V́ một lư do mà tôi không biết rơ, sáu người kỵ mă này có thói quen ngồi trên
lưng ngựa sắp thành hàng giờ day lưng vào tường của một lẫm lúa, và phóng ngựa
chạy theo khi thấy cha tôi vừa xuất hiện. Tôi nhận thấy rằng nếu tôi nghiêng
mình ra ngoài cửa sổ của lẫm lúa, thì một trong những người kỵ mă lọt vào tầm
tay của tôi. Một ngày nọ, nhân lúc không có việc gì làm, tôi bèn rón rén đến gần
và xỏ một sợi dây gai vào cái đai da nịt lưng của y trong khi y đang kiểm điểm
đồ tư trang trước khi lên đường. Kế đó tôi cột chặt cả hai đầu dây và máng một
đầu vào một cái móc sắt ở bên trong lẫm lúa. Việc ấy hoàn toàn diễn ra trong âm
thầm không ai để ư, giữa lúc mọi người đang mắc bận rộn rối rít. Khi cha tôi vừa
xuất hiện đoàn kỵ mă phóng ngựa chạy theo, trừ ra người thứ sáu mắc phải sợi dây
nên bị té ngựa và kêu la ỏm tỏi.
Cái đai nịt lưng của y sút ra và trong
cơn náo loạn, tôi lén rút lại sợi dây gai và biến mất mà không ai hay biết. Ngày
hôm sau, tôi lấy làm khoái trá mà nói với nạn nhân sự đùa nghịch của tôi: "Thế
nào, Nê Túc, tôi tưởng chỉ có một mình tôi là cưỡi ngựa dở, c̣n anh cũng vậy
sao?"
Chương tŕnh học của chúng tôi gồm có Hán văn, chữ Tây Tạng, toán
học và khắc bản gỗ. Về việc ấn loát ở Tây Tạng, người ta thường dùng những bản
gỗ có khắc chữ, nên việc khắc bản gỗ được coi như một bộ môn rất hữu ích.
Lớp học của chúng tôi là một gian pḥng rất rộng có thể chứa độ sáu chục đứa
trẻ. Chúng tôi ngồi xếp bằng trên sàn gạch, trước một cái bàn hay một cái ghế
dài, chiều cao độ năm tấc tây và ngồi xoay lưng về phía thầy học để cho chúng
tôi không thể biết rằng thầy có nhìn mình hay không. Thầy bắt chúng tôi học một
cách rất kham khổ và không để chúng tôi nghỉ ngơi một giây phút nào.
Có
một phần trong chương tŕnh học mà tôi không bao giờ quên: đó là lập lại những
Điều Răn tôn giáo. Chúng tôi phải đọc những Điều Răn này khi vào lớp và lập lại
một lần nữa trước khi rời khỏi lớp vào giờ tan học. Đó là:
Hăy lấy ân
báo ân, lấy đức báo đức
Đừng ăn hiếp những kẻ hiền lành
Hăy siêng đọc các
kinh điển và giáo lư
Hăy giúp đỡ kẻ đồng loại
Luật pháp khắc khổ đối với
kẻ giàu sang
Để dạy họ sự thông cảm và sự công bằng
Luật pháp khoan hồng
đối với kẻ nghèo hèn để an ủi họ
Hăy trả dứt nghiệp quả nợ nần càng sớm càng
hay
Để cho chúng tôi không thể nào quên, những Điều Răn đó được viết trên
những tấm bản đóng trên bốn vách tường của lớp học.
Tuy nhiên, cuộc đời
hằng ngày của chúng tôi không phải hoàn toàn dành cho sự học và sự sống khắc
khổ. Chúng tôi cũng lao mình vào những cuộc chơi điền kinh, thể dục một cách
hăng say ngoài giờ học. Những môn thể dục này được đặt ra để tạo cho chúng tôi
một thể xác cường tráng có thể chịu đựng khí hậu vô cùng gắt gao của xứ Tây
Tạng. Ở xứ này, vào lúc giữa trưa mùa hè nhiệt độ lên rất cao và ban đêm có thể
xuống thấp dưới không độ. Vào mùa đông, thời tiết c̣n lạnh hơn thế rất nhiều.
