trong trắng, là một cô gái hiền lành.Cô dọn bàn cho mọi người dùng bữa, nhẹ nhàng như một miếng vải lụa lướt qua.Takeru để ý ngay đến vẻ đẹp tao nhã của Hoàng Lan, anh không cho phép mình nhìn cô lâu. Anh giữ vẻ nghiêm nghị và chào cô theo kiểu Nhật.
Ông Hai Ngọc đãi một chút rượu, chuyện trò thân tình. Ông giới thiệu về tình cảnh gia đình:
- Cụ sống một mình, vợ cụ mất lâu rồi. Cụ chỉ có một đứa con gái duy nhất đó. Năm nay được mười tám nhưng chưa ớm gã cho ai. Cụ nghĩ rằng nó chỉ thích cạnh kề bên cụ hơn là phải đi xa…
Không muốn mình là người thiếu đứng đắn, mặc dù tự cấm mình không được nghĩ tới cô hai nhưng thâm tâm của Takeru đã bị lôi kéo bởi hình ảnh của cô hai Hoàng Lan rồi. Thỉnh thoảng cô hai Lan được cha gọi ra để đem thêm rượu, hoặc thêm thức ăn. Takeru nhìn nhẹ về phía cô, lòng như yêu thương ngay từ đầu. 
  Sau khi no say, Takeru thắt chiếc đai quàng trước bụng to, như đứa trẻ ngủ ngáy như sấm, đẩy một giấc cho tới sáng. Takeru thức dậy sớm, anh rửa mặt xong rồi múa võ. Những tiếng vùn vụt của lưỡi kiếm,làm cho người nhà thức theo và họ ra xem anh múa bài quyền kiếm pháp. Cô Hoàng Lan thích thú vỗ tay khen ngợi không ngơi.
Ông Hai Ngọc mời Takeru vào uống nước trà, những gì ông đối đãi với anh đều làm anh cảm nhận với một thiện cảm đặc biệt. Anh khen:
- Ngon…- Takeru nói tiếng Việt
- Hoàng Lan à! Con mang một ít bánh ra để ăn. Cha muốn anh chàng sĩ quan này biết tài nấu nướng của con.
- Dạ!
Hoàng Lan nấn ná bên trong bếp một lúc, rồi mang ra một đĩa lớn bánh bò. Cô Hai để bánh xuống bàn, không hiểu sao mình run rẩy một cách lạ lùng. Takeru cũng nhận thấy, anh nhìn thẳng vào cô gái Việt để cảm tạ nhưng cái nhìn sâu đậm nhiều ý nghĩa: Đó là cái nhìn cám ơn cho những gì cô đã làm cho anh từ hôm trước; Song vẫn có một cái nhìn chiêm ngưỡng mà tự đáy lòng anh đang thổn thức và mong ngóng. Thế cho nên, Takeru bắt gặp vẻ bối rối và luyến tiếc của cô. Cô có một chút lưỡng lự như muốn nói điều gì với anh, mà trong ánh mắt rung động cũng muốn thổ lộ điều gì. Takeru hiểu hết những gì chứa trong ánh mắt đó, vì anh cũng đã quá ngột ngạt như thiêu như đốt trong lòng mình. Cả hai đều chứa chan yêu đương, họ có nụ cười thầm kín trong lòng, ngọt ngào mà ít ai bắt gặp được.
Trước khi rời đi, Takeru đứng ngay thẳng trước mặt ông Hai, cúi chào tỏ lòng cảm tạ ông thật nhiều.
Takeru trở về tỉnh lỵ được mấy ngày, càng thấy nhớ nhung người con gái Việt Nam tao nhã ấy. Anh lần mò trở lại nơi ấy vài lần nữa, cho đến khi Hoàng Lan có thai thì tình hình thay đổi không còn có lợi cho Takeru nữa.
Tháng 8 năm 1945, nước Nhật bị Mỹ ném bom nguyên tử xuống hai thành phố Nagasaki và Hiroshima. Quân đội Nhật đầu hàng đồng minh.
Ở Việt Nam tình hình cũng rất biến động. Bên ngoài quân đội Pháp tìm kiếm lính Nhật để “giải giáp” vũ khí, nhưng sự thật thì muốn tìm lại số vàng mà lính Nhật thu gom của người Pháp trước đây. Còn ở vài vùng bên trong thì có tổ chức Việt Minh đang lớn mạnh. Họ đều xem Nhật là kẻ thù chẳng thua gì Pháp, cũng sôi nổi muốn đánh đuổi hai đế quốc đang xâu xé Việt Nam và muốn tìm lấy số vàng mà nghe đâu của người Việt Nam bị tước đoạt. Lính Nhật đi lang thang một mình rất nguy hiểm, nhưng Takeru mấy ngày không đến thăm Hoàng Lan tựa như không thể sống thêm nữa được vậy. Vả lại,  cái thai mỗi ngày mỗi lớn chắc nàng khó mà yên thân với người cha.
Vì lo như vậy, Takeru không tuân theo cảnh báo của cấp chỉ huy. Một ngày nọ, đợi cho hoàng hôn đến. Takeru tìm về ông Hai mong ngóng gặp nàng lần cuối. Nhưng lúc này khác trước, bóng dáng người Nhật ở đâu là bị báo cáo ngay ở đó. Những người lính Việt trong quân đội Pháp biết được Takeru là người Nhật (bởi vì anh có đeo một cây kiếm), báo cho cấp chỉ huy cho cấp trên để lập công, hy vọng bắt được anh để khai thác tin tức về số vàng lính Nhật chôn giấu ở đâu đó. Có cả tiểu đội để vây bắt Takeru, tổ chức Việt Minh cũng đang theo dõi lính Pháp hành động nhưng họ không dám manh động. Takeru vừa đi đến nhà ông Hai thì bị bọn chúng trói gô lại rồi, không cần biết luật lệ nào.
Một thằng lính Pháp người cũng chẳng cao lớn gì lắm, thông qua một thằng Việt gian đang hỏi cung Takeru:
- Mày có biết số vàng mà lính Nhật lấy của chúng tao, đem chôn giấu ở đâu không?
Takeru cứ lắc đầu không biết, chúng đánh anh té nhào. Ông Hai cản ngăn những tên lính Việt, nhưng một thằng gầm gừ:
- Ông thương thằng Nhật này lắm phải không?
Ông Hai nói nhỏ nhẹ, tựa như không có xảy ra chuyện gì:
- Lính Nhật cũng có người tàn ác, người không. Tôi chưa thấy anh ta hại ai bao giờ. Nó đến đây chơi nhiều lần, hiền lành như người nhà quê.
- Ông có chắc nó hiền lành không? Tụi tui biết mà ông không biết đó…Con gái ông đang có chửa với thằng Nhật đó.
Ông Hai trợn trừng mắt nhìn thằng Việt gian, nhưng rồi ông cũng ngờ ngợ:
- Chẳng khi nào con gái tôi dám làm việc đó.
- Thì ông cứ hỏi đi.
Ông Hai nghiệm lại cái dáng con mình, cũng thỉnh thoảng ông đi công chuyện làng nước và có nghe người nhà nói lại là Takeru có tới chơi. Đâu nghe ai học lại chuyện Hoàng Lan ăn nằm với anh ta, vả lại con gái ông nhu mì làm sao mà dám làm cái chuyện tày đình đó. Ông cho gọi Hoàng Lan ra ngoài:
- Nhìn dáng con sao lúc này to mập vậy?
- Dạ!- Hoàng Lan ngập ngừng, liếc nhìn Takeru lòng xót xa. Nàng chạy lại chỗ anh đang quỳ mà đở anh dậy.
- Đó thấy chưa!- Tên Việt gian buộc miệng- Ông thấy sao rồi! Có lúc đến đây có mấy thằng Nhật lận, còn đứng gác bên ngoài để thằng kia vào ngủ con gái ông… Này, ông ơi…-Tên lính Việt khe khẽ- Thời này trở lại Tây rồi…Thay vì thằng Nhật đã ăn nằm với con ông rồi, thì ông cho nó ngũ với thằng Tây này đi. Con gái ông đẹp chắc chắn là ông sẽ được lòng, được nhà cửa đẹp. Tôi cũng được thăng chức đó.
Ông Hai Ngọc vừa giận trong lòng lắm, nhưng thấy con ông ra chiều yêu thương Takeru, mà ông cũng không ghét bỏ gì anh nữa. Tìm mưu kế để cứu hai người:
- Con dẫn anh ta ra sau lau rửa mặt đi, để cha ở đây nói chuyện với anh binh nhì- Ông nháy mắt với Hoàng Lan.
Cả hai tên lính cứ nghĩ là ông Hai thuận lòng, nhắm mắt mà cười.
Tổ chức Việt Minh cũng cho hai người theo bén gót đám lính Tây. Hai người lẻn vào tìm cách giải cứu Takeru. Takeru được cắt dây trói, lấy lại thanh kiếm rồi cùng cô hai trốn bằng ngõ sau. Một lúc sau, đám lính mới hay biết. Thằng Việt gian xô ngã ông Hai, cho bọn lính đốt đuốc đi tìm.
Hai người Việt Minh đánh lạc hướng, bọn Tây rượt theo đám cây xào xạc. Hoàng Lan dẫn Takeru chạy băng qua cánh đồng, gần đến bờ sông nơi chùa Liên Hoa đang trầm mặc, yên tịch. Cô đến bên cổng, gọi sư thầy:
- Cứu chúng con…xin cứu giúp chúng con.
Một nhà sư bước ra. Ông chính là sư Thích Quang Thanh, nhìn thấy Takeru trong bộ đồ sĩ quan Nhật và những ánh đuốc đang soi rọi ngoài cánh đồng. Nhà sư hiểu ngay mọi việc, ông mở cửa rồi giấu hai người dưới căn hầm kín đáo trong chùa.
Sư Thích Quang Thanh bình tĩnh. Khi bọn lính tới, họ tràn vào chùa và hỏi nhà sư:
- Có thấy hai người chạy vào đây không?
- Nam mô A Di Đà Phật, kẻ tu hành này không thấy.
Mọi người nhìn quanh thấy chùa trống trải, nên họ tin lời Sư.
Sau khi bọn chúng đi rồi, Sư cẩn thận đóng cửa lại. Sư mở nắp hầm cho Takeru đi lên. Anh liền lạy ông và trao cho ông cây kiếm làm tin và được đặt trên giá đỡ của căn hầm. Anh viết mấy chữ lên tấm thiếp gắn vào chuôi kiếm.
Còn Hoàng Lan đã có con với Takeru. Cô đem đứa con gởi cho sư Thích  Quang Thanh nuôi nấng. Khi ông Hai Ngọc mất, cô lấy chồng và cũng sinh ra một người con trai thì chồng trốn theo Việt Minh để hoạt động, bị lính Tây bắt và bị bắn ngay sau đó vài ngày, nên cô để đứa bé mang họ mẹ. Tên nó là Hoàng Ánh.
Năm năm sau, tình hình chiến tranh ở Việt Nam mỗi khốc liệt, trong khi đó ở Nhật thì lại ổn định dần. Takeru nhờ người thân quen tìm đứa con của mình mang về Nhật và đặt tên cho nó là Akio Yamato.
 II
Đường vào chùa được tráng xi măng sạch sẽ, dưới những tán cây rộng mát mẻ, hai bên đường có mấy hàng dâm bụt. Chiều chiều, mấy em nhỏ đi về phía đó ra bờ sông để tắm, để nghe tiếng chuông uy nghi vọng lên âm vang. Rồi như đợi tiếng chuông chạy xa tít cùng với những cơn sóng nhỏ lăn tăn về đâu? Chúng tiếp tục leo trèo lên cây xoài như cố tình ngã nhào ra sông cho chúng leo lên, đứa bịt mũi đứa cứ để vậy mà nhảy. Tưởng như ngôi chùa cùng với làng quê yên bình như vậy còn gì bằng?
Thế mà gần đây, chùa không còn nghe tiếng kinh kệ của các sư thầy, tiếng chuông cũng không còn âm vang, văng vẳng xa xa đi đâu đó nữa. Mỗi ngày mỗi một xơ xác.
Mọi người cảm thấy nao lòng, không gian trầm lắng bỏ mặc cho miền quê nghèo nhiều điều ấm ức. Từ khi sư Thích Quang Thanh về cõi Niết Bàn, em của Sư là thầy Tư Để được cư ngụ nhưng không phải là người tu hành; Gọi là thầy vì ông lẩn quẩn trong chùa, và vì cả nể sư Thích Quang Thanh nữa. Thầy tư Để hiển nhiên trở thành người trông coi chùa. Ông là người hay rượu chè, cứ hay lấy tiền cúng Phật của bá tánh nhậu la cà quán này quán nọ. Ông còn ghi nợ ở đó, để đợi những ngày rằm, người đi chùa cúng kiến nhiều thì sẽ thanh toán sau.
Cúng chùa là để cho chùa hưng thịnh, vô tình chỉ để cho ông ăn nhậu nhiều hơn. Cho nên, những Phật tử bắt đầu chán ngán, không thèm đến đó nữa nên chùa quạnh quẽ vô cùng.
Thầy tư Để cũng có cách để có tiền. Ông ta bán mất một quả chuông đồng, mấy cái lư hương, rồi tượng đồng. Cứ coi như là của ông anh gầy dựng thì mình được thừa hưởng. Thời gian tiếp theo cứ nghĩ không còn gì để bán, thì ông tìm được mấy tay mua gỗ vào xẻ  những tán cây có đến mấy trăm năm.
Lúc này, nhân dân trong vùng không ai còn chịu nổi nữa. Người biết chuyện không biết xử lý ra sao nhưng phần lớn đều cảm thấy đau lòng. Ngôi chùa tuy nhỏ nhưng có từ thời vua Minh Mạng, đang sắp điêu tàn dưới tay của thầy tư Để. Mọi người cảm thấy cần phải làm một điều gì đó để giữ gìn ngôi chùa lại, còn là giữ lòng thành kính với sư Thích Quang Thanh. Nhân dân ở trong vùng nhờ chính quyền can thiệp.
Dưới sự chủ toạ và giám sát của công an địa phương, mọi người bàn bạc kỹ lưỡng với nhau, rằng sư Thích Quang Thanh còn một người cháu cô con cậu ruột tên là bảy Hạnh, rằng anh này mới có đủ phẩm chất giữ gìn ngôi chùa này. Tuy anh không quy y nhà Phật, nhưng từ nhỏ đã có tâm thành kính chùa chiền, và cũng thường xuyên đến chùa giúp sư Thích Quang Thanh sửa chữa lại mái ngói, tráng nền nhà và cúng kiếng trong những ngày rằm lớn. Biết anh là người tốt, mọi người bầu anh lên chức…trụ trì.
Hôm đó anh không có trong cuộc họp. Sau khi mọi người đã thống nhất ý kiến với nhau, mới cho người đến nhà anh tìm. Anh đang ngủ trưa, thì lật đật vội tới chùa xem chuyện gì. Bấy giờ, một người trong ban công an xã đứng lên trịnh trọng tuyên bố:
- Kính thưa bà con và anh bảy Hạnh! Vì chuyện chùa Liên Hoa mỗi ngày mỗi xuống cấp, do thầy tư Để không thành thực tu hành. Ông không quen cảnh khổ cực mà sống phè  phỡn như người ở ngoài đời, dẫn tới nhiều chuyện lộn xộn phức tạp. Nay nhân dân làm đơn thưa gởi nhờ chính quyền can thiệp. Chúng tôi tổ chức cuộc họp ngay tại đây và đã thống nhất ý kiến với nhau rằng: Thầy tư Để không còn đủ uy tín để cai quản chùa Liên Hoa nữa. Chúng tôi và bà con cô bác ở đây, sau khi đã cân nhắc với nhau kỹ càng. Mọi người quyết định chọn người kế vị trụ trì Liên Hoa Tự, không ai có đủ sức đảm đương công việc đó ngoài anh Bảy Hạnh. Như vậy, anh bảy Hạnh đã biết lý do của cuộc họp này rồi, xin anh cho biết ý kiến của mình.
Bảy Hạnh ngồi lơ là trong cuộc họp. Những tưởng bà con xúm xít nhau lại để khuyên can cậu tư như bao lần trước. Nào dè, họ lại bầu mình lên chức trụ trì cho chùa Liên Hoa. Anh như gặp phải một chuyện bất ngờ, đứng vụt dậy bối rối:
-Tôi…tôi…tôi có vợ con. Tôi ăn mặn từ đời nào…đâu thuộc kinh kệ đâu mà tu. Cô bác ơi! Tôi làm sao được, không lẽ tôi bỏ vợ con tôi à…Không được đâu.
-Thấy chưa!- Giọng ông Hoàng Ánh chen vào- Tôi biết ảnh không chịu đâu. Tôi nghĩ thế này, hay là để thằng con tôi là Chính Tâm nó đứng ra làm trụ trì…Coi như là tôi hiến cho chùa.
Nhiều tiếng chặc lưỡi, rồi trách móc ông Hoàng Ánh đôi điều, nãy giờ cả buổi ngồi họp. Vậy mà ông chưa hiểu vấn đề, cứ có thằng con mà rộ chuyện.
- Tôi biết ông cũng là phật tử tốt, nhưng anh Chính Tâm con anh có biết tí gì chùa chiền đâu. Người ta họp nãy giờ, đã thống nhất với nhau là người nào thân thích ruột rà với sư Thích Quang Thanh cơ.
Mọi người quay lại nói chuyện với Bảy Hạnh:
- Mấy chuyện đó, cô bác sẽ thông cảm cho anh. Anh đừng lo gì nhiều! Vấn đề là làm sao giữ cho chùa còn tốt đẹp mãi. Bà con sẽ giúp đở anh mà.
- Chuyện đó thì tôi không nói! Tôi nghĩ là làm sao tôi tu được khi còn vợ con bên cạnh.
- Thì từ từ anh sẽ quen dần thôi. Anh có xuống tóc qui y hay thỉnh thoảng về thăm vợ con, chúng tôi chẳng nói gì đâu. Chúng tôi thông cảm cho anh hết cả.
- Nhưng mà…
-  Thôi được rồi!- Anh công an quyết định- Bà con ở đây đã tín nhiệm anh, nên cái chính là giữ gìn cho chùa Liên Hoa Tự. Còn việc anh có qui y nhà Phật hay không là do ở tấm lòng của anh, chúng tôi không thể nào ép buộc được. Bây giờ, chúng ta bàn bạc tới đây xem như đã hoàn tất: vì tinh thần trọng đạo của mọi người, xin anh giữ vị trí trụ trì cho. Đó là lòng thành kính của anh với sư Thích Quang Thanh vậy.
Bảy Hạnh không sao từ chối được, anh nhận chức vị đó với nỗi lo canh cánh. Anh về với vợ con, mà lòng cảm thấy rầu rĩ. Anh kể hết cho chị vợ nghe, vì đồng quê heo hút có chức vị gì đó thì chị vợ lại ủng hộ ngay:
-Vợ chồng mình đã có ba mặt con rồi! Anh vào đó vừa đẹp lòng bà con vừa hạn chế việc sinh đẻ…Anh còn ngại ngần gì. Vả lại, ngày xưa Phật cũng có vợ con rồi đi tu đó sao! Tôi ủng hộ hết mình đó.
- Nhưng… đã quen ăn ngủ với nhau rồi…liệu có cầm lòng được không…nhỡ…
- Thôi đi anh…nhỡ sao được mà nhỡ…
Ngay cả vợ cũng muốn mình phải đi tu, âu cũng là số kiếp. Bảy Hạnh cho là mình có duyên với trời Phật, không muốn cũng không được. Mặc dù bà con cô bác thông cảm cho một người ngoài đời đã có vợ con không đòi hỏi phải ăn chay niệm Phật. Nhưng lương tâm của anh ray rứt và không muốn để cho chùa Liên Hoa mất tai tiếng. Anh tình nguyện ăn chay và mặc chiếc áo cà sa để khổ luyện. Danh xưng thầy thay thế cho chữ “anh chú”. Anh tự hứa xuống tóc quy y vào ngày vợ con được ổn thoả và quen dần với sự thiếu vắng của mình, đó sẽ là thầy tu mãi mãi.
Mọi người bàn giao lại một số của cải trong chùa. Thực ra, nó chẳng còn gì ngoài những tượng Phật đầy bụi, những cuốn kinh cũ mèm. Anh quản lý tất cả những đồ đạc chẳng đáng giá đó, song về mặt tinh thần lại là tín ngưỡng của cả một vùng.Bảy Hạnh được lòng bà con rất nhanh, được mọi người xưng tụng là “thầy”. Sau khoảng thời gian ngắn ngủi, chùa Liên Hoa được trở lại những ngày tháng ấm cúng, số người đến chùa tụng kinh mỗi ngày mỗi nhiều.
Có một sư già, dắt một ni cô còn nhỏ tuổi quãng độ hai mươi hai mốt, tên là Ngọc. Bà sư xin thầy Hạnh cưu mang:
- Nó không còn cha mẹ từ hồi mười một tuổi, về sống với ngoại được vài năm bà dắt vào chùa Xá Lợi tá túc, cũng có học chút đỉnh tiếng Anh tiếng Hoa, nhưng học ở Quan âm học viện thì không được. Bà ngoại nó mất, người thân duy nhất của nó không còn nữa. Nó theo tôi được mấy tháng, tìm chùa nào để gởi thân. Mong thầy cứu giúp cho nó một chỗ tu hành.
Thầy Hạnh không khó khăn trong việc lưu trú tại chùa. Vấn đề là ni cô Ngọc còn trẻ đẹp sợ bị dị nghị.
- Chùa nhỏ chỉ có một phòng nghỉ ngơi, lại thêm cô là con gái e rằng khó lòng người đời. Tôi không nỡ để cô ấy đi, tôi sẽ cho cô ấy lưu trú tại chùa này nhưng sư bà cùng ở chung thì tôi mới đồng tình. Tôi sẽ sang phòng sách mà nghỉ vậy.
- Thầy tốt bụng như vậy thì tôi đa tạ vô cùng- Sư bà bắt ni cô Ngọc cúi lạy tạ thầy Hạnh, chấp nhận cùng nhau ở lại để tu hành.
- Tôi không khó, nhưng cô còn con gái. Cô tu luyện ở đây thì bắt buộc phải theo nội qui của chùa. Thứ nhất cô đi đâu cũng phải trình, thứ hai cô phải tu luyện thật lòng.
- Dạ, đương nhiên là như vậy rồi!- Bà sư già lên tiếng để đỡ lời cho ni cô Ngọc- Nó cũng đã tá túc ở nhiều nơi nó hiểu nội qui của chùa lắm.
Một anh nông dân bắt được một con rùa lớn cũng đem đến tặng chùa:
- Tôi mới bắt được con rùa này đấy!- Anh ta mở chiếc giỏ đệm ở trong có đựng một con quy to khoảng chiếc nắp vung nồi số mười, trên lưng có khắc năm 1930- Này nhé!- Anh ta khoe và thả con Quy ra khỏi giỏ- Con quy này chắc bẩm là sống đến gần một trăm tuổi rồi đấy, hồi đó ai bắt được nó, rồi khắc năm vào đây. Bây giờ tôi bắt được nó cho nó vào chùa cho nó tu luyện đây.
Nói đến đó, anh ta áp tai nói nhỏ cho bảy Hạnh nghe:
- Trước tôi nghe thầy tư Để nhậu quá chưa dám đem tới, nghe thầy được bà con tín nhiệm tôi mới mang vào đó nghen.
- Anh làm như vậy là đúng- Bảy Hạnh đáp lại, rồi nhìn con Quy- Chắc có lẽ nó tu ở đâu đó, nên mới có đại phước gặp anh. Nếu gặp mấy tay nhậu nhẹt nào thì con Quy này chắc bẫm đi đời.
Con Quy được đánh dấu năm một lần nữa, rồi thả ra dưới vuông sân nằm chính giữa chùa. Nó có vẻ dạn dĩ với con người, ngước nhìn xung quanh tìm nước.
Sáng ngày hôm sau, bảy Hạnh định thả nó xuống ao sen, nhưng không thấy đâu. Hết sức ngạc nhiên, vì bậc tam cấp cao như thế không thể trèo lên được. Vậy thì ai bắt? Bảy Hạnh lần theo dấu vết, thấy nó lết trên nền nhà vào phòng đọc sách, đến cái chân cột thì thấy nó chúi mũi vào đấy. Nó thấy anh nên cứ bườn người vào trong phiến đá. Cứ tưởng phiến đá dưới chân cột rất chắc chắn, nhưng con Quy ủi phiến đá ấy dịch chuyển được. Thấy lạ, bảy Hạnh nhích phiến đá ra khỏi chân cột, thì thấy có một căn hầm.
Bảy Hạnh biết căn hầm chứa đựng nhiều thứ bí mật, quyết không nói bất cứ ai biết để cần khi hữu sự, còn tránh phiền toái cho chùa. 
III
Một người đàn ông có tầm vóc mảnh khảnh. Dáng người không gầy, cao ráo lịch sự, đeo kính trắng…Có vẻ không là người Việt Nam. Người đàn ông cao ráo lịch sự ấy có vẻ thích nơi vào Liên Hoa Tự lắm. Ông vừa đi vừa ngắm dọc suốt con đường và nó như tự thân quen với ông tự thuở nhỏ mà ông đã biết đến.
Hai hàng dâm bụt tạo cho con đường nhỏ bé thoáng mát và những chiếc bông hoa đỏ nhuỵ vàng dài, làm cho con đường có vẻ đẹp nhẹ nhàng. Ông đứng lại trước khoảng sân mà tụi nhỏ đang chơi đùa. Bọn chúng mải mê chẳng để ý gì đến ông, vì chùa cũng bắt đầu có những vị khách còn lịch sự hơn ông nhiều đã đến viếng. Như gợi lại ký ức thuở nhỏ, nên ông đứng lặng yên quan sát. Ông mạnh dạn hỏi đám nhỏ, nhưng giọng của ông là giọng của người nước ngoài, chỉ như đứa trẻ bập bẹ từng chữ:
- Chơi cái gì gì?- Ông hỏi với giọng khó nghe.
Mấy đứa nhỏ dừng lại, thấy người lớn chắn ngang chổ chơi của chúng nên chúng chẳng tán đồng. Một thằng lì lợm nhất trong bọn mở miệng.
-Chơi táng u…
Người đàn ông đó buộc miệng:
- Trán…u…u…à…tui …cũng nhớ rồi. Tui…coi…tụi…bây …chơi…được không?
Mấy đứa nhỏ nhìn nhau làm hề, vẻ gần gũi với người đàn ông đó. Chúng cũng thích ông vì nói chuyện nghe rất tức cười, giọng xưng hô mày tao như những đứa trẻ hồi năm tuổi:
- Hồi đó …Tao…không…chơi…như…tụi…bây…! Tao…thích…chơi…u…kìa…
Mấy đứa nhỏ nhìn nhau bụm miệng cười, nhưng chúng không dám quá đáng vì ông cũng không biểu hiện gì là tâm thần, mà còn đứng đắn nghiêm nghị nữa là khác. Bọn chúng không còn lo lắng gì trước một người lớn có tính trẻ con như vậy. Bắt đầu chúng chơi một cách nhiệt tình và hào hứng, để chứng tỏ mình chơi trội hơn. Đến nỗi, một thằng thảy khúc cây cho thằng kia táng, nó bay thẳng vào mắt kính người đàn ông đó, rớt ra. Mắt kính bị nứt như một cái ngôi sao. Người đàn ông không giận, nhưng lại nói:
Tao…không…coi…mấy…đứa…bây…chơi…nữa!Mấy…đứa…bây…chỉ…dùm…đường …vào… chùa…Liên…Hoa…Tự…đi.
- Đi thẳng…là gặp- Mấy đứa nhỏ đồng thanh la.
- Tao…đi…thẳng…hả?
- Ừ…!- Tụi nhỏ lại rối rít.
- Dạ…chứ…không…ừ, tao…nhớ…hồi…nhỏ… “ừ”…là má… đánh… đòn…Là không…là không…
Người đàn ông khó nói ra một từ nào đó, ông liền chỉ vào mấy cái bông. Mấy đứa nhỏ nhắc:
- Không… đẹp!
- Không…đẹp…- Ông ta nhắc lại, rồi chào mấy đứa nhỏ- Thôi…tao…đi…nghe…Tao…coi…chơi…nữa…không…được.
  Người đàn ông đó tiếp bước, đi sâu mãi vào phía trong. Đến lúc thấy  chùa Liên Hoa Tự, ông thấy nó không thay đổi gì lắm (vì hồi năm tuổi, ông đã ở đây). Ông đọc được hàng chữ Hán ở hai bên cổng, đẩy cửa bước vào trong.
Khoảng sân rộng thênh thang, một cái hồ trồng đầy sen. Sự thanh tịnh không khác gì hồi xưa: nhẹ nhàng, không buồn, không lo toan điều gì cả. Ông đứng lặng im, tìm bóng dáng mình ngày trước, gợi nhớ lại được chút ít.
Vào trong, ông nhẹ nhàng nhưng lời lẽ vẫn còn ngọng nghịu:
- Ai…ở…chùa…không?- Ông gõ tay lên cửa.
Một lát sau, một chú tiểu nhỏ chạy ra đầu cạo chừa chỏm tóc phía trước rất dài vắt qua mép tai. Chú khoanh tay rất lễ phép, ngước mắt tròn xoe:
- Thưa ông! Ông cần gặp thầy trụ trì hả?
- Ừ! Mày kêu dùm…dùm…thầy…
  Chú tiểu rất ngạc nhiên nghe giọng người đàn ông lơ lớ, không dám hỏi gì thêm. Chú liền chạy vào trong, gọi Bảy Hạnh. Chú tiểu khoanh tay lại thưa:
- Thưa ba! Có người cần gặp ba…
 Bảy Hạnh bước ra, chào theo cách của người nhà chùa, bằng hai tay xá:
- Ông cần gặp tôi, có việc không?
- Mày là ai?- Người đàn ông đó hỏi.
Nghĩ mình nhỏ tuổi hơn, nên Bảy Hạnh không tỏ vẻ gì bối rối, liền thưa:
- Thưa ông! Tôi là Trụ trì ở chùa này…được gọi là thầy Hạnh.
- Mày là vị trụ trì à…Trụ trì là gì?
- Thưa ông! Trụ trì là coi chăm sóc chùa, giữ gìn của cải của chùa cho chúng sanh đến để tu tâm dưỡng tánh, cúng Phật.
- Mà tao hỏi mày biết…Sư…Thích… Quang...Thanh....không?
- Dạ thưa ông! Sư Thích Quang Thanh...đã về cõi Niết Bàn vài năm nay rồi. Ông là người thế nào với Sư mà biết sư…
- Tao biết chùa này từ lâu rồi! Mẹ tao gởi tao ở đây, tới năm tuổi tao theo ba tao…Ba tao là người Nhật Bổn. Mày biết tao đến đây để làm gì không?
- Thế ông về đây để thăm sư à?
-Tao đến để cho vàng xây cất chùa. Tao sẽ làm cho chùa lớn nhất Việt Nam.
Thầy Hạnh mừng rỡ, cảm thấy quí người đàn ông nọ vô kể. Ông ta ngập ngừng một lúc, rồi hỏi thăm:
- Ở đây có một căm hầm, tao không biết nó nằm ở đâu? Mày biết không?
Vì người đàn ông xa lạ, nên thầy Hạnh nghĩ mình không nên nói ra:
- Tôi không biết…
- Thôi, bây giờ tao phải đi tìm một người thân quen, con của mẹ tao…Mình xin chào, vài bữa mình tìm lại thầy đó.
-Xin chào ngài. 
Ông ta rời khỏi chùa Liên Hoa Tự.
IV
Trước kia, hai cha con cũng từng đôi co. Chính Tâm bao lần muốn cha mình bán đất kiếm một số vốn để làm ăn, nhưng anh chỉ nhận lại những lời khuyên: rằng đất ông bà hãy giữ kỹ, rằng cần chi phải làm ăn giá đất mỗi lúc càng cao ắt có sẽ có lãi; hoặc cha anh cũng dụ dỗ bằng những lời lẻ đường mật: rằng ở trong đất nhà ta có vàng, tựa như ý nghĩa câu chuyện cổ tích rằng ta cứ cày bừa nó lên và gieo hạt, thì đấy là vàng đấy con ạ. Hồi trước anh còn nhỏ còn tin, còn cho là câu chuyện ấy mang nhiều triết lý, nhưng bây giờ anh lớn rồi. Anh cảm thấy mình lẩn quẩn trong khu vườn này chỉ nghèo với nghèo, rằng không thể chấp nhận hoàn cảnh thất nghiệp như thế này mãi, rằng anh phải bắt tay vào việc nào đó. Anh quyết định rời khỏi quê nhà hẻo lánh này lên thành phố mà tìm lấy công ăn việc làm…việc gì cũng được, ngay cả việc làm hồ.
Hai cha con đang ngồi cưa cây để bán củi, Chính Tâm không chần chừ nữa:
- Ba à con phải đi thôi…Con nghĩ cuộc sống trước sau gì cũng phải tự lập, còn phải làm giàu không thể sống thế này mãi được.
-Anh làm cái gì đi nữa, rồi tôi biết anh cũng sẽ về đây, chứ chẳng có gì khác hơn. Tôi nghĩ anh nên ở lại.
-Nhưng con đã quyết định rồi cha ạ!
-Quyết định rồi? Như vậy để tôi lại với ai? Vườn này chỉ còn có mộ của ông bà nội và mẹ của con thôi…Tôi sống bên họ một mình à?- ông Hoàng Ánh liếc nhìn Chính Tâm, nhưng biết nó đã quyết định rồi. Ông đứng lên rồi đi lại mộ vợ ấm ức khóc- Bà ơi! Bà như vậy xem chừng đã khoẻ. Tôi sống mà không có đứa nào lại bên mình.
Nói xong, ông đem cất cưa và đi ngủ cho đến chiều. Chính Tâm lặng lẽ ra đi và bắt đầu tự đảm trách bản thân mình. Những ngày đầu lo chỗ ăn chỗ ở, anh vào làm cho một công trình xây dựng, cố gắng học thợ làm hồ và có tiến bộ rất nhanh.
Ngày qua ngày, Chính Tâm chẳng biết mỏi mệt là gì nữa. Hoà nhập vào đám thợ như chẳng thiết nghĩ đến cuộc sống sung túc bên ngoài. Công việc nặng nhọc, đám thợ chỉ biết ngủ để lấy lại sức mà thôi. Anh muốn hành xác để cha mình nao lòng.
Vào thời gian đó, ông Hoàng Ánh thường đến chùa Liên Hoa và cùng nói chuyện với Bảy Hạnh nhiều hơn. Song, lúc đầu ông không phải có ý nghĩ tu hành, mà vì tuổi già của ông quá cô quạnh.
Những tưởng con người có lúc được nghỉ ngơi cho thảnh thơi, nhưng hình như lúc nào cũng tất bật cả. Ông Hoàng Ánh có con cái đông, thế mà họ để cha già sống một mình. Người ta trách cứ gia đình ông đều có những đứa con ăn học, nhưng chẳng có ai cạnh kề bên ông lúc về chiều. Lớp thì có gia đình ở xa, lớp thì đến thành phố Hồ Chí Minh tìm việc làm trên ấy.
Khi đã cảm thấy mình bị đào thải, phản xạ bẩm sinh của con người là muốn mình hội nhập vào cuộc sống. Ông Hoàng Ánh biết thời gian tồn tại trên trái đất này không bao lâu nữa, bị ruồng rẫy và cô độc nên muốn hướng tới tập thể con người hơn. Ở đây không có hội dưỡng lão nào, đi chùa có người này người nọ nói chuyện tu hành cũng đở buồn.Vả lại, biết đâu cõi Niết bàn là có thật. Sẵn dịp ông chưa chết, biết đâu đến chùa thường cũng có một suất trên cõi Niết Bàn. Ngoài ra, ông Hoàng Ánh đến với đạo Phật, chỉ vì đạo Phật lên tiếng nhắc nhở con người phải trọng chữ đạo hiếu. Biết đâu lòng tin đạo sẽ đánh động vào đám con trẻ.
Hôm tới chùa, ông tình cờ nghe nhà sư được rước ở thành phố về thuyết pháp. Sư thầy giảng đúng bài hiếu đạo của con người. Ông thu vào băng Cát-sét, tối nào nằm ngủ cũng mở ra nghe, thiếu điều như muốn thuộc lòng:
- Ông Văn Công bên Tàu, có đứa con gái đi lấy chồng. Cô ta không về thăm ông. Nên ông buồn mới đi lang thang mà rao: “ Ai mua cha không! Ai mua cha không!”. Có hai vợ chồng mồ côi cha mẹ từ nhỏ nhận nuôi ông. Vợ chồng nuôi ông đến hết tiền, thì liền bán bộ bàn ghế; Hết bộ bàn ghế đến giường ngủ; rồi đến hết đồ trong nhà. Người thanh niên nọ liền bán vợ đợ con, nhưng rồi vẫn không đủ tiền nuôi cha. Đến khi không còn tiền nữa, thì ông quyết định ra đi và căn dặn: “ Cha đi đến nơi nào, mà sau này nếu như con có tìm cha, thì đến nơi nào có cái cổng để hai chữ Văn Công, đó chính là nhà của cha”. Sau này, người thanh niên đi tìm cha và đúng cái cổng người cha căn dặn. Lúc ông Văn Công nhận ra người thanh niên đó, nhớ lại đứa con hiếu thảo. Ông cho hết ruộng đất nhà cửa cho anh”. Đó là tích xưa, nên con gái sau này phải trùm khăn kín mặt, vì e thẹn không báo đáp được hiếu nghĩa. Vì vậy mà phu tử có câu: “ Nam đại bất thủ như mã vô cương, mà nữ đại bất giá như Tư diêm phạm thủ”. Ý nói về con trai mà không cưới vợ mà như ngựa vô cương, mà con gái không lấy chồng thì như con Tư diêm. Con Tư diêm đi theo mẹ suốt từ nhỏ đến lớn, không rời nữa bước nhưng đến khi có ai đó rờ đầu thì đi theo luôn.
  Ông Hoàng Ánh rất thích nghe chuyện đó. Câu chuyện cũng có chỗ mâu thuẫn nhưng ý nghĩa về đạo hiếu của con cái, tức sẽ được đền bù. Như gợi lên tính cao thượng của ông, ông cảm thấy số phận của mình có trong đó. Ông nghĩ các con ông bỏ bê ông là bỏ mất đi nguồn lợi nào đó.