Bắn cung, một môn thể dục rất tốt để làm nở nang bắp thịt và để tập nhắm một
cách chính xác, là bộ môn mà chúng tôi rất thích. Cung nỏ của chúng tôi dùng đều
làm bằng gỗ mun nhập cảng từ Ấn Độ; người ta chế tạo những cái ná bằng gỗ bổn
xứ. Là Phật tử chân chính, chúng tôi không bao giờ bắn các loài thú vật. Để tập
bắn cung chúng tôi dùng những cái bia di động, mà những kẻ gia nô núp ở chỗ ẩn
khuất cầm dây kéo lên hoặc hạ xuống bất thần mà không cho chúng tôi hay. Phần
nhiều những bạn hữu của tôi có thể bắn trúng đích trong khi họ săi ngựa như bay.
Về phần tôi, trái lại, tôi không thể ngồi vững trên lưng ngựa được lâu như thế!
Một trò chơi tiêu khiển khác là đi cà khêu. Chúng tôi dùng hai cây cà khêu,
giống như hai cây nạng gỗ nhưng rất dài, có bàn đạp để xỏ hai chân vào đó, và
sau khi đã ngụy trang làm những người khổng lồ, chúng tôi thường xáp chiến với
nhau trong những cuộc đấu sức dị kỳ, kẻ thua là kẻ bị té ngă trước nhất.
C̣n những môn thể dục khác nữa là nhảy sào, và đá cầu. Nhưng ở Tây Tạng nhất là
ở vùng ngoại ô thủ đô Lhassa, cuộc chơi thịnh hành nhất là môn thả diều, mà
người ta có thể gọi là môn thể dục của dân tộc. Chúng tôi chỉ có thể chơi diều
vào những mùa nhất định. Nhiều năm về trước, người ta nhận thấy rằng thả diều
trên những vùng núi cao đã gây nên những trận mưa lũ, khi đó người ta nghĩ rằng
có lẽ các vị thần làm mưa đã nổi giận, nên dân chúng chỉ được phép chơi diều vào
mùa thu, tức là mùa tạnh ráo ở Tây Tạng. Có những ngày nhất định, người ta giữ
im lặng không kêu to ở các miền núi, v́ tiếng vang của họ gây nên một sự chuyển
động quá mau của những đám mây mù ẩm thấp từ bên Ấn Độ bay qua, do đó mà có
những trận mưa lũ bất ngờ.
Ngày đầu mùa thu, một con diều đầu tiên được
phóng lên từ nóc điện Potala. Trong vài phút, những con diều khác đủ mọi hình
thức, lớn nhỏ đủ cỡ và đủ các màu sắc, liền xuất hiện trên nền trời Lhassa, trên
đó chúng nó bay lượn nhảy nhót theo chiều gió thổi mạnh.
Tôi rất say mê
cuộc chơi này và luôn luôn sắp đặt cách nào để con diều của tôi bay lên trong số
những con đầu tiên. Mọi đứa trẻ con đều tự tay chúng nó chế tạo những con diều
của mình, thường là với một cái sườn bằng tre được bao bọc ở phía ngoài bằng một
thứ hàng tơ rất đẹp. Chúng tôi làm diều bằng những vật liệu thứ tốt hảo hạng v́
danh dự của gia đ́nh cũng có liên hệ trong cuộc chơi này. Cái sườn bằng gỗ giống
như cái hộp được chế tạo xong, chúng tôi mới gắn vào đó cái đầu, hai cánh và cái
đuôi một con rồng có một hình dáng dữ tợn.
Cuộc tranh đấu bằng diều diễn
ra một cách vô cùng sôi nổi trong khi đó, chúng tôi cố gắng hạ những con diều
của các địch thủ. Để thực hiện điều đó, chúng tôi gắn những miểng chai trên diều
của chúng tôi và ngâm sợi dây diều trong một thứ keo trộn với bột thủy tinh
nghiền nát; sau đó, chúng tôi chỉ cần phóng diều lên để cắt đứt sợi dây của các
địch thủ và bắt lấy con diều của họ.