Cứ mỗi lần nghe là ông cảm thấy tinh thần mạnh mẽ ra. Ông tiếp tục chăm sóc vườn nhãn kỹ lưỡng hơn. Trồng Long nhãn cực lúc đặt gốc chiết thôi, chứ khi tàng nó xum xê có cực chỉ mấy ngày rộ…Có những nơi người ta trồng được vài mùa, ông không có tài ba trong việc đó (hoặc không ai giúp kỹ thuật cho ông, cũng như nhân công). Khoảng chừng ba tháng, khi kết trái ông bao lại lần và coi đó như công vui làm vui tay vui chân. Chẳng sợ nắng noi gì mấy, chiều chiều ra làm cũng được.
Đợi đến mùa, ông neo lại vài ngày chờ giá lên. Mấy công nhãn cũng đẻ ra bạc triệu, ai nói ở đây ông không làm giàu…cần gì phải bỏ làng quê ra đi, ông thầm trách thằng con Chính Tâm như vậy.
Đến khi vườn nhãn bắt đầu thơm rực, mùi thơm len lỏi khắp ngọn cỏ. Ông già khoan khoái không khí này lắm, ông hít một hơi thật dài đầy phổi, lâu lắm rồi ông mới hít thở một hơi dài đến đã như vậy. Ông tựa như một vị tiên già giữa bầu trời ngạt ngào lồng lộng hương thương, những ngọn cỏ mềm mại cũng ngốc đầu lên ngửi mùi trái cây chín mồng mộng. Giá cả đang lên, mùi thơm ngào ngạt nghĩa là cũng có nghe mùi tiền đâu đây.
Tất cả những cảm xúc hiện tại, chỉ vì ý nguyện là ông muốn đi tu. Bổn phận nuôi con ông đã làm tròn, thì tại sao ông không có quyền đi tu. Tuổi già hiu quạnh ai hiểu cho ông, ở chùa có một nhóm người hướng tới điều thiện và người ta chăm sóc nhau bằng triết lý nhà Phật. Đành rằng sắp lìa đời, nhưng sống phải đông vui chứ…Những ý nghĩ đó làm ông trẻ lại, ông năng hoạt động ra.
  Ở chùa Liên Hoa đang mở lớp học đạo, năm nào cũng chỉ một lần. Người ta gọi là ba tháng An cư kiết hạ. Sáng ba giờ tụng kinh Lăng nghiêm, đến tám giờ học (và có khi cúng Ngọ lúc 11 giờ); Rồi đến chiều lại tụng kinh Pháp Hoa (hoặc Vu-Lan- Bồn). Theo chế độ nghiêm ngặt như vậy suốt ba tháng, rồi sẽ tổ chức làm lễ dâng y.
Tội nghiệp ông Hoàng Ánh già cả, làm lụng ở ngoài xem ra dễ hơn. Những khi ông quì đến đau nhức đầu gối, mà không dám hó hé với ai một lời; Mắt kém đọc không chạy chữ, cứ đọc sau người khác hoài; Trí nhớ thì yếu kém, không làm sao thuộc kinh kệ và cuối cùng đến lễ dâng y thì ông bị rớt. Kết quả như vậy làm ông nản chí. Số tiền ông thu được qua mùa Nhãn cúng hết cho chùa, mà ông cũng chỉ là phật tử bình thường nên cảm thấy hơi buồn. Trong đạo, sự ganh đua không phải là không có và tranh giành để tu tốt hơn được cho là tốt, nên ông cũng tranh giành cho có chức vị với người ta? Cuối cùng, ông còn tìm thấy một mục đích cho việc tu hành của ông nữa, đó là tích phước đức cho Chính Tâm..
Ông nghĩ vậy, vì Chính Tâm là đứa con làm ông nửa thương nửa giận. Việc anh đi tìm việc làm rồi làm ăn ra sao? Không hề có một đồng vốn, chắc gì lo nổi cuộc sống bản thân mình, nói gì đến việc làm giàu. Ông hiểu con ông không có tài kinh doanh, thế mà nó nói, chừng nào nó giàu có nó mới về. Ông rất giận Chính Tâm một điều, dù có làm ăn được hay không được thì cũng thơ từ hoặc điện thoại cho ông biết tin tức…Gần một năm qua, anh đi đâu biền biệt. Tết cũng không chịu về.
  Ý nghĩ tu để tích phước đức cho thằng con, nên ông Hoàng Ánh vẫn bền bỉ đến chùa tụng kinh mỗi tối. Ông cầu an cầu phước cho thằng con, và nỗi phiền luỵ nhớ thương con mỗi lúc mỗi tăng. Mỗi lần quỳ lạy Phật, có khi ông khóc thút thít. Rồi nán lại chùa thêm chút ít để chuyện trò với  ni cô Ngọc ( đang cùng khoá học). Vì thấy ông buồn và có những nỗi lo chánh đáng, nên cô  vẫn thường nghe ông tâm sự.
  Không biết tự bao giờ, Ni cô Ngọc quan tâm đến Chính Tâm như cô vậy. Cô không biết Chính Tâm là ai, nhưng qua lời của ông Hoàng Ánh kể, thì cô mường tượng anh là một người thanh niên hiền hậu và nhiệt tình. Còn ông Hoàng Ánh, ngoài việc nhớ thương con. Ông kể chuyện cho ni cô Ngọc nghe, nhưng ý nghĩ của ông cũng có ý chọn vợ cho con.
  Từ lâu, ông đã ngầm lựa chọn và cân nhắc kỹ lưỡng. Người mà ông cảm thấy vừa ý nhất, đó là ni cô Ngọc này thôi. Lúc học An cư kiết hạ, ông nhìn ni cô Ngọc thấy cô tận tuỵ tu hành, có học thức nên thuộc kinh kệ nhanh hơn ai hết. Cô nói năng lễ độ, có trước có sau và luôn luôn lễ phép với tất cả mọi người. Ngoài việc đến chùa để tụng kinh, cô còn tiếp tay với các ni cô lớn tuổi khác may vá và lo bếp núc. Tất cả những việc cô làm, ông Hoàng Ánh đều ưng bụng. Ông mong sao cô đừng đậu vào lễ Dâng y, chỉ là phật tử bình thường. Nhưng ngược lại, ông thì rớt cô đậu. Ý nghĩ đến việc cưới xin một ni cô, phá việc tu hành chắc là có tội với trời đất. Nên mình gặp phải tai ương, song ông bướng bỉnh nghĩ là: nếu như ni cô Ngọc lấy Chính Tâm và vẫn tu hành có sao đâu? Như thầy Hạnh đó, xem như về Niết bàn không trọn vẹn thì về đó một nửa thôi.
  Mấy lần ông có ý muốn nói ra cho ni cô Ngọc biết như vậy, nhưng ông lưỡng lự bao lần chưa nói được và rất sợ không những cô từ chối, mà còn nói ông là đồ gàn dở. Tu hành như ông chỉ có nước phá chùa chiền, phá đạo, chứ nói chi đến thành đạt. Cuối cùng ông vẫn để lòng, cốt ý để cho ni cô Ngọc quan tâm đến thằng con của ông cũng như ông vậy. Nếu trời có xui hai đứa thương yêu nhau, thì trời tội chứ ông thì ngoài cuộc.
Ông già nghĩ vậy, nên vẫn đến chùa. Mặc dù mục đích của ông bị thay đổi nhiều.
Mấy ngày sau, không biết trên trời có Phật hay không? Sự mong ngóng của ông Hoàng Ánh linh nghiệm, Chính Tâm trở về và duyên nợ như đã được định sẵn như vậy.
- Tất cả là nhờ phước đức của Phật trời- Ông nhìn Chính Tâm từ đầu tới chân và nói như vậy.
  Ông thấy anh đen đúa và râu mép mọc nhiều, hơi lạ đối với ông. Nhưng đó là đứa con của ông, vẫn mạnh khoẻ và gan lì. Ông mếu máo trách cứ ngay:
- Con đi đâu cũng vậy, phải báo tin cho cha biết chứ! Con có biết để cho cha mẹ buồn phiền là bất hiếu không? Là có tội với trời phật không?
  Chính Tâm chỉ gục đầu nghe. Anh hối hận không hiểu vì sao trước đây mình không hề viết một lá thư nào về cho cha.
- Bản ngã chứ gì! Ỷ là mình sẽ làm nhiều tiền được mới ra mặt chứ gì. Anh đem được đồng nào cho tôi nào?
  Chính Tâm đi thành phố không xin được việc làm, nên chỉ đi làm hồ. Ở xứ lạ quê người không mang được đồng nào về cho cha, cũng quê quê:
- Con xin lỗi cha về việc đó! Nếu như lần sau con có đi đâu con sẽ nhắn tin tức lại.
- Cái gì… Cái gì, có lần sau nữa à? Anh lại muốn tôi buồn phiền và chết nữa hay sao?
  Chính Tâm biết mình đã lỡ lời, anh chỉ muốn nói cho khí thế một chút vậy thôi. Ông Hoàng Ánh được nước làm tới:
- Đó… Con thấy không? Cải lời cha mẹ là trăm đường con hư. Lúc con rời nhà ra đi, cha đã cản mà con vẫn cứ cải lời. Ở nhà trông coi vườn tược, cũng kiếm ra tiền chứ tưởng không có sao?
Ông Hoàng Ánh luôn miệng trách cứ Chính Tâm, chỉ vì ông nhớ thương anh quá nhiều. Nhưng Chính Tâm dẫn xác được về đến nhà là ông Hoàng Ánh vui rồi, ông không cần bất cứ một cái gì và chỉ cần anh bình an như thế này là đủ. Chính Tâm cũng biết vậy nên không hề phật ý, khéo léo gợi chuyện:
- Thế ở nhà, mùa nhãn này ba thu hoạch được bao nhiêu? Cho con làm vốn…
- Hả? Vậy là anh về đây… là vì mùa nhãn…chặc…thật là…con cái.- Ông Hoàng Ánh thở dài, rồi đẩy luôn- Ta cúng chùa hết rồi! Làm vậy, để anh được phước đức đó…chỉ vài ngày là anh vác mặt về liền đó.
- Đó thấy chưa!- Chính Tâm rên lên- Sao con của ba thì ba biểu phải cày bừa, phải khổ luyện. Thời nay không có vốn liếng sao mà ngóc đầu lên được, làm sao mà giàu có với người ta. Bởi thế con không bỏ nhà ra đi nữa không được rồi…
- Giàu có làm gì con ạ! Chết có đem theo được đâu- Ông Hoàng Ánh nói đến đó, cảm thấy vô đề thuyết nhà Phật. Bấy lâu nay ông học được những gì, bắt đầu vận dụng.Ông nói- Con ơi! Cuộc đời này có sung sướng gì đâu, cuộc đời là bể khổ. Cuộc đời chỉ là vay mượn, rồi phải trả lại những gì mình đã vay.
Ông Hoàng Ánh bắt Chính Tâm hít vào rồi thở ra. Ông nói rằng không khí là ở bên ngoài chứ không phải của con người, nghĩa là con người chỉ mượn tạm rồi trả ra, rồi lại mượn rồi trả ra.
- Có khi nào con mượn rồi con không trả không? Có khi nào con trả mà không mượn lại không? Chỉ khi con nhắm mắt mới thôi không mượn không trả.
Ông Hoàng Ánh cố chứng minh rằng cuộc đời con người chỉ tạm bợ trên thế gian này, như thế đã khổ rồi còn tham sân si chi nữa thêm khổ.
- Vậy chứ ba coi! – Chính Tâm thấy ông nói đến thuyết nhà Phật và không muốn anh quỵ luỵ đồng tiền. Anh cảm thấy không xong nên nói lại - Nếu như mình không làm lụng kiếm tiền, nghèo mà còn đen đúa như thế này có ma mới ưng…
- Không ưng thì thôi! Mình đến chùa tu. Không vợ con, tu mau lên chức…
- Đang tuổi sung sức làm ra đồng tiền, lại đi tu mới là kỳ khôi. Con không thể nào làm như vậy được.
- Con ơi cuộc đời chỉ là tạm bợ mà thôi. Ta tu đi để còn về nơi vĩnh hằng.
Chính Tâm cũng tưng tức, không hiểu sao tuổi trẻ như anh tràn trề nhựa sống. Ba không giúp vốn cho mình thì thôi còn bảo đi tu. Anh cố nhạy lại:
-  Con đồng ý thế gian này là tạm bợ. Sự sống trên trái đất có sinh thì có tử, cuộc sống chẳng vĩnh hằng. Song, mục đích sự sống là được duy trì nòi giống, ghi nhận trong gien con người ta. Bộ con muốn lấy vợ lắm sao? Tự dưng tới tuổi thanh niên nó đốc thúc con như vậy. Gien đó là tổ tiên truyền cho ba, rồi ba truyền cho con. Rồi ba bảo con thôi tu đi, ai mà làm được. Việc duy trì nòi giống là một bản năng tự nhiên. Mà muốn duy trì nòi giống tốt thì phải làm ra tiền, để được con gái đẹp đẽ. Muốn làm ra tiền thì phải có vốn mạnh, còn phải sắm nhà lầu xe hơi. …Những việc đó cũng là bản năng của con người, làm sao mà con làm ngược lại được.
- Chặc…- Ông Hoàng Ánh lại chặc lưỡi, rồi lại nhỏ nhẹ thuyết giảng (cái cách này ông học được ở các nhà sư thuyết pháp)- Có nhà, có xe hơi, chết có mang theo được đâu.
- Có nhà, có xe hơi để con cái được điều kiện tốt thì được giống tốt…
  Một con muỗi đậu trên tay ông Hoàng Ánh nãy giờ. Nó âm thầm hút máu, nhưng ông Hoàng Ánh không muốn sát sanh. Ý nghĩa của việc tu hành là phải cảm thông với mọi con vật, nó cũng quí sự sống như con người nên ông cứ để yên cho nó hút máu. Chính Tâm nhìn thấy, liền nói khẽ:
- Con muỗi trên tay ba kìa…
- Biết rồi- Ông Hoàng Ánh từ bi- Đừng sát sanh con ạ.
- Muỗi hút máu là muỗi cái. Cha mà không giết nó, là đẻ cả triệu trứng mang mầm bệnh giết người. Ở đó mà ba từ bi…
Ông Hoàng Ánh ấm ức con muỗi cắn ngứa lắm rồi, nghe Chính Tâm nói thế. Ông đập cho nó một cái nát bét, một chút máu văng tè lè.
Nếu ép Chính Tâm đi tu, thì chắc anh lại bỏ nhà ra đi. Thằng con của ông nói cũng có lý đúng, ông nói nhè nhẹ:
- Dù sao thì chùa cũng gần nhà, con đến nghe giáo lý đạo Phật một vài ngày có sao đâu. Hơn hai ngàn năm qua, người ta tin tưởng Thích ca mâu ni. Con sao hơn mọi người được.
  Tiếng điện thoại di động reo vang. Chính Tâm đi làm hồ, nhưng cũng sắm cho mình một cái. Vừa coi số điện thoại xem ai gọi, vừa nhại lại một cách hết sức vô thức:
- Phật lúc ấy có biết sử dụng điện thoại di động không? Chưa chắc…Thế mà ai cũng nói ngài quyền năng vô biên.
- Nhưng ngài biết thời thế có cũng như không, rồi cái gì cũng trở về hư vô…
- Có hơn mấy ngàn mấy trăm năm trước tự dưng bắt mình theo, sống cho người ta lựa chọn với chứ!
Chính Tâm bước ra ngoài rồi. Anh ốp điện thoại lên tai và trả lời với anh bạn nào đó, là mình đã về quê không theo công trình nào nữa.
Càng nói, Chính Tâm giọng lưỡi ngang tàng của của kẻ làm hồ. ông Hoàng Ánh lắc đầu. Một mặt cưng con sợ nó bỏ đi nữa, mặt khác ông thấy mình cũng có lỗi trong việc cúng hết số tiền bán nhãn cho chùa chiền. Không ngờ nó về, những ngày tới chật vật từng bữa rồi đây. Cái lý của con đơn điệu nhưng hình như là vậy: Con người và con vật đúng là chết là hết, chỉ một mục đích duy trì nòi giống là chính. Nay phải bắt nó dừng lại, để đi tu cũng khó cho nó. Chẳng những ông Hoàng Ánh chẳng ghét bỏ gì anh, mà ông còn nhen nhúm lại việc anh phải có vợ con. Ông lẩm bẩm: “Phật ới con còn nợ thằng con, nợ trần gian còn sao thể đi tu được.
V
 
Ông ta tìm đến khu vườn già cỗi của ông Hoàng Ánh và đứng ở bên ngoài và cố gắng nhớ đến nó.
- Nhiều thứ thay đổi…Còn mẹ thì chết rồi!
Tiếng chó sủa làm ông Hoàng Ánh giựt mình. Ông đi chậm rãi từ vườn ra, đoán nhìn để đoán xem ai ngoài đó. Ông thấy có người sao trạc giống mình quá, nhìn có nét quen thuộc nhưng không biết đó là ai. Ông la mấy con chó, rồi mở cửa rào:
- Ông đến tìm ai vậy?- Ông Hoàng Ánh hỏi người đàn ông nọ.
- Tao đến tìm mẹ…ở đây…Tao còn nhớ là ở đây! Hồi còn năm tuổi tao ưa đến chỗ cây Me kia kìa…Mẹ tao là Hoàng Lan, còn mầy cũng là con của mẹ tao à?
- Đúng như vậy! Nhưng tại sao mẹ của tôi lại là mẹ của ông nữa. Tôi không nghe nói…
- Tao …không biết kể…Tao không còn nhớ tiếng Việt Nam. Hồi tao đi sang Nhật, Tao chỉ có năm tuổi, mày chỉ mới sinh ra à…mà mày không phải là con của ba tao.
Một lúc sau, ông Hoàng Ánh dẫn người đàn ông xa lạ nọ ra khu vườn. Nơi ông bà và mẹ của họ yên nghỉ. Ông ta đốt nhang trước nấm mộ của bà Hoàng Lan. Ông Hoàng Ánh cũng đốt một nén nhang. Ông vái:
- Lạy mẹ. Chắc là mẹ linh thiêng khiến cho anh em chúng con gặp nhau. Nhưng sao lúc còn sống, mẹ không nói gì cả, để đến nay con mới biết được điều này và đầu đuôi ra sao vậy? Con mau mong hiểu được cặn kẽ…
Hai người đồng lạy, rồi họ đứng lên nhìn nhau. Ông ta nói với ông Hoàng Ánh:
- Chúng ta là anh em…Người đi trước tạo ra như vậy…Ta còn ở lại Việt Nam làm ăn, rồi sẽ giúp gia đình mày…Ở đây thật nghèo…
  Cả hai im lặng nhìn nhau một lúc, ký ức họ như trở về những năm trước. Cuối cùng, tình máu mủ ruột rà như ẩn chứa bao điều sâu xa, họ như trao niềm tin cho nhau và đồng thời ôm lấy nhau để nhận ra cùng một mẹ. Ông ta thỏ thẻ bên tai ông Hoàng Ánh một điều bí mật trong khu vườn, rằng trong vườn nhà ta có chôn cất một kho vàng. Ông Hoàng Ánh thốt lên:
- Sao? Vàng à…Sao mình không lấy lên để sài chơi…
- Chưa được…Vàng đó để xây chùa. Ba tao căn dặn như vậy, nhưng chôn ở đâu trong vườn? Tao không biết…mày biết không?
- Không biết!- Ông Hoàng Ánh tỉnh lại, cho là ông ta chơi cắc cớ. Mấy việc này thường nghe nói. Chắc như chuyện cổ tích ông anh muốn mình cuốc bẫm cày sâu và bảo thành quả lao động đó lá vàng đấy. Ông Hoàng Ánh rành mấy vụ việc này quá, bởi vì ông thường dạy Chính tâm như vậy không lẽ mình bị phỉnh lại.
Ông ta bình tĩnh cố gắng nhớ lại từng tiếng:
- Trước khi qua đây, tao có học lại tiếng mẹ…Nhưng có gì mày nhắc nhỡ tao. Tao nghe ba tao nói, vàng giấu trong vườn này… mà phải có bản đồ chôn giấu kìa.
- Bản đồ để đâu…- Ông Hoàng Ánh hỏi lửng.
- Ở trong cây kiếm.
- Cây kiếm nào?
- Cây kiếm của ba tao.
- Vậy ba của anh để cây kiếm ở đâu?
- Trong căn hầm dưới chùa Liên Hoa. Nhưng tao nghe nói thôi, vì ai là trụ trì mới tìm ra được căn hầm đó.
- Kỳ quá! Thực sự tôi không hiểu gì hết.
Ông già đang nói chuyện với ông Hoàng Ánh chính là Akio Yamato, vậy là ông Hoàng Ánh chính là em cùng mẹ khác cha của ông. Bây giờ mới có điều kiện sang Việt Nam thực hiện những lời cha căn dặn, tìm lấy số vàng mà người Nhật chôn cất. Đem số vàng đó để xây cất chùa nhưng có những điều ông chưa biết rành rẽ: căn hầm cũng như số vàng mà cha đã chôn tại vườn nhà bà Hoàng Lan. Hai ông già đến gần mộ bà Hoàng Lan, van vái để mong tìm kiếm số vàng trên mảnh đất của họ. Hai ông già bớt chút xúc động. Lần này thì ông Hoàng Ánh tin rằng khu vườn ông có vàng, nhưng nơi nào thì ông không biết. Trước đây, ông đã đào hai ao nuôi tôm nhỏ. Ông lo lắng không biết có khi nào bọn đào đất khi ấy lấy mất không? nhưng hy vọng tìm thấy có vàng hình như đời người ai cũng mơ ước, nhất là việc ông thường bịa cho thằng con nghe để nó đừng đòi bán đất không ngờ lại có thật. Ông nhìn khu vườn rộng thênh thang, nhưng biết nó chôn ở đâu đây? Cuốc được vài cuốc, ông cũng liệng cây cuốc rồi vào đưa võng tòn ten, cùng ông Akio ngắm nghía khu vườn để đoán mò nơi chôn cất.
Chính Tâm lang thang từ chợ về, bước vào nhà thấy ngay người khách lạ nằm cạnh ông Hoàng Ánh. Ông Hoàng Ánh vụt dậy, đang lúc ông Akio còn ngủ ông khoe ngay với thằng con, để nó không còn đi làm ăn chi đâu cho xa nữa.
- Đó là người bác Nhật của con đấy! Ba cũng mới biết…(Bà nội con có một người con riêng với người Nhật). Ổng mới sang đây và nói rằng cha ổng có chôn cất vàng trong khu vườn nhà mình…Chuyện đó tuyệt đối phải giữ kín, không được để cho ai biết.
Ông Akio chợt mở mắt ra, nhìn thấy Chính Tâm chợt gật gù. Ông ngồi hẳn dậy, có vẻ như ông chấp nhận chia sẻ cùng bí mật với Chính Tâm. Hai ông cháu chào nhau, rồi cũng nhìn khu vườn rộng thênh thang như tự hỏi: “ Vàng ơi vàng! Mày nằm đâu thế?”.
Chính Tâm hăng hái săn tay áo lên, tinh thần mới đó mới đây đã đổi khác. Hai ông già đứng nhìn anh cuốc, tâm trạng cũng vui lây. Tuy vậy, Chính Tâm càng cuốc càng nhớ lại chuyện cổ tích mà cha mình thường kể, được một giờ đồng hồ thì anh nghĩ là hai ông già này chơi cắc cớ:
- Bác ấy không biết chôn ở đâu sao?
- Biết thì tao đem bán xài lâu rồi, cần đợi tới con hỏi. Bác ấy nói là có bản đồ…
- Vậy bản đồ ấy đâu…
-  Bản đồ nằm trong chuôi kiếm, mà cây kiếm ấy thì nằm trong căn hầm ở chùa Liên Hoa Tự.
-  Sao giống chơi vi tính quá! Vậy thì mình đến chùa tìm căn hầm, chứ cuốc cả khu vườn thế này chừng nào mới tìm ra được.
- Bác cũng đến chùa rồi…Nhưng nghĩ lại, mình cần giữ kín việc, nếu không sẽ có những sự việc đáng tiếc.
Kế hoạch của họ là trở lại ngôi chùa, để danh ngôn chánh thuận thì họ nói như lời ông bác người Nhật của Chính Tâm là xây xựng chùa Liên Hoa Tự lớn nhất Việt Nam. Dưới con mắt của Chính Tâm, nếu tiến hành xây dựng mới chùa, trong quá trình thi công sẽ lật tung tất cả ắt sẽ gặp căn hầm. Cho nên khi gặp thầy Hạnh họ đề bạt ngay phương án xây dựng chùa trong nay mai. Thầy Hạnh cũng cảm thấy thích thú nếu như ở đây được xây dựng một ngôi chùa hoành tráng, xem như mình đã thành công trong việc làm trụ trì cho Liên Hoa Tự này. Quê hương được tôn vinh ai mà không thích, nên thầy cũng rất hồ hởi với kế hoạch đang được bàn. Nhưng còn nhiều vấn đề rối rắm còn ở phía trước chưa được tiên liệu hết, về mặt pháp lý cũng như việc cam kết bỏ vốn như thế nào? Thầy Hạnh chưa được tỏ tường:
- Người ta làm việc gì cũng mất vài năm thiết kế, rồi giải trình công trình đó có thực thi được không…Rồi còn nguồn tài chính nữa.
- Gì cơ…-Ông Hoàng Ánh nói- Mãi đến vài năm thiết kế sao? Còn nguồn tài chính ư…Có ông anh của tôi đây này.
- Nhưng làm gì làm, mình cũng phải có bản vẽ thiết kế, rồi mới tính tới nguồn tài chính. Một kiến trúc sư giỏi, cũng phải mất ít nhất một năm rưỡi. Có bản thiết kế ta mới tiếp tục đề xuất các việc khác.
Nếu như vậy thì chừng nào mới tìm ra căn hầm, Chính Tâm gặp một ít trắc trở ban đầu đã chán nản.Chính Tâm nóng nảy đề xuất:
- Với vốn đất hơn năm hécta, trước sau gì cũng phải xây tường rào. Hay chúng ta làm trước phần đó… Ngoài ra, thiết kế nào cũng phải có các phòng nghĩ ngơi của tăng ni Phật tử xung quanh chánh điện, trước mắt thì cứ xây dựng…  phòng cho công nhân nghỉ, cũng như cần kho chứa vật tư.
-  Ờ! Cái này được nha!- Ông Hoàng Ánh hùa theo Chính Tâm. Hai cha con giờ như người thắng thế, có phần lấn lướt thầy Hạnh.
- Thầy thấy việc đó đúng chứ! Chính Tâm làm ngay nhé…
Thầy Hạnh cũng không khó lòng trong việc cho xây bốn bức tường bao bọc, và các phòng cho mấy ni cô, cũng như Phật tử ở phương xa đến tụng niệm có nơi nghỉ ngơi. Trong khi đó tiền bạc do ông Akio đỡ đầu thì tại sao không đồng tình, cho nên đang lúc đợi quyết định của chính quyền cũng như của giáo hội Phật giáo, việc chấp nhận tiến hành công việc ấy trước không có gì khó khăn. Ông Akio cũng đồng ý như vậy nên chi trước một khoản tiền, việc bàn bạc mấy hôm trước rất cụ thể, xem ra nói là làm ngay. 
VI
Công việc nhỏ nhoi đó thì Chính Tâm làm thầu được. Ông Akio tin tưởng Chính Tâm, giao phó hết cho anh mọi trách nhiệm. Ông về thành phố vài tháng để lo việc đặt văn phòng công ty mình tại việt Nam, ông đang chờ giấy phép đầu tư.
Ngày đầu đến chùa, Ông Hoàng Ánh không rời Chính Tâm nữa bước. Hai cha con  được những người trong chùa tỏ ra ân cần, chỉ vừa ngồi yên vị là có nước trà tiếp đãi.
Ni cô Ngọc trong chiếc áo nâu sậm, đầu cũng đội chiếc khăn nâu như vậy. Cô vừa chăm nước vừa thăm hỏi ông Hoàng Ánh.
- Nghe nói con trai bác đã về, con mừng cho bác lắm đó. Anh ấy đây phải không ạ!- Ni cô Ngọc vui tươi quay sang Chính Tâm và gật đầu, rồi lại niềm nở- Nghe bác nhắc đến anh hoài…tội nghiệp bác lắm đó. Giờ anh về, chắc bác vui vô cùng.
  Chỉ một lời của ni cô Ngọc thăm hỏi, Chính Tâm tự dưng nghe trong lòng xốn xang vô cùng. Anh gật đầu chào lại, lòng thầm khen ni cô có một sắc đẹp vẹn toàn: nước da trắng mịn và đôi môi đỏ mọng, nổi bật trên nền nâu của chiếc áo tu. Anh cảm thấy tiếc nuối cho một người đẹp phải nương náu nơi khổ hạnh này.
Ông Hoàng Ánh tự dưng đứng dậy, rồi:
- Thằng con tôi đến đây xây dựng, muốn nó làm công quả thôi chứ không có tiền công gì hết.
Từ trước đến giờ, Chính tâm đến chùa cho có lệ, chứ không tin tưởng gì hết. Sự thực, anh chỉ tôn trọng tín ngưỡng của mọi người thôi và nói ra những lời lẽ phải phép nhất định nào đó. Lúc còn trai trẻ như thế này, tư tưởng anh không chống đối lại nhưng anh cảm thấy hơi mâu thuẫn với cuộc sống bên ngoài. Đối với anh, chuyện tình cảm yêu đương không có là không thể được…thà chết còn sướng hơn.
  Chính Tâm vừa làm thầu làm cai, hoà đồng với đám thợ ngày ngày đến chùa. Công việc chưa đến đâu, nhưng tình cảm con người khó lòng mà lường hết được.
   Trong lúc làm việc ở chùa Liên Hoa Tự, mặc dù không có tiền lương mà chỉ làm “ công quả” cho chùa, nhưng động lực làm việc của Chính Tâm là ni cô Ngọc. Từ lúc Chính Tâm tiến hành việc xây dựng, anh như nhân vật trung tâm của chùa Liên Hoa Tự. anh khéo léo gây được cảm tình của rất nhiều người, tất cả các vị sư cũng như các ni cô đều khen ngợi và người khen ngợi anh nhiều nhất cũng chính là ni cô Ngọc.
  Ai cũng biết trước đây ông Hoàng Ánh thường trò chuyện về người con trai của mình cho ni cô Ngọc, nên cô hiểu nhiều về Chính Tâm là việc đương nhiên. Chẳng những không thắc mắc, mọi người còn muốn cô biết rõ về Chính Tâm hơn nữa.
- Thảo nào, cha anh ấy yêu thương anh ấy đến như vậy! Anh ấy giỏi giang, xứng đáng là người con trai ông Hoàng Ánh- Ni cô Ngọc nói vậy và còn thêm- Lần trước, anh ấy đi làm ăn xa. Cha ảnh nhớ ảnh lắm, con cứ nghe ông Hoàng ánh nhắc mà đâu biết tính tình ảnh ra sao. Giờ thì con biết rồi…Ảnh giỏi như vậy, không giàu có là vì ảnh chưa gặp thời đó.
Một sư bà rất già cũng quan tâm đến Chính Tâm, hỏi han ni cô Ngọc và được nghe như vậy. Bà tiếc nuối:
- Các con của tôi đã có chồng hết rồi, nếu mà gặp anh Chính Tâm này sớm. Ai lấy được anh ấy chắc hạnh phúc lắm đó.
- Con cũng nghĩ vậy đó cô…Cho nên, con cũng muốn làm mai cho anh ấy một người.
- Mình tu hành thì thôi, đừng để tâm đến việc đời làm gì…
Bà sư già và ni cô Ngọc là hai người lo nấu ăn chính cho những người thợ hồ. Sáng ra, Hai người đã thức dậy sớm lo kinh kệ xong, là xuống bếp nhanh chóng nấu cơm và nấu nước để chuẩn bị bữa sáng cho những người tới làm việc. Chính Tâm còn được một ly sữa lớn, nên cám ơn rối rít về sự ưu đãi đó và anh vẫn giữ khoảng cách bình thường như chẳng xãy ra điều gì trong lòng anh. Nhưng ni cô Ngọc mỗi lần đem ly sữa đến cho anh, cũng muốn nấn ná lại bắt chuyện với anh, ít nhất là một câu vui cho khuây khoả.
- Anh giúp ích cho chùa sẽ gặp đại phước đó nhe! Sau này anh sẽ có con trai đầu lòng cho xem…
- Con trai à? Tôi không là người đại phước như ni cô Ngọc nghĩ vậy đâu. Tôi là người bất hiếu như cô không thấy đó sao…Vì vậy, muốn có con trai đầu lòng, thì phải lấy một cô vợ cũng biết tu hành đó cô.
  Mọi người cũng có nghe những lời lẽ đó, song họ nghĩ bình thường thôi. Đến chiều rửa tay, ni cô Ngọc hình như chờ Chính Tâm đến vòi nước là cô đem xà-bông ra cho anh. Chính Tâm nghĩ là mình nên tìm cách dò xét tâm ý của cô thế nào, nên gợi ý:
- Ngày mai này chúa nhật, ở đây nghỉ việc…Chắc là cô Ngọc không bận bịu gì nhiều hả?
- Vâng…Anh hỏi vậy chắc định nhờ vả gì phải không?
- Phải! Nếu như cô Ngọc không thấy phiền! Ngày mai đến giúp bữa cơm chay cho gia đình tôi được không…?
- Đâu có gì phải phiền anh!- Ni cô Ngọc vừa đáp lại vừa trao cái khăn cho Chính Tâm lau tay, nhưng anh từ chối- Không sao, anh cứ lau…Khăn này cũng muốn dơ rồi.
Chính Tâm lau tay, rồi nói lời cảm ơn trước:
- Cám ơn đã nhận lời, phiền cô vô cùng…
Chính Tâm biết mình nhờ vả như vậy, chắc chắn ni cô Ngọc không từ chối được. Khi anh về nhà, anh nói lại những người trong gia đình:
- Đám giỗ bà nội, ngày mai tổ chức nấu cơm chay! Lâu nay gia đình đoàn tụ, rồi chỉ nhậu nhẹt bê tha…Lần này mình tu bớt.
- Tu gì….Chỉ có phá chùa thì có…- Bảy Tài anh Chính Tâm không đồng tình. Anh ta bao giờ cũng thích có một bữa nhậu nhẹt linh đình- Một cái cớ để phá rối con đường tu hành của người ta. Tình yêu xảy ra với người đời không đủ sao?  Còn phải vào chùa tìm. Có bác người Nhật,  muốn xin gì thì nói luôn thể. Ổng mới đặt văn phòng cho công ty mình ở thành phố, muốn xin làm một chân giám đốc xem ra hay…Có công ăn chuyện làm thì muốn cưới vợ ai không bằng lòng. Xây chùa to đẹp nhất Việt Nam ư? điều hão huyền ấy chẳng bao giờ có đâu…Nên cái chùa cứ mà nằm trên giấy.
- Đúng đó!- Mọi người cũng đồng thanh nói với Chính tâm như vậy.
Ít ai biết được Chính Tâm đau khổ đến dường nào. Những lời ngắn gọn của bảy Tài đâm trúng nỗi lo lắng, bực dọc của mình nhiều nhất: Anh cũng không hiểu vì sao mình lại yêu ni cô Ngọc, rồi tình cảm đó có tiến triển được tới đâu đâu, lại còn mang tiếng phá con đường tu hạnh của người ta. Niềm hy vọng từ số vàng sẽ tìm thấy cũng tiêu tan, vì như vậy công trình kiến trúc mà anh tâm đắc nhất gần như không thể thực hiện được. Chính vì anh quá ưu tư vào công trình ấy, để đánh đổi lại tình yêu mà anh mới vừa nhen nhúm (Anh nghĩ nó cũng quí như số vàng), chắc chắn không thể nào thành công nữa rồi.
Chán chường vô cùng, Chính Tâm không tham vọng tiền bạc, cũng như số vàng mà ai cũng ấp ủ muốn tìm thấy…Anh chỉ cần người thương yêu, cần người “giống tốt” mà anh cho là qui luật tự nhiên bắt buộc con người phải làm như vậy.
Chính Tâm cho là mọi thứ đều bị bế tắc, anh xuống sau nhà một lúc lâu không thấy bước lên. Bảy Tài đi theo thì hốt hoảng la lên:
- Ơi…Trời ơi! Ba ơi…Chính Tâm nó uống thuốc sâu tự tử…
- Hai anh em tụi bây thật là….- Ông Hoàng Ánh trách móc, nhưng cũng không biết trách móc ai….Trời ơi! Chuyện có vậy mà cũng đi uống thuốc để chết nữa sao? Nó uống bao nhiêu rồi?
- Một phần tư chai rồi….
- Đi lên bệnh viện ngay!
Bốn năm người vừa níu kéo Chính Tâm vừa ngon ngọt đẩy anh ra xe. Đến bệnh viện, mặc dù Chính Tâm đã ói ra được phần nào nhưng thuốc vẫn ngấm vào cơ thể. Sau khi rửa bao tử, bệnh viện giữ anh lại để theo dõi bệnh tình. Tối đêm đó Chính Tâm vẫn còn tỉnh táo, nhưng đến sáng ngày hôm sau, trong người nóng nảy khó chịu đến tột độ, lại thêm bị trói tay chân vào giường để không được bỏ trốn, hay mê sảng quậy phá.
 Ngày hôm sau, ni cô Ngọc theo lời hứa với Chính Tâm. Ông Hoàng Ánh mới biết chuyện:
- Đầu đuôi là thế này!- ông Hoàng Ánh không dám nhìn ni cô Ngọc nhưng ông vẫn từ từ kể lại- Bác có bảo nó nên có vợ con đi, thì làm ăn sẽ suôn sẻ thôi. Bác có chọn con đây và gợi ý, cho nó biết sự lựa chọn của bác. Sẵn dịp xây dựng chùa Liên Hoa Tự mà tranh thủ, chỉ vì nó nghĩ là không có tiền xây dựng chùa. Nó buồn lòng nên mới uống thuốc trừ sâu…giờ đã nằm viện rồi.