Đôi khi, lúc trời tối chúng tôi lén
thả diều lên trời sau khi đã cột chặt những cái đèn nhỏ thắp bằng bơ vào bên
trong cái sườn gỗ và ở chỗ đầu rồng. Đôi mắt rồng liền phóng ra những tia lửa đỏ
và mình rồng lóng lánh muôn màu nghìn sắc liền nổi bật trên không trung giữa nền
trời u ám của đêm khuya. Chúng tôi đặc biệt thích cuộc chơi này khi có những
đoàn thương buôn lớn chở hàng trên lưng những con Yak từ vùng Lhodzong đến thủ
đô Lhassa. Với tuổi ngây thơ chúng tôi nghĩ rằng người thương buôn "Dốt nát" ở
các vùng quê hẻo lánh chắc chưa bao giờ nghe nói đến những phát minh diễm ảo tân
kỳ như những con diều của chúng tôi. Vậy nên chúng tôi quyết định gây cho họ một
cơn sợ sệt kinh hoàng một phen nên thân.
Một trong những phát minh khác
nữa của chúng tôi là gắn trong mình con diều ba loại vỏ ốc khác nhau, và đặt
cách nào cho gió thổi vào làm các vỏ ốc phát ra một tiếng hú kinh hồn. Khi thả
diều lên trời, con rồng lửa uốn khúc muôn màu phát ra những tiếng rú rùng rợn
trong đêm khuya, và chúng tôi hy vọng rằng nó sẽ gây cho các tay thương buôn đến
từ các tỉnh lẻ xa xôi một cơn sợ sệt mà họ sẽ nhớ đến suốt đời không quên.
Tây Tạng không phải là xứ có thể dung nạp những người có thể chất yếu đuối. Thủ
đô Lhassa ở vào một vùng cao nguyên bốn ngàn thước cao hơn mặt biển, có một thời
tiết rất chênh lệch giữa cực nóng và cực lạnh. Những vùng cao hơn lại có một khí
hậu gắt gao hơn nữa. Những người có thể chất yếu đuối có thể làm liên lụy đến sự
sống của kẻ khác. Chính v́ bởi lẽ đó, chứ không phải do sự tàn ác, mà sự giáo
dục thiếu nhi thật là vô cùng khắc khổ như đã kể trên.
Ở những vùng sơn
cước, người ta đem ngâm những đứa trẻ sơ sinh dưới suối nước lạnh và xem chúng
có đủ sức chịu đựng dẻo dai hay không, để có quyền sống như mọi người. Tôi
thường thấy những người đi diễn hành đến một ngọn suối, ở một vùng núi non chiều
cao trên sáu ngàn thước. Đến bờ suối, đoàn người dừng lại, một bà lăo bồng đứa
trẻ sơ sinh trên tay, rồi cả gia đ́nh gồm cha, mẹ và thân quyến đứa trẻ ngồi vây
chung quanh bà. Khi người ta lột hết áo quần đứa trẻ, bà lăo bèn ngâm thân mình
đứa bé sơ sinh dưới nước suối, chỉ c̣n thấy cái đầu nhô lên khỏi mặt nước. Dưới
nước suối lạnh buốt, thân mình đứa trẻ trở nên đỏ au, rồi xanh giờn, những tiếng
kêu của nó đã im bặt, nó không c̣n kêu la phản đối nữa. Nó có vẻ chết lịm, nhưng
bà lăo đã từng kinh nghiệm nhiều về việc này bèn rút nó lên khỏi mặt nước, lau
chùi khô ráo và mặc quần áo lại cho đứa bé. Nó sống lại chăng? Đó là các thần
linh đã quyết định như thế. Nếu nó chết, thì đó lại càng hay v́ nó khỏi phải
chịu những sự khổ đau về sau này của cuộc đời trần thế! Người ta không thể làm
gì khác hơn dưới một khí hậu gắt gao như ở Tây Tạng. Không nên có những kẻ bịnh
hoạn, yếu đuối ở một xứ mà mọi phương tiện cứu trợ y tế đều thiếu thốn: Thà để
vài đứa bé sơ sinh chết c̣n hay hơn.
Khi anh tôi qua đời, thì tôi cần
phải xúc tiến việc một cách ráo riết hơn. Thật vậy, vào năm lên bảy tuổi, tôi đã
phải bắt đầu chuẩn bị tương lai. Tôi sẽ đi theo con đường nào và chọn lựa nghành
hoạt động nào? Điều đó sẽ do các nhà chiêm tinh quyết định. Ở Tây Tạng, bất cứ
việc gì lớn nhỏ, từ việc mua một con Yak đến việc chọn một nghề nghiệp, đều do
sự quyết đoán của các nhà chiêm tinh. Trước ngày sinh nhật năm tôi lên bảy, mẹ
tôi mở một cuộc tiếp tân khổng lồ, trong dịp đó những quan khách gồm các nhà quư
tộc và các chức viên cao cấp trong chánh phủ được mời tham dự để nghe những lời
tiên tri của các nhà chiêm tinh.