  Ni cô Ngọc nghe qua, tim cô cũng muốn đứng lại. Chính Tâm đối với cô là một người tốt: Từ những lời kể của ông Hoàng Ánh và từ quan hệ những ngày gần đây. Giờ thì cô lại biết chuyện ông Hoàng Ánh muốn cưới cô cho Chính Tâm, và cũng chính vì cô mà hôm qua Chính Tâm mới bày tiệc cơm chay. Ni cô Ngọc thầm niệm phật, cô không nghĩ gì sâu sắc đến chuyện lương duyên, mà chỉ quan tâm đến tính mạng của Chính Tâm mà thôi.
- Bây giờ anh ấy ra sao rồi bác? Anh ấy được cứu chữa và qua không?
- Bác sĩ bảo chưa chắc nó sẽ qua khỏi? Vì vậy, phải để nó ở lại bệnh viện một thời gian.
Ni cô Ngọc hối hả:
- Ảnh tệ hại đến vậy sao? Con hy vọng tới bệnh viện để khuyên ảnh, con nghĩ ảnh sẽ nghe lời con.
  Ni cô Ngọc đã quen ở những nơi sạch sẽ thoáng mát, mùi hương nhang và cây trái. Đến bệnh viện một mùi tanh hôi của thuốc tẩy trùng xông lên nồng nặc và thế giới của những người bệnh dễ làm cho con người bi quan. Ni cô Ngọc nghe muốn nôn và xây xẩm mặt mày. Cô dừng lại một lúc, rồi tình thế như bắt buộc cô phải chấp nhận tất cả.
  Khi cô đã làm quen được với không khí ở bệnh viện, thì đứng tần ngần một lúc khá lâu nhìn Chính Tâm.
Chính Tâm đang bị trói chặt tay chân vào thành giường, biện pháp hữu hiệu nhất giành cho những người bị kích động thần kinh. Anh giãy giụa không biết mệt mỏi, cố tìm cách bứt đứt các dây trói nhưng không được. Vừa thấy ni cô Ngọc, Chính Tâm tỏ vẻ bình tĩnh, anh phân bua ngay:
- Ngọc! Em mở trói dùm anh đi…Anh đâu có làm gì đâu. Anh vẫn tỉnh mà, ai cũng nghĩ là anh mê sảng, mà em có thấy là anh mê sảng không?
Chính Tâm nói bằng giọng thân mật vô cùng. Ni cô Ngọc là người tu hành hiếm khi được nghe lời lẽ ngọt ngào đến như vậy. Cô cũng không hiểu tại sao hôm nay Chính Tâm xưng hô với cô như đã thân quen tự bao giờ. Cô nghĩ trong tâm tư của anh đã giành sẵn cho cô những tình cảm đặc biệt trước đó rồi, vì ngại cô là người tu hành nên giờ mới để lộ ra. Cô động lòng nhìn thấy tình cảnh Chính Tâm bị trói và tự dưng cô tin lời anh:
- Vâng! Để em mở ra cho anh…Em mở ra đây!
Một người y tá chạy lại, sau lưng có bảy Tài. Cả hai nhìn thấy ni cô Ngọc định mở trói cho Chính Tâm, nên đều nóng nảy:
- Cô biết gì….Mở trói ra là nó bức dây nước truyền dung dịch ra đó.
- Nhưng tôi thấy ảnh tỉnh táo và hứa sẽ không làm gì mà…
- Bệnh nhân đang mê sảng đó cô!- Người y tá phân tích- Nếu cô tháo dây ra, anh ta sẽ chạy đi khó mà chữa chạy… Thuốc mới vừa ngấm thôi, chứ vài ngày nữa còn hành hạ bệnh nhân nữa đó. Cô không tin thì nhìn những người khác xem…
Ni cô Ngọc liếc quanh, thấy những bệnh nhân khác cũng bị trói tay chân giống như vậy. Họ còn mê sảng nói bậy bạ đủ thứ điều; Nằm kế bên Chính Tâm một người thanh niên đang kêu vịt về chuồng, rồi khóc:
Vừa tức cười vừa thấy tội nghiệp, anh ta cứ nhìn lên trời mà cứ kêu bầy vịt về mãi. Ni cô Ngọc quay lại Chính Tâm, rồi cố gắng thuyết phục anh:
Anh cố gắng chịu đựng nha! Đến chiều người ta sẽ mở trói cho anh và về nhà….
- Đừng có gạt anh! Anh biết hết mà…Bực dọc quá đi, thử ai vào đây buộc như thế này xem có chịu không cho biết.
- Tại sao anh uống thuốc chi vậy! Bây giờ người ta đang cứu sống anh mà…Vì vậy, người ta phải làm vậy.
Chính Tâm đang nổi cáu, nhưng vì ni cô Ngọc hiền từ. Anh cố trấn tỉnh một lúc, rồi nói hết những gì đang ấm ức…
- Tại sao hả em? Tại sao hả Ngọc…Mấy ngày nay anh đến chùa làm ở đó, nguồn vui duy nhất của anh là chỉ có em mà thôi, nhưng cưới em à? Tuy anh vẫn hy vọng, song anh vẫn thấy bế tắc…Em là người tu hành, em có lấy anh không?
Khi Chính Tâm nói,mọi người quây quanh lại lắng nghe. Sự tò mò của mọi người làm cho ni cô Ngọc khó xử. Cô chấp tay rồi niệm phật. Chính Tâm lại nói tiếp:
- Vì thế, anh thấy chán nản cuộc sống quá! Cái chết bây giờ đến với anh một cách dễ dàng nên anh muốn nói hết không giấu diếm điều gì nữa. Bây giờ thì em hiểu rồi đó và thái độ của anh cũng rõ rồi… em đâu thể lấy anh được, vì em là người tu hành. Anh biết mà….mở trói cho anh đi Ngọc, anh đâu cần sống làm gì (thiếu em anh sống làm gì). thân xác của anh tự anh giải quyết.
Chính Tâm nói hết những dồn nén bấy lâu, như càng bật ra một lúc để đi đến cái chết thanh thản hơn. Anh bị xốc và cố gượng dậy để cắn ống nước truyền dung dịch.
- Anh không được làm vậy!- Ni cô Ngọc cố ngăn lại- Anh biết làm như vậy là có tội với trời đất, với cha mẹ anh hay không?
- Tội à!- Chính Tâm định cắn ống nước truyền lần nữa, nhưng càng cố càng không xong- Sống không ra gì thì mới phiền toái cho họ, đó mới là tội lớn. Anh suy nghĩ kỹ lắm mới chọn cái chết này đó em…
  Mọi người bật cười, Chính Tâm lúc này mới để ý những người xung quanh. Anh cũng mỉm một nụ cười chua chát để  nhạo mình, rồi có vẻ đanh đá:
- Anh sống lại…Em có chịu lấy anh không?
Đến giây phút đó, mọi người xung quanh như thể chia làm hai phe: Những người theo phe thứ nhất thì không chấp nhận việc người tu hành có gia đình, nên tỏ vẻ bất bình và cho Chính Tâm hỏi như vậy là nhạo báng trời phật, chết cho rồi. Nhưng những người theo phe thứ hai thì cũng từ trời phật mà suy lý ra rằng, cứu một mạng người là phước lớn và quan trọng hơn, nên thà nói dối một câu để Chính Tâm tin tưởng và chấp thuận việc chữa chạy. Có ai đó rù rì bên tai ni cô Ngọc:
- Cô cứ đồng ý đại….Để anh ta tin. Chừng nào anh ta tỉnh lại thì chuyện gì đó tính sau!
 Bệnh viện lúc bình thường không giữ được người thăm nuôi vào trong phòng bệnh nhân. Giờ xảy ra chuyện tình cảm khá đăc biệt này nên có vẻ chật chội thêm. Ni cô Ngọc không dám trả lời, tay cô vẫn chấp lại trước ngực để cầu kinh…Thái độ đó làm cho Chính Tâm chán nản.
  Người y tá trực đến giải tán bớt, rồi nói với ni cô Ngọc:
- Xin mọi người hãy ra ngoài, chúng tôi chuẩn bị thông bao tử và vào ống nước tiểu cho bệnh nhân….
 Người y tá mượn bốn người thanh niên khoẻ mạnh ở lại, bởi vì bệnh nhân luôn luôn chống đối. Chính Tâm bị kiềm giữ chặt phần đầu, người y tá thông thạo việc làm, đã mạnh dạn đẩy một ống nhựa dài vào bao tử của Chính Tâm. Chính Tâm chống chọi không lại, giãy giụa một lúc mà ống nhựa vẫn chạy vào bao tử.
- Tôi nói không….Không, Tôi không cần ai cứu sống tôi cả…Cần gì…Cần gì…
- Anh sống lại đi! Cô ấy nói sẽ lấy anh mà…Tại anh không nghe đó…
- Thiệt không đó!
- Thiệt….Lúc nãy thấy cô ấy lầm bầm nho nhỏ, tại anh cứ nghĩ đâu đâu…
- Ủa! Vậy sao….Vậy mà tôi tưởng tụng kinh….
Mấy người thanh niên không muốn Chính Tâm giãy giụa, cho nên tìm cách làm cho anh phân tâm. Chính Tâm cũng đang bị thuốc ngấm vào cơ thể, trong lúc tinh thần không nhiều sáng suốt nữa và tin là thật, rồi để cho người y tá vào ống nước tiểu dễ dàng.
Mấy lời nói của bốn người thanh niên và Chính Tâm, văng vẳng ra phòng ngoài. Ni cô Ngọc nghe rõ, cô cảm thấy nghẹn ngào trước trước những lời lẽ của Chính Tâm. Cô cảm thấy xao xuyến trước những lời chí tình lúc nảy, đứng trước đám đông cô cảm thấy ái ngại nhưng giờ ngồi một mình cô cũng muốn đồng tình.
Người y tá khi đã xong những việc của mình rồi, bước ra căn dặn:
- Bệnh nhân sẽ bị nóng bức, người nhà phải làm sao cho bệnh nhân uống nước càng nhiều càng tốt và lấy khăn ẩm đá lau ngực và mặt.
Ni cô Ngọc cùng với bảy Tài vào trong làm y như vậy. Bảy Tài rót nước cho anh, anh không chịu uống, còn cãi lại:
- Không cần…không cần…không cần uống làm gì!
- Uống cho chạy qua ống này nè!- Bảy Tài quá bực mình, anh ta cảm thấy công việc nuôi bệnh quá cực nhọc.
- Thôi anh để em chăm sóc ảnh cho, anh nghỉ ngơi thì đi nghỉ…
Ni cô Ngọc từng muỗng đút vào miệng Chính tâm. Anh uống ừng ực. Nước vào bao tử là chảy ngay trở ra, đầu ống có cột một cái bọc ni lon. Nước đen ngòm dơ như nước cống, nhưng mang ra ngoài một lượng thuốc trừ sâu đáng kể.
Chính Tâm uống được mấy muỗng, liền ngưng lại hỏi:
- em lấy anh phải không?
- Sao anh hỏi hoài vậy…
- Hỏi cho chắc…Anh mới chịu sống…
- Tại sao biết bao nhiêu cô gái đẹp, sao anh đi đòi lấy một ni cô…
- Họ ích kỷ lắm…Họ chỉ vì danh vọng và giàu có. Còn em khác, em không đua đòi bon chen. Anh muốn sống với một người tĩnh tâm như em. Có em bên cạnh anh không muốn tranh chấp với đời làm gì nữa…Anh muốn có một hạnh phúc nhẹ nhàng.
Ni cô Ngọc không hiểu lắm, vì vậy cô hỏi:
- Anh hiện tại nghe trong người thế nào? Đầu óc vẫn tỉnh táo chứ?
Chính Tâm lên hơi giận và nóng nảy. Anh nói được những lý lẽ vừa rồi bằng một sự trấn tỉnh khác thường. Ni cô Ngọc hiểu lầm anh đang mê man, anh đâm ra tự ái:
- Nếu em không nghe anh, là anh khùng lên đó. Đối với em…anh bao giờ cũng tỉnh táo, nhưng với điều kiện em trả lời cho anh biết đi.
Ni cô Ngọc cười tủi hổ, cô lấy ngay khăn ướp lạnh lau mặt cho Chính Tâm. Nhưng dù cô có che mắt Chính Tâm lại, anh vẫn luôn mở to để nhìn thấy cái gật đầu mà ni cô Ngọc cố giấu. Chính Tâm buột miệng hỏi lại:
- Em mới vừa gật đầu phải không?
- Dạ, vâng!
- Anh muốn nghe em nói bằng lời. em hãy nói đi…
- Vâng! Em sẽ lấy anh…
  Lúc này, chính Tâm mới thở ra một cái thật dài khoan khoái. Sau đó, anh mới thực sự chìm vào cõi mê man.
 VII
Chính Tâm vắng đi vài ngày, công việc ở chùa Liên hoa tự như bị ùn tắc lại. Mọi người không biết vì sao anh vắng mặt, Ông Hoàng Ánh vẫn giữ kín chuyện như bưng.
Tình trạng của Chính Tâm mỗi ngày mỗi bi đát: Da anh bị sạm từng mảng, chân tay bị sưng phù và lở loét ở mấy chổ bị cột. Lại thêm mê sảng nói nhảm suốt ngày đêm và bị thuốc kích thích nên chân tay cứ bị giật lên từng hồi. Bác sĩ phải theo dõi sát bệnh tình của anh, thỉnh thoảng tiêm một loại pi giải độc theo đường truyền dung dịch và giành giật từng cơ bắp của cơ thể với thuốc độc. Người ta chờ xem cái nào hơn…Sự sống của Chính Tâm rất là ít ỏi.
Ni cô Ngọc không nỡ đành bỏ Chính Tâm, cô quyết ở lại chăm sóc cho anh và luôn luôn cầu kinh để tìm sự giúp đở của trời phật.
Năm nay cô được hai hai tuổi, rất đẹp người đẹp nết. Sắc vóc của cô rất sắc sảo, người khôn ranh khó mà để yên cho cô theo con đường tu luyện.
Việc ông Hoàng Ánh thân tình với thầy Hạnh, cứ ngỡ là vắng đi vài ngày chắc ông Hoàng Ánh sẽ nói lại thầy Hạnh biết. Nhưng chuyện đời vẫn còn nhiều thứ cô không hiểu hết, ở tuổi cô ngoài đời thực ra cũng còn nhiều người nông nổi. Ông Hoàng Ánh đời nào xin phép tắc hoặc giải thích rành mạch những việc cô làm cho Chính Tâm để thầy Hạnh ưng bụng, ông còn xui để cô không còn « cửa » bước chân vào nhà Phật nữa. Mỗi người mỗi quyền lợi khác nhau, ông Hoàng Ánh vì quyền lợi con trai ông. Thằng con ông chẳng có địa vị cao sang nào, nói thẳng ra nó chỉ là một anh thợ hồ. Nếu như không chộp cơ hội này, lấy một người con gái xinh như ni cô Ngọc, thì chẳng khi nào được một người con gái nào na ná như thế mà lấy. Chắc chắn như thế, cho nên ông phỉnh phờ, cố níu kéo ni cô Ngọc quanh quẩn bên Chính tâm, rồi phịa rằng ông đã nói với thầy Hạnh và thầy Hạnh đồng tình sự có mặt của cô bên cạnh Chính Tâm. Ông nói :
- Cứu một mạng người bằng tu mấy kiếp ! Ông sử dụng những ngôn từ của nhà Phật để lừa một người trong cửa Phật.
Ni cô Ngọc bị quây lấy bởi những người không có đạo, cảm giác như ai xui lấy Chính Tâm cô cũng đồng tình. Nỗi thẹn thùng của người con gái bị lấn át bất ngờ, bởi những gì diễn ra quá nhanh và đúng với bản năng trong tâm tư của mỗi con người.
Trong lòng của mỗi người đều có những điều thầm kín nhất, chỉ có lương tâm họ phán xét. Ni cô Ngọc không hiểu sao mình lại dấn thân vào con đường tu hành khi nào cô cũng không biết, và đường đi do ai sắp sếp đến tận bây giờ đã là như thế rồi. Cô trở thành nữ tu và cô cũng không biết nữ tu này sẽ tiếp tục đi đến đâu, chỉ biết là cô là người của nhà Phật chỉ chay trường và không được yêu đương, rồi phải thực hiện đúng như vậy.
Con đường tu luyện khổ hạnh quá, chỉ cần một chút ngã lòng là đã đổ sông đổ biển mọi thứ có trước đó. Cô không biết sao tự dưng mình ngã lòng dễ dàng đến như vậy, mà mình có kịp ngã lòng?
Cô chưa có để xảy ra chuyện gì hết. Cô chỉ gật đầu khi Chính tâm hỏi cô có đồng ý lấy chồng không, hình như cái ranh giới dung tục và tu luyện cách nhau nhỏ nhoi như vậy thì làm sao mình bình tâm tu luyện cho suốt cuộc đời này mãi được? Nhưng vì một mạng người (để đổi lấy mọi thứ) hay trong lòng cô cũng nhen nhúm một cảm xúc của tình cảm con người. Có hết, cô nghiệm ra như vậy và xác nhận trong lòng mình có rung động. Thế mới nói, tu như cô quả đáng hổ thẹn.
  Nhưng cô cũng nghĩ là mình tu chưa tới đâu mới có hiện tượng như vậy, việc không dằn lòng được trước cảm xúc yêu thương mà ai ai cũng rộn rã khi bước tới tuổi xuân thì. Có hay không việc cô tu chưa tới, hay tình yêu lúc nào nó cũng tồn tại sẵn trong con người để chờ một dịp nào đó bùng phát.
  Mấy ngày qua, ni cô Ngọc thẫn thờ ngồi ở băng ghế đá ngẫm nghĩ lung tung. Cô cảm thấy mình là người đại diện của nhà Phật mà hành vi xáo trộn như thế, và cũng vì là người đại diện nên cảm thấy có tội trước trời đất. Cô tiếp giúp một con người, nhưng rồi mắc kẹt vào mớ bòng bong mà người đời gây ra. Những ngày ở chùa thật nhẹ nhàng, giờ quá ư là lo lắng.
  Trở lại cảm xúc con người, cô cảm thấy có gì đó cũng muốn quan tâm đến Chính Tâm, quan tâm từ khi ông Hoàng Ánh nói đến anh. Cô bị lây lan từ đó, rồi thích nhìn anh và đôi khi muốn có vài câu chăm sóc lẫn nhau như người ngoài đạo. Những câu nói đó có thể lấp liếm che giấu được cái nhìn soi mói của nhiều người, nhưng giờ hiện diện tại bệnh viện để chăm sóc một người đòi lấy cô làm vợ thì thực sự sợ hãi trước trời đất, cô sợ mình không trụ được vậy.
  Đã bốn ngày qua, Chính Tâm đang ngày càng bình phục, cô cảm thấy mừng nhưng cũng đồng thời không biết mọi việc tiếp theo sẽ ra sau đây. Cô không có được kinh nghiệm xử sự như người ngoài đạo, đọc qua báo chí việc sử sự khôn khéo của nữ nhi. Về mặt tình cảm riêng tư, cô chỉ như đứa trẻ mười tuổi và không hiểu sao mình nấn ná ở đây để làm gì. Cô không biết nói lời từ chối, chỉ cần Chính Tâm giãy nãy là cô phải đồng tình với những điều anh muốn.
Còn Chính tâm tựa như một ông cụ non, cứ cho là Ni cô Ngọc đồng ý lấy anh đi chăng nữa thì sự việc cũng chưa ngã ngũ đến đâu. Đằng này anh nghĩ là mọi thứ đã đâu đó hết cả rồi, chỉ chờ ngày bình phục thực hiện lời nói đó. Chắc chắn ni cô Ngọc là người tu hành nói đâu là phải thực hiện đó, thái độ gàn gỡ thiếu hiểu biết của anh có khi lại có lợi cho anh.
Khi hai người tập tành đi lại trong công viên bệnh viện, Chính Tâm một mực cho rằng việc lấy nhau sẽ xảy ra trong nay mai. Viễn cảnh tương lai cho hai người cứ hiển hiện trước mắt anh, rồi chia sẻ cùng ni cô Ngọc :
-  Sau này, chúng mình mua nhà ở thành phố. Người ta sẽ không biết em bỏ con đường tu hành để đi lấy chồng. Anh sẽ làm như vậy để em đở e thẹn với đời…
Ni cô Ngọc còn nghĩ Chính Tâm chưa bình phục nên mới nói lối như thế. Hổm rày tiền chạy thuốc thang còn gian nan, chứ đừng nói gì đến mua nhà thành phố.
- Thật đấy !- Chính Tâm biết ni cô Ngọc nghĩ gì nên cố chứng minh- Có một bí mật chắc em cũng nên biết : Trong vườn nhà anh có vàng rất nhiều.
Ni cô Ngọc thở ra, vì Chính Tâm mới cầm tay cô lay lay :
- Anh cứ cố nghỉ ngơi cho lại sức, đừng tính toán gì nhiều…Chắc anh lo rằng em chưa ưng thuận mà cố đem những thứ vật chất xa hoa để chiêu dụ.
- Không đâu, trong vườn nhà anh có vàng. Nhưng chỉ ba anh và  anh biết thôi.
Ni cô Ngọc nhìn sang nơi khác, cô chỉ muốn né tránh những cử chỉ thân thiện mà Chính Tâm cứ cố rướn người sang cô để chứng tỏ mình nói thật. Cô còn né tránh cái nhìn của nhiều người xung quanh trong bộ đồ tu của cô mà sao lại ngồi với một thanh niên vạm vỡ có vẻ chân tình thế. Nên Chính Tâm cứ tưởng cô không tin gì hết nên rất tức tưởi :
- Có điều, ba anh với anh cũng không biết nó nằm ở đâu trong vườn.
Lúc ấy ni cô Ngọc mới phá ra cười. Cô nghĩ Chính tâm muốn làm cho cô vui. Nụ cười ấy biểu lộ của một người có những rộn rã trong lòng, rõ là người đang hướng đến tình cảm.
Một người con gái ngoài đời được tán tỉnh, được hứa hẹn chăm lo chu đáo còn phải xiêu lòng. Ni cô Ngọc được nghe những lời mật ngọt lần đầu tiên trong đời, những lời bảo đảm cho tương lai và những « ma sát » nhè nhẹ giữa hai giới cho cô cảm giác lâng lâng khác lạ. Khác hơn nhiều với lời kinh kệ và có một thứ giáo lý dễ hiểu gấp bao nhiêu lần những giáo lý mà cô học trước đây. Lại thêm những hoạt động nội tạng trong người, nhất là nhịp đập của trái tim hăng hái hơn, hơi thở gấp rút hơn (nghe sảng khoái trong người hơn vì đầy đủ oxygen hơn) và biểu cảm trên mặt nóng bừng bừng không thể che giấu đi đâu được...Những thứ đó cũng chỉ có ở con người mà trước đây cô không biết qua hoặc có chút ít biểu cảm, thì được căn dặn phải cố trấn tĩnh lại.
Bây giờ, ni cô Ngọc không còn trấn tĩnh gì nữa được rồi. Cô nói cười hăng say, và cô cũng thích được nói cười thoải mái như vậy. Chính nhờ sự vô tư hồn nhiên đó mà Chính Tâm mau bình phục lại.
Ni cô Ngọc chăm sóc Chính Tâm cho đến khi bình phục trở về nhà. Đó là ngày cô nhận lời cầu hôn của ông Hoàng Ánh cho con trai ông một cách chính thức :
- Con cứ nhận lời đi mà ! Bác đâu có ép uổng con phải bỏ con đường tu hành đâu. Con cứ đi tu nè…chờ đến ngày cưới…cưới một cái là xong, rồi con cứ đi tu nữa thì đi, bác đâu có bắt con phải làm dâu đâu nè !
Ông Hoàng Ánh nghĩ ni cô Ngọc lấy Chính Tâm rồi, còn gì phải tu hành nữa. Ông nói vậy cốt để ni cô Ngọc nhận lời mà thôi :
- Bây giờ con cứ nhận lời bừa cũng được, miễn sao bây giờ con đừng để cho Chính Tâm nó đau khổ, tìm đến cái chết một lần nữa, thì bác đâu sống nổi nữa đâu…Chắc bác cũng chết luôn đó. Như vậy, sự việc này dẫn đến hai mạng người. Con nghĩ coi, dù không trực tiếp ra tay, nhưng con sẽ là người có tham dự « âm mưu »  giết chết hai cha con bác. Như vậy con còn đi tu nữa làm gì. Con nhận lời, có nghĩa là cứu sống hai cha con bác, như vậy khỏi cần tu là có phước lớn rồi…nhé con, phải không con…
- Dạ phải !- Ni cô Ngọc nghe ông Hoàng Ánh lý luận rất buồn cười, thành thử ra cô cũng thuận theo đà của lòng mình luôn thể- Con đồng ý lấy anh ấy, nhưng từ đây đến ngày cưới con vẫn ở chùa.
- Ý đừng ! Nếu cần thiết con ở nhà bác luôn vậy.
- Con nhớ chùa quá, con cũng nhớ thầy Hạnh và các sư bà.
Ông Hoàng Ánh toan tính một việc khác, ông không muốn cô về nhà trong thời gian nay mai, ông muốn cô cạnh kề với Chính Tâm thêm một thời gian nữa. Ông nghĩ ra việc đi tìm mua  cây cảnh rồi bắt hai người đi theo mình.
  Ông nói thích làm một vườn cây mini, ông muốn đến Sa Đéc tìm vườn Hồng ông Tư Tôn để mua cây kiểng quí về trồng.
Vườn Hồng ông tư Tôn nổi tiếng từ lâu. Ông đã được báo giới về thăm và được đăng tải rất nhiều lần. Hằng ngày, nhiều người đến vườn Hồng ngắm cảnh hoặc mua cây. Ông Hoàng Ánh quê vợ cũng ở Sa Đéc, ông cũng từng đọc quyển “Sa Đéc xưa và nay”, nên rất mến mộ ông tư Tôn. Bao giờ ông cũng dự định sẽ có một vườn cây như vậy. Ông cứ hẹn lần hẹn lữa, để đến gần hôm nay mười mấy năm mới bắt đầu thực hiện.
  Khi mình không biết nhiều về cây kiểng, để gặp một nghệ nhân như ông tư Tôn, ông Hoàng Ánh rất là ngại ngùng. Trong vườn Hồng mênh mông cây cảnh, ông  chỉ biết vài loại cây mà thôi. Bên đây là cây Cau vàng, cây lá trắng. Còn những loại khác thì có lẻ ông cần phải học hỏi thêm. Tuy biết mình ít hiểu biết về cây kiểng, nhưng ông Hoàng Ánh rất nóng lòng muốn trở thành một nghệ nhân. Không được như ông tư Tôn thì ít ra cũng làm gì đó cho giới trồng cây kiểng phải nể vì.
Tưởng như mình là người sắp giàu có, sẽ tìm thấy vàng khi Chính Tâm khỏe lại. Ông sẽ đi « tắt » bằng cách bỏ tiền ra mua những giống cây quí. Tính nết của người già nắng mua bất thường: thay vì phải trực tiếp gặp gỡ ông tư Tôn để học hỏi, thì ông ông nghĩ trước khi đối mặt với người có tên tuổi, ông nên hiểu biết thêm chút nữa mới gặp ông ấy.
Trên đường, ông gặp một cô bé tên là Thuỷ, quãng độ 19 tuổi. Cô gái nhỏ này cũng có một miếng vườn nhỏ nằm ngang con lộ. Ông  quyết định qua đó.
- Đi các con!- Ông gọi Ni cô Ngọc và Chính Tâm đang đứng cạnh ông.
- Đi đâu ba?- Chính Tâm hỏi- Sao cha không đứng đây ngắm nhìn, và loại nào ba thích thì cứ bảo con. Con sẽ mua đem về hết cho.
- Qua nhà cô bé Thuỷ trước đã. Ta muốn sao thì chìu vậy đi mà…
- Bên đây nổi tiếng, ba không muốn xem…thì còn đi đâu?
-  Thằng con này!- Ông Hoàng Ánh làm mặt giận. Các cụ già giận thường con cháu chìu theo và ông làm điều đó hiệu quả- … Dù sao thì tao cũng là cha mày.
- Con có nói là con của ai khác đâu! Nhưng đâu phải con là con của cha, thì con không có quyền giải thích được sao?
- Thôi… theo tao, nói giông nói dài nói dai như đỉa. Qua bên đây, tao nâng trình độ lên chút xíu, rồi trở ra gặp ông tư Tôn sau.
- À! Con hiểu rồi…
- Hiểu gì!- Ông Hoàng Ánh qua chiếc cầu bắc qua mương vừa háy hó- Có ai muốn vạch lưng cho người khác xem dấu đâu? Tao muốn làm vườn Hồng mi ni, muốn trở thành một nghệ nhân. Gặp ông tư Tôn bây giờ để ông cười…
- Con nghĩ là ba chẳng kịp làm nghệ nhân đâu?
- Vậy…là sao? Mày định trù ẻo tao chết sớm phải không. Dù thế nào, tao cũng quyết để cho đời sau một cái gì đó…- Ông định nói tên tuổi của mình ra, nhưng ái ngại. Ông nói lãy đi: Để lại cho tụi bây vài giống cây quí…hoặc cho xả hội thêm đẹp hơn…Cười cái gì, hai đứa bây cứ để cho tao nói hết đã.
- Đâu có ba, con cười là cười chuyện khác.
- Chuyện khác nào?
- Ba đi qua rồi con nói!- Ông Hoàng Ánh dừng lại trên giữa cầu, tỏ vẻ bất bình gì đó. Chính Tâm hối thúc ông- Ba à! Con cười là cười mình chưa tìm được một thõi vàng nào, nhưng cha con mình cứ nghĩ là giàu có.
- Ờ!- Ông Hoàng Ánh đã già cả, nên dễ bị đưa sang chuyện khác. Nhưng bí mật có một áp lực của nó, người già giữ kín trong lòng rất dễ, đám trẻ khó mà kín đáo. Nhưng khoe để cho ni cô Ngọc nghe cũng nên lắm chứ.
Một lúc sau, mọi người đứng trước nhà người con gái tên Thuỷ. Ông Hoàng Ánh bận bịu với mấy cây kiểng phía ngoài ngay, quên không chào hỏi. Còn Chính Tâm và ni cô Ngọc thấy cô gái đang ngồi hí hoáy viết, cả hai vừa bước vào là hỏi ngay:
- Chào Thuỷ, hình như là đang học tiếng Hoa à?
- Dạ! Chào anh  chị, em đang học tiếng Hoa.
- À!- Chính Tâm lên tiếng- Ở đâu cũng thấy học ngoại ngữ…Sao em không học tiếng Anh, mà học tiếng Hoa?
- Dạ, tiếng Anh thì em đã có bằng A rồi! Hiện tại em đang học lớp Cử nhân của Trung tâm Thị xã, ở đó đang dạy theo chương trình Đại học Tổng hợp đó anh. Cô gái nhìn Chính Tâm, còn anh thì đang e ngại trước vốn ngoại ngữ của mình.
Còn ni cô Ngọc thì buột miệng :
- Nì hảo!
- Nì hảo!
  Cô gái tên Thuỷ vừa rót nước, vừa tiếp tục:
- Lúc trước có mấy người Đài Loan đến đây, muốn mua mấy cây Thiên tuế đó…Nhưng vì không biết tiếng họ nên rồi họ không mua. Em thấy vậy nên em đi học đó…Ơ, anh uống nước, chị uống nước…- Thuỷ ra ngoài khoanh tay trước mặt ông Hoàng Ánh- Dạ thưa, con mời Bác vào nhà con uống nước.
- Được con!- Ông đáp lại, nhưng vẫn chưa chịu vào- Con vào trước đi nhé!
Thuỷ là một cô gái nhanh nhẹn, cô có thể tự mình tiếp khách. Bởi vì ở đây, có rất nhiều khách nhưng đa dạng: Họ đến chỉ xem thôi cũng có, họ đến để tìm vài giống mới lạ nào đó, hoặc họ đến để tìm mua vân vân. Tất cả những người như vậy, được cô tiếp đãi rất là nhiệt tình. Chính Tâm gợi ý:
- Anh không biết nhiều cây cảnh lắm! Em có thể vừa dẫn dắt vừa giới thiệu tên cho anh và ni cô đây biết được không…
- Chúng mình có thể tìm chổ nào đó chụp vài bôi hình.
- Dạ! Em sẽ làm theo như vậy…
Thuỷ nhiệt tình dắt tất cả ra vườn. Ông Hoàng Ánh cũng đi theo nhưng ông lại núp phía sau hai đứa con.
- Thế này nhe!- Ông đề nghị- Mình đi chầm chậm thôi, rồi giới thiệu từng loại tên…Đi nhanh quá, chẳng khác nào cỡi ngựa xem hoa.
- Dạ!- Thuỷ ngoan ngoãn nghe theo lời ông ngay- Thưa bác đây là cây Cau đỏ…còn đây là cau…
- Đây là cau xanh chứ gì- Ông tỏ vẽ thông minh, còn Cau vàng và Cau trắng nữa phải không?
- Dạ! Nhưng con chỉ nghe có cau vàng chứ không có Cao trắng.
- Cao trắng mà không biết à?-Ông Hoàng Ánh bị hố, ông làm bộ nói chệch đi- Cao trắng là loại…Các cô thoa mặt đó.
- Ba này! Ba không đứng đắn với người ta thì người ta cười cho đó…
- Người ta thì sao?- ông quay sang Thuỷ- Đây có phải là cây Mùn sụm không vậy hả?- Ông lại hỏi- Cây này dành uốn nai uốn con rồng rất đẹp.
- Dạ! Đó là cây mùn sụm. Ở bên vườn bác Tư có uốn một con rồng rất đẹp. Ở bên đây ba con chỉ uốn vài hình nhỏ thôi…
- Ờ! Bác biết loại này…Ở trên nhà bác có trồng hai chậu, uốn hình nước Việt Nam…Vậy mà mấy ông nhà bên cạnh chẵng hiểu gì, dám nói đó là hai con loăng quăng…
  Ni cô Ngọc trực cười, rồi góp vào:
- Chắc tại vì nghệ nhân không khéo đó thôi…làm sao mà để người xem thấy đó là hai con loăng quăng là lỗi của người chơi cây kiểng.
- Bản đồ nước Việt Nam người Việt nào không biết…
  Chờ tranh cãi xong, Thuỷ giới thiệu tiếp vườn cây:
- Đây là cây sơn tùng, kia là hổ phách, trắc bá diệp, Trúc nhật, Mai thuý, xương rồng ngang…
- Từ từ đã…-Ông Hoàng Ánh lại lên tiếng. Ông tìm cây viết- Nào nói lại cho bác nghe.
  Trong vườn cây, mênh mông bạt ngàn các loại cây kiểng. Ông theo Thuỷ để ghi lại từ đầu các tên cây mà ông mới biết, luôn cả giá cả. Còn về mặt tạo dáng cho cây, thì cô không nói (có hỏi cũng vậy- Nghề nào cũng cần giữ bí quyết riêng là vậy). Chính Tâm nói:
- Ngọc thấy cây sắn đó chứ! Đang mùa rụng lá, chỉ trơ trụi cành nhưng nó cũng đẹp như ông già xương xẩu mà bền bỉ. Đó cũng mang một vẻ đẹp. Còn cuối vườn kia là cây bình bát, giống nó có rất nhiều mọi miền đất nước. Nó vừa khoẻ mạnh lại vừa dễ chiết cành; Nếu chiết ngang cành kia, có một dáng như một con tôm càng dài, khi chiết xong lặt tất cả các lá trước ngày lễ hoặc tết. Vài ngày sau sẽ ra những lá non nho nhỏ, thì nó cũng đẹp lắm chứ.
- Anh Chính Tâm này đúng là một nghệ nhân rồi!... Hay là…
- Nó là nghệ nhân…thì bác là gì ?- Ông Hoàng Ánh đứng ở xa nghe thấy, ghen tức- Già cả như bác, hoặc ông tư Tôn hoặc ba của cô gái này.
  Chính Tâm lấy máy chụp ảnh, khẻ bảo cô gái vườn hồng lại:
- Em này, em biết chụp hình không?
- Dạ biết… Em vẫn thường làm cho khách chuyện này.
  Thuỷ chụp hình cho Chính Tâm và ni cô Ngọc. Cô gái vườn hồng nhỏ nhắn này, chỉ nghĩ là họ chỉ muốn có chút kỷ niệm.Thấy hai người quấn quít như vậy, Thuỷ thỉnh thoảng lấy làm lạ.
- Đủ rồi! Có muốn chụp thì sang bên kia, cho tôi gặp ông tư Tôn… kẻo trời chiều.
- Thế này!- Thuỷ đề nghị với ông Hoàng Ánh- Con sẽ đi theo tìm bác Tư cho bác nói chuyện nhe? 
Thuỷ tiếp tục tục dẫn đường sang nhà bác tư. Gặp ông, cô líu lo:
- Thưa bác Tư, đây là người muốn tìm bác…
- Chào anh, tôi là tư Tôn…
- Dạ tôi nghe danh tiếng của anh nhiều. Tôi tên Hoàng Ánh…
- Giống trong chuyện Tấm cám : Vàng ánh vàng anh ! Có phải vợ anh chui vào tay áo- Chính tâm nhại lại.
- Mời anh vào đây uống nước, cả cháu Thuỷ nữa.- Ông tư Tôn mời họ.
- Dạ! Con cám ơn bác…Hai bác nói chuyện mới vui.
Nói xong, Thuỷ quanh quẩn bên ngoài.Song ánh nhìn cứ hướng về Chính Tâm và ni cô Ngọc.
Bên trong vườn Hồng ông tư có xây cất một cái lán nhỏ, bên cạnh một cái ao. Nơi đây dành để tiếp khách rất tiện (vừa chuyện trò, vừa ngắm vườn cây). Hai ông già vào trong mời nhau ngồi, họ mời nước và mời thuốc nhau hút. Trước tiên là ông Hoàng Ánh, ông tự nguyện khai báo sự thật:
- Chẳng qua là tôi muốn trồng cây kiểng đó anh, nhưng mới chập chững bước vào nghề, nên muốn tìm anh để thọ giáo.
- Anh đừng nói nghe cao giọng, kẻo bà con nghe được cười tôi chết. Nghề này đâu có chi là khó đâu, tự anh làm sẽ biết rành… vấn đề là trong con người có yêu thích nó không. Công việc chỉ cần giữ cho tâm hồn thanh thản, đạo lý con người cũng phải biết hướng đến mọi điều thiện, quan niệm chân thiện mỹ cũng phải rõ ràng. Một khi con người hướng về cái đẹp, thì họ sẽ thấy mình sung sướng, thanh thản và cảm nhận được ý nghĩa của con người. Giá trị của cây cảnh cho con người ý nghĩ đó, không phải vì tình hình kinh tế thay đổi và lợi nhuận từ thứ “hàng hoá” này, mà chính vì nhân văn con người nữa.