Mẹ tôi là một mệnh phụ đảm đang, với một
vóc vạc phương phi,
một gương mặt tròn và tóc đen huyền. Những phụ nữ Tây
Tạng bới đầu theo một kiểu rất mỹ thuật và cài trên mái tóc một thứ lược bằng
gỗ. Những lược gỗ này thường sơn mài màu đỏ thắm, có cẩn những hột đá quí, cẩm
thạch hoặc san hô, là những mỹ phẩm làm rất khéo léo. Cài trên một đầu tóc đen
huyền có sức dầu bóng loáng, những lược sơn mài đó tạo nến một vẻ đẹp rất thanh
lịch.
Những áo dài Tây Tạng có những màu sắc rất vui mắt mà nổi bật nhất
là màu đỏ, màu lục và màu vàng. Thường ngày các bà nội trợ đeo phía trước ngực
một mảnh vải trơn với một cái vệt ngang khác màu, nhưng màu sắc được chọn cho
tiệp với nhau một cách mỹ thuật. Họ đeo những chiếc bông tai mà kích thước lớn
nhỏ tùy nơi giai cấp của họ trong xă hội. Mẹ tôi, xuất thân từ một gia đ́nh
quyền quí, đeo những chiếc bông tai dài trên muời lăm phân tây.
Người Tây
Tạng chủ trương một sự b́nh đẳng tuyệt đối giữa nam và nữ. Nhưng về vấn đề coi
sóc nội trợ gia đ́nh, mẹ tôi không phải chỉ bằng ḷng với sự b́nh đẳng. Với một
ư chí độc tài và một quyền hành tuyệt đối, mẹ tôi ngự trị trong gia đ́nh như một
nhà vua, mẹ tôi biết mẹ tôi muốn gì và khi muốn gì mẹ tôi phải được cái đó.
Trong sự nhộn nhịp xôn xao nhân dịp chuẩn bị cuộc tiếp tân, mẹ tôi mới thật sự
là có đất dụng vơ. Nào là tổ chức, phải ra lệnh, soạn thảo kế hoạch để "lên đứt"
những kẻ láng giềng. Mẹ tôi tỏ ra rất thông thạo v́ trong nhiều chuyến du hành
theo cha tôi sang Ấn Độ, Bắc Kinh và Thượng Hải, mẹ tôi đã thu thập được hằng
khối những sáng kiến nước ngoài.
Khi ngày tiếp tân đã định, những sư săi
như thư kư mới viết thiệp mời trên một loại giấy dày, làm bằng tay, chỉ được
dùng trong những dịp giao tế tối quan trọng. Mỗi thiệp mời đo độ ba mươi phân bề
ngang trên sáu mươi phân bề dài và có đóng triện son của người gia trưởng. Mẹ
tôi cũng đóng triện son riêng của mình vào đó v́ người thuộc về ḍng dơi quư
phái. Ngoài ra lại c̣n một cái triện chung cho cả gia đ́nh, tức là có tất cả ba
cái triện son đóng trên thiệp mời, làm cho nó trở nên một bản văn kiện thật là
nghiêm trọng. Nghĩ rằng tôi là nguyên nhân cho tất cả những lễ nghi trịnh trọng
đó làm cho tôi rùng mình. Tôi không biết rằng tầm quan trọng của tôi thật ra chỉ
là phụ thuộc so với một tập quán xă hội. Nếu người ta nói cho tôi biết rằng cuộc
tiếp tân long trọng này sẽ đem nhiều vinh dự cho cha mẹ tôi, thì tôi sẽ không
hiểu gì cả. Bởi vậy, tôi vẫn nơm nớp lo sợ.
Những sứ giả đem thơ được đặc
biệt thu dụng trong dịp này để đem các thiệp mời đến các quan khách. Mỗi người
đều cưỡi một con tuấn mă và cầm nơi tay một cái gậy ngắn có khe hở ở một đầu để
xếp cái thiệp mời vào đó, ở ngoài bao có in những phù hiệu chánh thức của gia
đ́nh chúng tôi.