Khi ông bước chân sang vườn Hồng, tất cả suy nghĩ rộn lên như một tiếng ca trong lòng, phảng phất và len đến những hàng cây, thì thầm nhẹ nhàng, đó là tiếng thơ trong tâm hồn con người vậy. Kia là con rồng uốn khúc, như uốn lượn đến nơi thiên đàng này, núp sau cau đỏ phủ đầu người tựa như chốn vườn Hồng này bao la vô tận, che khuất tầm nhìn con người ta. Ông không định ra một câu thơ nào trọn vẹn, nó chỉ là lời nói không đầu không đuôi, nhưng tự dưng nó như một mùi hương quyến rũ tâm hồn xa lạ đến nơi này. Quả thật ước mơ của ông trỗi dậy, ít ra là bao nhiêu ngày tháng trong đời được níu kéo ý nghĩ ấy một lần. Ông đã được thảnh thơi rồi đó, đã lo cho con lớn khôn rồi đó, giờ ông đến đây ngắm cây cảnh như để được gột rửa tất cả. Những gì vướng víu những ngày âu lo không còn nữa, ông có thể tu tâm tích phước được rồi. Ông cảm giác những điều ông tư Tôn nói, nó hao hao thuyết nhà Phật quá. Ranh giới của người chơi cây kiểng và đường đi tu cách nhau có một gang. Vậy  chơi cây kiểng có phải hướng về cái đẹp hoàn mỹ chưa? Đương nhiên là chưa rồi. Làm nghệ nhân tìm kiếm vẻ đẹp của cây kiểng thì quá bình thường, tại sao ông không vừa chơi tìm cây kiểng cho đẹp, rồi ông sẽ hiến tất cả cho Liên Hoa Tự. Phải thế tâm hồn mới bình lặng hơn, cũng là tu tâm dưỡng tánh mà còn có khả năng thành đạo.
Cuộc trao đổi ngắn ngủi nhưng ông Hoàng Ánh nghe thắm thía vô cùng. Ông đi ra ngoài vườn như người thực sự đã được tự do, ông chờ đợi tất cả những ý nghĩa cứ chen đến những dự định, rồi vẫn đứng yên không hề bước đi một bước nào, mà chỉ xoay người về bốn hướng để nhìn dưới nhiều góc cạnh : vẫn một cảnh nọ, vẫn một cây kia, vẫn một trời mây của buổi chiều sắp xế, và ông cứ ngắm nhìn như vậy một lúc lâu.
Đến lúc thấy thấm thía, ông niệm phật trong lòng một câu. Ông bước chỉ một bước ngắn thôi…rồi xoay bốn hướng như khi nãy.
- Coi kìa ba! Vườn hồng mênh mông…Ba cứ đi nhích từng bước, thì chừng nào mới xem xong.
- Các con ơi! Các con không hiểu…xem hoa là phải xem ý nghĩa của nó với trời đất tự nhiên, xem từng cánh hoa. Xem cây kiểng thì moi ra nhìn đoạn rễ.
- Nếu bác xem như vậy, chắc một năm mới xong. -Cô Thuỷ nhắc nhở - Con đứng chờ đến bao giờ…
- Sao con không theo hai người kia…
- Thôi…
- Sao vậy ?
Thuỷ như người không hồn, với một vẻ buồn của một cô gái nhà quê, thẫn thờ bên bụi Lan Huệ. Cô thấy Chính Tâm dìu dắt ni cô Ngọc dạo quanh vườn Hồng, ước mong mình thế chỗ ni cô Ngọc mới xứng hơn. Cô cũng cho rằng ni cô Ngọc thuộc về giới tu sĩ thì được người yêu thương mình dìu dắt như vậy là không được, cô hết sức thắc mắc quan hệ của hai người. Cô cảm thấy tình cảm đột ngột sâu nặng với Chính Tâm, cô muốn gần gũi một người đàn ông to cao và vạm vỡ như thế. Cô biết mình không thể nào quên được Chính Tâm và cuộc đời sống trong nhớ nhung buồn bực như vậy thật là đau khổ. Vì sao ni cô Ngọc may mắn đến thế, cô tu luyện nên gặp đại phước ư ? Nhưng đó là phước ư ?
  Ông Hoàng Ánh bắt được cái nhìn đắm đuối của cô gái trẻ với con trai mình. Ông hiêu hiểu là Chính Tâm đâu đến nỗi nào không tìm được vợ cho mình, phải đi phá hoại con đường tu của một ni cô ngoan đạo. Bỗng ông hào hứng đi đến Chính Tâm khoe ra :
- À Nha ! Con có người thầm nhớ thương nữa thôi. Cô gái ấy đã len lén bám theo nhìn con suốt.
Ông Hoàng Ánh thiếu cẩn thận, ni cô Ngọc nghe ông nói thế buồn phiền, rồi quay phắt đòi về ngay :
- Con phải về chùa nói chuyện với thầy Hạnh và cần lấy thêm đồ đạc nữa. Con sẽ lấy anh Chính Tâm thôi.
Giờ phút đó, ông Hoàng Ánh gật gù cảm giác như có người cạnh tranh thì mọi thứ mới sôi nổi. Chính Tâm rảo bước theo ngay, để lại đó một nổi buồn vô hạn của một cô gái vườn Hồng ngây thơ.
 VIII
 Không có tin tức gì của ni cô Ngọc, thầy Hạnh rất là giận. Việc ni cô Ngọc xin phép thầy Hạnh đến nhà ông Hoàng Ánh chỉ một ngày chúa nhật. Thế mà đã mấy ngày rồi không thấy cô trở lại chùa, lại thêm một số người có thân nhân ở bệnh viện, biết chuyện ni cô Ngọc và Chính Tâm, đem sự việc đó kể lại cho thầy nghe. Thầy Hạnh hết sức phản đối việc chấp thuận dễ dàng đó và khư khư một mực nhất quyết ni cô Ngọc phải về chùa ngay. Ni cô Ngọc muốn về chùa thăm thầy Hạnh, và các sư bà, và cũng là để cô nói về việc nhận lời lấy Chính Tâm.
- Từ nhỏ tôi không có chỗ nương thân, con đường tu luyện dài quá không biết có gánh vác nổi không ? Nay anh Chính Tâm có lời muốn lấy, bác Hoàng Ánh cưu mang. Tôi đã đồng tình.
  Thầy Hạnh chép miệng than thở :
- Lúc ban đầu đến đây, tôi đã muốn cô phải thực hiện nghiêm túc nội qui chùa đó sao ? Nếu cô không đến đó ngày nào thì tôi nghĩ cô không vướng vào chuyện của cha con ông Hoàng Ánh đâu. Cô còn trẻ, tu hành phải theo đạo. Nếu như cô có muốn bước ra đời, sau này cũng còn nhiều dịp sao lại phải vướng vào cha con ông Hoàng Ánh. Anh Chính Tâm kia chẳng có nghề ngỗng gì, nên phải tìm một ni cô ra chiều yêu mến. Thực sự anh ta không thể tìm một người con gái nào khác hơn được, vì anh ta chẳng có tài cán gì.
Ni cô Ngọc chữa lại :
- Có đấy...mới tới vườn Hồng là đã có người mong ngóng anh ấy rồi đó. Anh còn nói vườn nhà ảnh có nhiều vàng lắm.
- Trời đất...nói thế mà cô đã tin rồi. Bác anh ta nói thì tôi có thể, chứ vườn nhà ông Hoàng Ánh có vàng thì ông ấy đã mua đứt cái chùa này từ lâu rồi !
- Tôi không biết mình nương thân ở chùa này được bao lâu nữa. Thầy ơi, chỗ ở của thầy tôi và bà sư già chiếm dụng thật không đành. Chùa này không dành cho ni cô  ở, lâu dài chắc chắn tôi cũng phải tìm một chỗ ở khác…Còn về việc tu luyện mà ngã về đời chắc là một sớm một chiều sẽ xảy ra thôi. Tôi sợ lúc đó mình bị khi dễ, mà không có chỗ dung thân nữa.
- Tình hình này tôi khó mà khuyên giải được cô, nếu lấy một mạng người ra để kéo cô đi, thì chắc cũng cách ấy để  kéo cô về...
Thầy Hạnh nói nhưng ni cô Ngọc không hiểu gì, cúi chào để sang phòng mình lấy đồ. Ông Hoàng Ánh dạo bước phía ngoài, thầy Hạnh tìm cách can ngăn việc ni cô Ngọc đi lấy chồng :
- Thực sự tôi không hiểu hai cha con ông ? Một ni cô tu hành mà các người cũng không tha.
Nếu như ông Hoàng Ánh khéo léo thì sự việc không đến nỗi nào, nhưng ông cũng thương con nên làm sự việc rối rắm ra thêm. Biết thầy Hạnh phản đối việc tác hợp ấy, ông đến chùa cố lý giải cho thầy Hạnh nghe:
- Chính Tâm nó có làm chuyện lung lay đất trời gì đâu, chỉ đơn giản là tìm lương duyên cho mình. Người mà nó chọn là ni cô Ngọc, con trai thì tìm con gái để lấy có vậy thôi. Đạo phật là đạo vị tha, nhân ái. Nếu như thầy không đồng tình thì đâu phải là người của đạo phật. Chùa Liên Hoa tự sẽ được anh tôi bỏ tiền ra xây dựng, xét kỹ ra thì thầy cũng nể nang tôi với chứ...
- Chùa không phải là nơi ai đến rồi đi cũng được, cũng phải có phép tắc chứ, dễ dãi sẽ làm cho chùa hỗn tạp thêm thôi. Ni cô Ngọc không còn cha mẹ, bà ngoại cô cũng mất. Cô ở đây được chùa nuôi dưỡng và giáo dục, qua một năm và ba tháng An cư kiết hạ, ni cô đã được Mặt trận tổ quốc Huyện xác nhận là người tu hành. Ni cô Ngọc là người hiếu học, như ông cũng biết đấy. Cô biết tiếng Hoa và Anh văn. Nếu như cô vẫn còn tu luyện, rất dễ trở thành Phật sống đi thuyết pháp ở nước ngoài.
Thầy Hạnh vừa nói vừa lần xâu chuỗi, từng hạt. Thầy không nhắc đến việc xây dựng chùa Liên hoa tự. Tưởng đó là yếu điểm của thầy, ông Hoàng Ánh cố nhắc lại:
- Nhưng tôi muốn nói đến việc xây dựng chùa kia! Tại sao thầy chấp nhận việc xây dựng chùa khang trang, mà thầy không hề để ý đến người bỏ tiền ra xây dựng nó.
- Nếu như xây dựng một ngôi chùa đẹp, rồi bắt các sư thầy tuân theo những nguyên tắc của người khác, thì chúng tôi không chấp nhận. Chúng tôi thà ở ngôi chùa cũ và tu theo đúng lề lối của chúng tôi. Vả lại, ông Akio bỏ tiền xây dựng chùa, vì cha của ông ấy mang ân với sư Thích Quang Thanh và ông ấy làm theo ý nguyện ấy. Nếu như ông kể công việc xây dựng chùa, và xem như ông là người thân thích với ông Akio Yamato đi chăng nữa, mà buộc ni cô Ngọc ưng theo ý ông, thì không khác gì các nhà sư đang nhận hối lộ đó. Nếu như tôi ưng thuận và nhắm mắt làm ngơ, thì có bao ngôi chùa xây dựng mới trên nước Việt Nam, người ta sẽ bắt chước làm theo việc này. Đạo Phật sẽ không còn vẻ đẹp thanh thoát nữa.
- Nhưng con tôi sẽ tìm đến cái chết, nếu như nó không lấy được ni cô Ngọc...
- Con ông sẽ không chết, anh ta chỉ gặp đại nạn mà thôi.
- Làm sao mà tôi có thể tin được...
- Đúng ra, ông đến chùa cầu phật trời. Trời phật sẽ phù hộ cho con ông, nhưng hôm nay ông đến còn muốn đòi hỏi thêm những điều khác...e không gặp điều tốt đẹp thêm đó.
Ông Hoàng Ánh tỏ ý bực bội, rồi liếc lên Đức Phật Thích ca. Ông nghe ơn ớn trước lời cảnh cáo đó, song ông vẫn không cầm được lòng:
- Sự việc này chưa đến trời phật đâu! Tôi nghĩ là do người trần giải quyết ổn thoả được…- Ông Hoàng Ánh không nói đến việc xây dựng chùa nữa, mà ông nói đến lòng từ bi bác ái của đạo Phật- Thầy nghĩ lại xem, thầy tu hành mà thầy vẫn còn tính cố chấp. Đúng ra, thầy phải từ bi nhân ái như đạo Phật mới được, thầy là người không vị tha.
- Nam mô A di đà Phật- Thầy Hạnh niệm và không nói thêm nữa.
Ông Hoàng Ánh cũng suy nghĩ, không biết trường hợp này đúng sai thế nào?
- Tìm vợ tìm chồng ai ưng thì lấy thôi, ông cố lý giải việc đó: Việc tu hành là ở mỗi nhân tâm con người, ni cô Ngọc nếu đã không còn thiết tha với đạo Phật nữa, thì có ép uổng cũng bằng không.
- Đúng vậy!- Thầy Hạnh trả lời, thầy phân giải- Ni cô Ngọc là người hiếu đạo, tôi tin như vậy…Chỉ xin đừng ai làm thanh danh cô hoen ố…
- Tôi nghĩ rằng, thầy xử sự như vậy là không đúng. Tại sao thầy không để cho ni cô Ngọc tự quyết định? Tại sao thầy không chờ đến khi con tôi lành bệnh thì thầy nói chuyện đó cũng đâu có muộn.
- Tôi muốn làm cho đạo Phật đẹp đẽ mà thôi.
- Thầy muốn đạo Phật đẹp cũng như ngôi chùa mới chứ gì! Dù muốn dù không thì ngôi chùa cũng sẽ xây…
Ông Hoàng Ánh lại nhắc đến chuyện xây dựng chùa, với giọng doạ dẫm hơn trước. Lần này, ông vẫn nghe lời phản đối quyết liệt.
- Ở chùa nhân tâm là con người. Trước đây, cậu tôi là thầy Tư Để là ruột thịt với sư Thích Quang Thanh. Nhưng vì ông ấy rượu chè bê bét, tôi được mọi người bầu lên. Tôi ở vị trí đó và sống với quan điểm của chúng sanh. Quan điểm ấy không phải là do tôi đưa ra, mà là nhân dân vùng này. Nếu như ông kể ông là thân nhân của người xây dựng chùa ; Nếu như được ngôi chùa mới mà con người bị tha hoá...Ở đây, chúng ta đến chùa tu hành không phải là cho riêng mình đâu, mà cho cả thế gian này. Xin ông đừng hăm doạ, nếu tôi đã chấp nhận việc xây dựng chùa mới, thì tôi dứt khoát lấy tính mạng của mình ra để bảo vệ vẻ đẹp của nó. Nếu như ông không tin và vẫn ra điều kiện, thì ngày mai này ông sẽ được chứng kiến. Tôi sẽ lấy tính mạng của mình để đổi lấy sự trong sạch của đạo giáo, tôi sẽ tự tuyệt thực để cho vẻ đẹp của Phật giáo trường tồn. Tôi chỉ muốn ngôi chùa mới vừa có tiếng tốt, chứ không mang một tai tiếng nào cả.
Mỗi người vẫn còn giữ ý kiên định riêng và cả hai đều cho đó là lý tưởng sống của riêng mỗi người. Ông Hoàng Ánh thôi không tranh luận tại phòng của thầy Hạnh nữa, mà bỏ ra ngoài sân chùa. Ở ngoài có vài người biết chuyện đón đợi, vừa gặp ông thì họ quây lấy ngay để ủng hộ :
- Bước sang thế kỷ hai mươi mốt rồi, chùa chiền nằm cạnh kề với xã hội đang rộng mở.Về việc Chính Tâm yêu ni cô Ngọc, nếu như xét theo quan điểm ngoài xã hội : Trai gái được tự do yêu thương và đó là chuyện riêng tư của họ. Họ có quyền tự lựa chọn và đồng ý kết hợp với nhau suốt cả cuộc đời là chuyện của họ.
Có hai người đi tới, nghe thế cũng chen vào :
- Ni cô Ngọc đã là người tu hành, những người tu hành có ý kiến bênh vực đạo của mình chứ. Thầy Hạnh là người trụ trì, nên quản lý mọi việc. Thầy có quyền can thiệp những gì diễn ra khác nguyên tắc, mà những người cư ngụ và tu hành ở chùa phải tuân theo. Nếu như ở ngoài đời thì chuyện ấy bình thường, còn ni cô Ngọc là người tu hành mà…
- Biết vậy rồi ! Nhưng ở đây, tôi muốn mọi người có cái nhìn thông cảm cho ni cô Ngọc và Chính Tâm. Với ni cô Ngọc, hoàn cảnh của cô đến với chùa là do cha mẹ chết sớm, bà ngoại cô gởi gấm cô vào đường tu luyện. Lúc đó cô còn nhỏ nên có ai biết là cô tự nguyện đến với đạo Phật hay là bị ép buộc. Giờ đây cô đã lớn khôn rồi cô làm gì thì do cô tự quyết định lấy. Điều tôi muốn nói rằng xã hội tân tiến của chúng ta đã đến giai đoạn dân chủ, dân chủ là được tự do trong hành vi của con người, Phật giáo cũng phải vậy.
- Phật giáo đâu có ép ai…đi tu, người đến với Phật đều là tự nguyện cả. Song khi đã tự nguyện vào con đường tu rồi, thì phải tận tâm với nó chứ…Dân chủ thì phải có lề lối với nó nữa. Anh phải xem phương tây có khác, còn phương đông phải khác chứ.
- Phương tây phương đông gì ở đây. Hiện tại chúng ta đang nói về ni cô Ngọc ở trong cái chùa này…
- Ơ kìa ! Chính vì trong chùa  và là kẻ tu hành thì không được yêu ai hết. thầy Hạnh có phản đối là đúng.
- Đúng sao được mà đúng…mà đúng, thì phải thông cảm cho người ta.
  Lúc bấy giờ, có những người công an đến để xem xét và xác minh xem việc xây dựng chùa có đúng như người ta đồn thổi không ? Cùng đi cũng có những người trong ban Địa chính và Văn hoá Thông tin Huyện. Họ chỉ thấy xây dựng bốn bức tường còn đang dang dở, nên không có ý kiến gì. Những người đang to tiếng nín lặng, một anh trong ban Văn hoá Thông tin trách khéo :
-Các bác tranh luận om sòm trước cổng chùa, ai còn tu hành gì nữa được.
Những người kia dịu lại, rồi giải tán. ông Hoàng Ánh còn nấn ná nên những người kia thăm dò :
- Nghe nói ở đây, sắp xây một ngôi chùa hoành tráng hả bác ? Sao không thấy xin phép tắc gì hết…
- Tiền đâu mà xây- Ông Hoàng Ánh nói giọng tỉnh queo- Có mấy bức tường mà còn bỏ dang dở…
- À !- Những người công an tin ngay- Sao nghe nói có một người Nhật mộ đạo cho tiền mà bác.
- Cho thì cũng có giới hạn, tiền nào ra tiền đó chứ.
- À !- Hai người công an nhìn quanh một lần nữa. Đúng là chỉ mới xây có mấy bức tường mà cũng còn dang dở, rồi than thở- Chùa còn thiếu thuế đất, chưa làm sổ đỏ. Việc người dân lấn đất chưa giải quyết xong, xây tường biết ranh giới đâu mà lần ?
Ông Hoàng Ánh lẩm bẩm :
- Khỏi xây luôn vậy…
Ông giận lẫy, nhưng cũng có chút khôn ranh.
  Họ không định vào trong để hỏi thăm vị trụ trì nữa. Tất cả đều xem như đã xác minh xong.
   Nãy giờ, ni cô Ngọc đứng phía trong nhìn ra không biết phản ứng thế nào, rồi mang lấy một số đồ đạc, rời chùa theo ông Hoàng Ánh về lại khu vườn để chăm sóc Chính Tâm.
IX
Sáng ngày hôm sau, thầy Hạnh vẫn tụng kinh sớm như những ngày thường, nhưng hết giờ thầy căn dặn với một sư già :
- Tôi cần căn dặn vài điều cần thiết với ni cô : Tôi sẽ tuyệt thực đến chết. Tôi nên làm như vậy để lấy danh dự cho chùa, điều này quan trọng vì tu hành mà còn bị ràng buộc thì ta không còn tu một cách thanh thản nữa được.
  Bà sư đã nghe chuyện của ni cô Ngọc và biết ý kiến của thầy Hạnh. Bà tức tưởi khóc, những vết nhăn càng thêm nhăn nhúm lại :
- Thầy lại muốn về Niết bàn sớm sao ? Thầy muốn đi trước chúng tôi à ? Những người nhà biết chuyện này sẽ đau khổ lắm đó.
- Không sao đâu sư ạ ! Tôi đã là người của nhà Phật từ lâu rồi, vợ con tôi cũng biết thế rồi…
Nhưng bà sư vẫn khóc, bà tấm tức và trách móc :
- Ông Hoàng Ánh đúng là không phải lẽ đó thầy ạ ! Ông ấy không xem chúng ta ra gì…Chỉ vì ông ấy là thân nhân của ông người Nhật mà thôi.
- Đúng vậy đó sư cô ạ ! Chúng ta càng nhân nhượng thì ông Hoàng Ánh lại càng lấn tới. Nếu chúng ta tiếp tục nhân nhượng thì ngôi chùa Liên Hoa này có chủ cũng vậy, chỉ là bù nhìn và phụ thuộc vào ông ấy. Do vậy cần phải làm một cái gì đó để giữ được độc lập và tự do của ngôi chùa.
- Chúng ta có cách giải quyết nào khác không ? Chẳng hạn nhờ chính quyền can thiệp hoặc họp chúng sanh lại.
- Ồ ! Khó lắm…Tôi hy vọng nhờ việc tuyệt thực rồi đem chôn sống này sẽ tác động mạnh đến mọi người. Làm như vậy có nhiều cái lợi : Thứ nhất là ta đã làm cho ni cô Ngọc sẽ thức tỉnh trở về con đường tu hành, thứ hai là chùa chúng ta sẽ không còn phụ thuộc nào khác nữa…Lúc đó, nếu như mọi người vẫn còn ưu ái tôi. Sư cô sẽ cho người đem tôi lên…được chứ…
- Nói vậy là sao ? Thưa thầy…- Bà sư tỏ vẻ ngạc nhiên.
- Nghĩa là không chết đâu, bà ạ ! Tôi đã tập luyện được phép nhịn đói và nhịn thở hai mươi ngày. Tôi hy vọng bắt đầu từ ngày hôm nay, mọi việc chỉ giải quyết xong hai mươi ngày tới…Xong xuôi, sư cô hãy cho người đào tôi lên, nhớ đừng quên nghe.
Dưới căn hầm, có những sách vở thuộc loại nghiên cứu yoga. Thầy Hạnh thấy trong đó có phép nhịn đói và chết tạm trong vòng hai mươi ngày mà vẫn sống được, nên đã lấy lên tìm hiểu.
Thầy dần dà chuyển hơi thở xuống Đan điền, bấm tay vào các luân xa nguyệt đạo, rồi xả hơi ra từ từ. Cứ thế thầy làm cho hơi thở chuyển đổi năng lượng thay thế cho hệ tiêu hoá.
Khi ấy, vợ con thầy đến khóc tức tưởi, chửi bới ông Hoàng Ánh, Chính Tâm và ni cô Ngọc đủ điều.
- Mấy người đó!, họ là những người ép uổng thầy…- Người vợ từ lâu không gọi thầy Hạnh là chồng nữa. Những đứa con cũng bắt trước khóc theo.
Công an địa phương đến xác nhận cái chết của thầy, nhiều người đến chứng kiến sự việc. Xác thầy được liệm vào quan tài (Họ sơ xuất không nhờ bác sĩ nghe tim mạch), và tiến hành việc chôn cất.
Nhiều người đến chứng kiến sự việc, bàn tán không biết giao phó chùa cho ai trông nôm. Họ không muốn tái diễn lại việc thầy tư Để trước đây, hiện tại tạm thời chùa giao cho bà sư già trông coi- Có khả năng, tương lai vị trí Trụ trì chùa Liên Hoa Tự là vị sư nữ.
  Đến hai mươi ngày sau, bà sư già vẫn nhớ lời thầy Hạnh căn dặn. Nhưng chính vì bà có khả năng là vị sư nữ Trụ trì chùa nên bà bắt đầu có toan tính khác, nếu như thầy Hạnh sống trở lại thì đương nhiên vị trí Trụ trì sẽ  giao phó trở lại cho thầy Hạnh.Bà sư ra mộ thầy Hạnh quì lạy, đem dụng cụ đào bới ra đó. Bà hồi họp, cũng như không biết mình làm chuyện này có tội lỗi gì không? Bà đắp thêm đất lên phần mộ của thầy Hạnh chứ không đào lên như dự định ban đầu. Bà nghĩ: “Có ai giết người chết bao giờ”, nên không xem là tội được.
Trong khi đó,  hai mươi ngày qua ông Hoàng Ánh đang chuẩn bị làm đám cưới cho Chính Tâm và ni cô Ngọc. Việc đám cưới gấp gáp để cho dư luận bớt bàn tán nhưng nghe đâu dư luận bàn tán nhiều hơn ông nghĩ. Chuyện thầy Hạnh tuyệt thực phản đối việc ni cô Ngọc sánh duyên với Chính Tâm trở thành việc cản trở trong việc mời thiệp cưới. Nhân dân trong vùng không ai chịu nhận thiệp cưới, họ cho đi cưới của con ông với một ni cô là có tội với trời đất. Ông Hoàng Ánh tức anh ách, ông ra giá ai đi ăn tiệc không tốn một cắc bạc nào, mà còn cho một chỉ vàng về đeo chơi. Ông ngông nghênh cho là mình sẽ tìm được kho báu, người giàu có ắt sẽ được mọi người phải kính trọng.
Nhưng ông nói với những người không nhận thiệp mời, chứ ông cũng rầu không biết kho báu ở đâu. Trong khi bây giờ ông không có tiền để sắm sanh đồ cưới, phải mượn tạm các con ông. Ông hy vọng tìm thấy vàng, nhưng ông cũng bế tắc không biết nó nằm ở đâu trong vườn. Ông sơ ý không hỏi han địa chỉ của ông anh người Nhật, cứ nghĩ vài bữa là ông Akio sẽ về lại nhà ông, nhưng biền biện tới nay không thấy đâu, rồi từ hy vọng ông  chuyển sang thất vọng và làm cho ông gặp quá nhiều khó khăn trước mắt.
- Vàng ơi là vàng, mi ở đâu trong vườn nhà ta?
Chính Tâm đứng phía sau lưng ông nghẹn ngào. Hai cha con chung một tâm trạng nhưng Chính Tâm có phần tỉnh táo hơn ông Hoàng Ánh nhiều. Anh nói:
- Thôi ba ạ! Chắc con không có duyên với ni cô Ngọc rồi!
- Như vậy là sao? Thế việc cưới hỏi con không đồng ý à?
- Chẳng biết sao nữa? Tự dưng lúc này, khi đã trải qua một lần chết hụt…Con thấy mình có nhiều cái vô lý. Con người ta đang tu, con buộc đòi lấy cho bằng được…Đúng là con có yêu cô ấy. Nhưng việc lập gia đình kiểu này, con thấy không thể nào được…Người ta đang cười nhạo cha con mình, mọi thứ còn đang sống trên trần gian này, mọi thứ đều nhân nghĩa.
- Nhưng bây giờ ni cô Ngọc đã nhận lời lấy con rồi…
- Đúng là tại cha con mình phá rối việc tu hành của người ta, lỗi này con cũng có một phần…Nhưng bây giờ vẫn còn sửa chữa kịp đó ba…
- Trời ơi… Cái thằng con tôi. Tất cả việc cha làm là vì con đó, con có hiểu không?
- Chính vì con hiểu con đâu có trách ai…Mọi điều con sẽ nhận hết cho mình vậy…
- Được rồi! Bây giờ ba không vì con nữa…Con là thằng con trời đánh thánh đâm, không hề nghĩ đến danh dự của ta một chút nào. Ta hy sinh tất cả vì con đó, con biết không? Nhưng bây giờ ba không vì con nữa, mà ba vì ni cô Ngọc. Tội nghiệp con dâu tương lai của tôi, nó sẽ coi tôi chẳng ra gì nếu nghe những lời này- Ông Hoàng Ánh thổn thức một lúc rồi gằn giọng- Này Chính Tâm! Hãy liệu hồn đấy…Ni cô Ngọc đã ở đây rồi, chỉ chờ ngày cưới là xem như chính thức hiện diện ở đây. Từ đây đến ngày đó thì không được nói gì hết. Việc này ta sẽ tính lại sau…
Ông Hoàng Ánh định quay đi, nhưng thấy ni cô Ngọc dạo bước đến chỗ hai cha con đang đứng. Mọi thái độ bực dọc liền thay vào đó là nụ cười. Ông nhẹ nhàng nói:
- Cái chân Chính Tâm còn bị đau, con cứ tự nhiên xem như người nhà nhé!- Ý ông muốn là ni cô Ngọc chăm sóc Chính Tâm, để khi cưới hỏi xong sẽ không ngỡ ngàng.
Ni cô Ngọc không ở một mình trong nhà ông Hoàng Ánh, mà còn có người chị của Chính Tâm mới về chăm sóc thằng em. Chị ấy tên là Minh Châu thấy sự việc cha mình đang dàn dựng có phần tội lỗi với trời đất. Chị là người có chút tín ngưỡng, nên ái ngại trong việc tác hợp này. Tuy không can thiệp vào mọi chuyện của cha mình bàn tính, nhưng chút lương tri chị muốn giữ gìn sự trong trắng cho ni cô Ngọc cho đến lúc cưới, mọi chuyện ngã ngũ rõ ràng rồi hãy hay. Ni cô Ngọc cùng ở chung phòng với chị, nhất nhất chị bắt buộc cô không được gần nam giới, cũng cầu kinh bình thường như chưa hề xảy ra chuyện gì. Từ khi nghe tin thầy Hạnh can gián và phải tuyệt thực đến chết, dư luận chỉ trích việc làm của ông Hoàng Ánh. Chị có ý muốn ni cô Ngọc trở về lại chùa tu luyện, cưới hỏi chi một ni cô. Chị không bao giờ đồng tình.
Nhưng ngược lại ni cô Ngọc  chờ đón ngày cưới hỏi một cách hứng khởi, cô ân cần hỏi ngay:
- Ảnh khá hơn nhiều rồi đó bác. Anh đã đi lại nhiều nên đau nhức cái chân bị cột thôi.
  Chính Tâm thay đổi gương mặt lầm lì ngay, dự định sẽ nói thối lui như lúc nói với ông Hoàng Ánh nhưng bị ông lườm quýt lấy một cái. Ông bỏ đi để cho hai người chuyện trò.
- Cám ơn Ngọc chăm sóc lúc ở bệnh viện…Anh định nói là…
- Có gì đâu anh! Em còn mừng là không làm anh phật ý…- Ni Cô Ngọc có vẻ bẽn lẽn- Hôm đó, anh làm em hơi sợ…nên em đã nhận lời lấy anh rồi!
  Chính Tâm cảm thấy mình có thời cơ, liền chộp lấy ngay:
- Có phải hôm đó vì sợ anh chết phải không? Chính vì Ngọc sợ nên đã nhận lời cứu mạng anh phải không…
- Đúng vậy đó…
- Cho nên bây giờ anh muốn nói là…
- Thôi anh khỏi cần nhắc lại, em nghe run thêm. Anh đừng lo nữa…Bác đã nói chuyện với em nhiều rồi và em đã chắc chắn với bác rồi…
- Không! Anh muốn nói là…
- Được rồi anh! Em hiểu anh mà…Bây giờ, anh nghỉ ngơi cho khoẻ đừng lo gì tới em nữa nhe!
  Chính Tâm thở dài, mấy lần anh muốn nói thẳng việc lấy ni cô Ngọc là điều cấm kỵ…Nhưng vẻ vô tư của ni cô Ngọc, cứ buộc anh không nói được. Lòng anh mềm nhũn ra, tự dưng anh cảm thấy mình đừng phụ bạc với ni cô Ngọc nữa, lấy ni cô Ngọc là việc cần làm.
Thời gian cứ nhè nhẹ trôi êm đềm với niềm hạnh phúc ngất ngây, ni cô Ngọc chờ đón ngày cưới với một niềm vui ngây ngất. Cho đến khi, cô nghe được người ta nói lại thầy Hạnh đã tuyệt thực cho đến chết, để cản trở việc ưng thuận lấy chồng của cô. Cô bối rối với chị Minh Châu:
- Tôi cứ nghĩ cô biết rồi chứ…Cho nên tôi lấy làm lạ rằng, cô là người tu ở đó, mà vị Trụ trì mất. Cô lại không về thăm mộ!
- Tôi không hề biết, sao tôi vô tư quá nhỉ? Tôi nghĩ là tôi chỉ bị thầy quở trách, nào dè thầy lại hy sinh cả tính mạng của mình để can ngăn tôi…Tôi không biết phải làm thế nào đây?
- Em cần phải đến thăm mộ thầy! Ngủ đi, ngày mai này hãy làm việc đó.
Tối đêm đó, ni cô Ngọc thiếp đi vì mỏi mệt (có lẻ chuyện xảy ra ở chùa Liên Hoa Tự làm cô căng thẳng). Cô nằm chiêm bao thấy thầy Hạnh báo rằng: “ Số cô với Chính Tâm không có thành duyên, và thầy không chết nên ngày mai nhờ cô đem xác thầy lên”. Ni cô Ngọc sực tỉnh, hết sức hoang mang (người nằm dưới đất hai mươi ngày rồi sao không chết được?). Cô là người tin mộng mị nên cô cho là thầy ứng báo nên cần phải đem thầy lên gấp, dù dì cô cũng phải cứu lấy thầy.
- Nếu thực là thầy còn sống, mình sẽ hoãn đám cưới lại…
Cô lúng túng vì ngày cưới đã cận kề, nhưng cô không đành xem thường một mạng sống con người. Cõi vĩnh hằng mà cô biết là một cõi mãi mãi rời xa sự sống, ở đó tuy là nơi ở vĩnh cửu nhưng không có những sinh hoạt đời thường. Sáng hôm sau, ni cô Ngọc kể lại giấc chiêm bao cho chị Minh Châu nghe:
- Chị ạ! Em linh tính…Có lẻ thầy Hạnh chưa chết đâu…Nếu như đem thầy lên thầy sẽ sống lại.
- Chị chỉ ủng hộ việc về thăm mộ nhưng không tin rằng thầy còn sống dưới lớp đất đến hai mươi ngày được. Làm gì có chuyện sống lại…chỉ có chúa Jêsu bị đóng đinh, chết đi ba ngày sống lại thì còn tin. Đằng này thầy Hạnh đã hai mươi ngày rồi…
- Em biết vậy…Nhưng không hiểu sao, em tin rằng thầy Hạnh vẫn sống, nếu như không đem thầy lên thì thầy sẽ vĩnh viễn lìa trần.
  … Bà sư già “quên” khuấy lời căn dặn của thầy Hạnh, bà đắp lên mộ phần của thầy vài nấm đất rồi đi ăn đám giỗ ở nhà người cháu. Ngày hôm đó, ni cô Ngọc trở về chùa. Mọi người nhìn cô với con mắt xoi mói và không cho cô vào cổng chùa…Các bà sư cũng không ai bắt chuyện. Ni cô Ngọc cố gắng bày tỏ với mấy người đó:
- Thưa các sư! Hôm nay con trở về đây vì có một giấc chiêm bao kỳ lạ. Con thấy thầy Hạnh báo mộng rằng thầy chưa tắt thở và nhờ con đem thầy lên…Hãy tin con, con nghĩ là thầy Hạnh chưa qua đời đâu ạ!
- Chuyện lạ khó tin! Cô có nói mãi cũng vậy.
  Ni cô Ngọc thiếu căn cứ để cho mọi người tin mình. Cô nói mãi và oà khóc, cũng khá lâu và cuối cùng cũng có người động lòng:
- Thầy Hạnh mới tu, không lẽ trời phật lại độ mạng. Nếu như chuyện này có thật thì chắc tôi cạo đầu đi tu luôn quá…
Mấy người thanh niên đứng ở gần chấp nhận lời van xin của ni cô Ngọc và nói như vậy. Ai đó đi báo cho những người ở chính quyền xã và ở đâu lại có một tay nhà báo trực chiến tại hiện trường. Mấy người hồi trước tự nhận mình là người chôn thầy Hạnh, giờ là người muốn đem thầy lên:
- Để tụi tôi, tôi biết ổng nằm như thế nào? Ai đào vào làm trúng ổng thì sao?
Mấy tay đó hì hục đào, xung quanh hồi họp với nhiều nỗi ngờ vực khác nhau. Mấy đứa nhỏ ở đâu cũng lại đó bịt lỗ mũi, đứng xem. Ni cô Ngọc thì hoàn toàn im lặng, cô thầm niệm phật mong trời phật cứu giúp thầy Hạnh trở lại cõi trần.
Khi mọi người bới lớp đất phủ trên quan tài, người ta quả tình không nghe mùi hôi thối nào. Mấy bà cô liền râm ran đọc kinh, mấy sư thầy ngạc nhiên chờ xem phật cho điều gì….Nắp hòm mở ra, thầy Hạnh nằm thư thái bên trong: nước da tái nhợt và gương mặt vẫn lặng lẽ.
  Gần một giờ đồng hồ sau vẫn không có gì biến đổi, lúc ấy người ta không biết có nên tin lời ni cô Ngọc không. Nhưng một y tá ở đâu đến, đem theo một cái ống nghe. Anh ta bảo là tim của thầy Hạnh còn đập nhẹ:
- Đúng là thầy còn sống, mọi người hãy đem thầy lên và hơ nóng dần…
  Mọi người đều tuân theo và im lặng một cách đáng nể phục, chỉ thầm đọc kinh niệm phật. Dần dà, thân xác của thầy nghe ấm hơn và tim đã đập rõ hơn, nhưng thầy chỉ sống đời sống thực vật.