Khi các sứ giả đã sẵn sàng lên đường thì trong sân nhà
chúng tôi diễn ra một cảnh tượng náo động khôn tả. Các gia nô kêu gọi nhau đến
khan cả cổ họng, ngựa hí vang tai, những con chó ngao đen lớn sủa ầm lên như
điên. Sau một chầu rượu bia cuối cùng, những chàng kỵ mă đặt mạnh những ly cốc
xuống bàn, trong khi đó những cánh cửa cổng nặng nề đã mở ra với những tiếng
động ầm ĩ và đoàn kỵ mă vừa phóng ngựa phi nước đại vừa hét vang tai nghe thật
rùng rợn.
Nếu họ mang những bức thơ tín viết tay thì đồng thời các sứ giả
cũng chuyển đạt luôn một thông điệp truyền khẩu, mà nội dung có thể hoàn toàn
khác hẳn. Hồi thời xưa, những tay côn đồ, cường đạo thường phục kích các sứ giả
đem thơ ở giữa đường rồi ngụy trang và dùng những bức thông điệp đó để tấn công
một ngôi nhà không pḥng thủ hay một đoàn thương buôn chẳng hạn. Từ đó, người ta
thường cố ư viết những thơ tín giả để gài bẫy và dụ bọn cướp đến những chỗ có
phục binh và tiêu diệt chúng. Thủ tục cổ truyền về việc gởi đi một lượt hai
thông điệp, một viết tay và một truyền khẩu, là một cái di sản của thời quá khứ.
Dầu cho ở thời đại này, người ta cũng có khi gởi đi hai thông điệp song đôi như
thế; trong trường hợp đó thì chỉ có thông điệp truyền khẩu mới có giá trị.
Trong nhà tôi thật là náo nhiệt tưng bừng! Những vách và trần nhà được phết lên
một lớp sơn mới, những sàn gỗ được đánh bóng trơn tru đến nỗi đi phải coi chừng
kẻo trượt ngă. Những bàn thờ được lau chùi và sơn phết lại sạch bóng. Một số lớn
những ngọn đèn mới thắp bằng bơ được đem ra sử dụng; có những ngọn đèn bằng vàng
và những ngọn đèn khác bằng bạc, nhưng cả thảy đều lau chùi bóng láng đến nỗi
không thể phân biệt được nữa. Mẹ tôi và người quản gia không ngớt chạy tới chạy
lui trong nhà, chỉ trích, sửa đổi chỗ này, dọn dẹp sắp đặt chỗ kia và ra lệnh
cho những kẻ gia nô làm việc không ngưng tay. Cha mẹ tôi có trên năm chục người
nô bộc giúp việc nhà và có một số khác được thâu dụng thêm trong việc tiếp tân.
Không một người nào là nhàn rỗi và tất cả đều làm việc một cách hăng hái. Sân
nhà cũng được quét dọn, lau chùi cho đến khi những tảng đá chiếu sáng ngời như
mới vừa đem ở động đá về. Để làm cho sân nhà có vẻ lộng lẫy, những chỗ trống ở
giữa các phiến đá cũng được tô thêm một lớp màu. Khi mọi việc đều xong xuôi, mẹ
tôi tụ tập tất cả gia nhân và ra lệnh cho họ hăy mặc đồng phục tươm tất, chỉnh
tề.
Trong nhà bếp, có sự hoạt động ráo riết ngày đêm để chuẩn bị đầy đủ
các đồ cao lương mỹ vị đăi khách. Xứ Tây Tạng là một cái tủ lạnh thiên nhiên, đồ
vật thực một khi đã nấu nướng xong, có thể để dành rất lâu mà không hư hoại, v́
thời tiết lạnh và khô ráo. Dẫu cho khi tiết trời nóng bức, bầu không khí khô ráo
cũng giữ cho các thức ăn không hư. Nhờ đó, thịt có thể để dành suốt năm mà vẫn
c̣n tươi c̣n lúa mì có thể để dành suốt nhiều thế kỷ.
V́ người Phật tử
giữ giới bất sát sinh, nên người ta chỉ ăn thịt những con thú v́ rủi ro bị té
chết trong khe núi, hoặc chết bởi các tai nạn khác.
Nhà bếp của gia đ́nh
tôi có trữ sẵn nhiều loại thịt này. Ở Tây Tạng cũng có những người làm nghề đồ
tể, bán thịt nhưng những gia đ́nh Phật tử chính thống không giao tiếp với hạng
người này, v́ họ thuộc về một giai cấp hạ tiện, "Bất khả tiếp xúc".
Mẹ
tôi quyết định tiếp tân theo một lối vừa khác thường vừa linh đ́nh trọng thể, và
đăi khách một món đặc biệt là món mứt hoa rhododendron. Vài tuần lễ trước, những
kẻ gia nô nhà tôi đã cưỡi ngựa đến tận triền núi Tuyết Sơn là nơi có những loại
hoa đẹp nhất. Ở Tây Tạng, hoa rhododendron mọc rất lớn và có rất nhiều loại
thuộc đủ các màu sắc và hương thơm. Người ta chọn những hoa chưa nở hẳn và đem
về rửa sạch một cách rất cẩn thận. Thật vậy, nếu một cái hoa hơi nát một chút là
làm cho mứt bị hỏng. Kế đó, mỗi hoa được để ngâm trong một cái bồn thủy tinh lớn
chứa đầy nước và mật ong, rồi đậy thật chặt để cho kín gió. Mỗi ngày và liên
tiếp trong nhiều tuần, bồn hoa được đem phơi nắng và xoay trở từng kỳ hạn để cho
tất cả các phần của hoa đều được hứng ánh nắng cần thiết. Hoa trong bồn nở lớn
từ từ và thấm nhuần chất nước pha mật ong. Có người thích đem phơi gió vài ngày
trước khi ăn để cho hoa được khô và hơi gịn, mà vẫn không mất hương vị hay sắc
tươi của nó. Họ cũng rắc đường lên các cánh hoa để cho nó có vẻ đượm tuyết giống
như thiên nhiên. Tất cả những phí tổn để làm món mứt hoa này làm cho cha tôi
nhăn nhó, cằn nhằn. Người nói: "Với cái giá tiền để mua những hoa đẹp này, chúng
ta có thể mua sáu con Yak mẹ cùng với một bầy Yak con." Mẹ tôi đáp với một giọng
đầy nữ tính:
- "Ông đừng ngớ ngẩn. Cuộc tiếp tân của chúng ta nhất định
phải thành công, và dầu sao chăng nữa, những phí tổn này là phần việc nội trợ
của tôi".
Món vi cá nhập cảng từ Trung Hoa là một món mỹ vị khác, mà
người ta dùng để nấu canh. Có người nói rằng món canh vi cá là món tuyệt đỉnh
của nghệ thuật làm bếp.
Riêng tôi, tôi nhận thấy món ấy rất dở, và thật
là một cực hình khi tôi bắt buộc phải ăn món vi cá. Cá mập được chở đến xứ Tây
Tạng trong một trạng thái mà người ta không c̣n nhận ra nó được nữa! Ta có thể
nói một cách ôn ḥa là nó hơi kém tươi", điều này có người lại cho rằng làm cho
vi cá càng trở nên ngon hơn.
Món măng tre non, cũng nhập cảng từ Trung
Hoa, là món ăn rất ngon: đó là món tôi thích nhất. Có nhiều cách để nấu măng,
nhưng tôi thích nhất là ăn sống với một chút muối. Tôi luôn luôn chọn những búp
măng vàng và xanh để ăn riêng, và bởi đó nhiều khúc măng để trong bếp bị ngắt
đứt đầu trước khi đem lên soong chảo. Người đầu bếp có vẻ nghi ngờ tôi, nhưng y
không có bằng cớ. Thật đáng tiếc, v́ chính y cũng thích ăn búp măng sống!
Ở Tây Tạng, nấu bếp là công việc của đàn ông; phụ nữ cũng làm bếp nhưng họ rất
vụng về và không chịu cải tiến. Đàn ông có sáng kiến hơn và chịu khó hơn, bởi đó
họ nấu ăn rất thiện nghệ. Riêng về môn quét dọn và ngồi lê đôi mách, thì phụ nữ
chiếm giải quán quân, và lẽ tất nhiên họ cũng rất giỏi về vài môn khác nữa.
Nhưng nhất định là không, nếu nói về việc làm món tsampa.