Chương 7

TÚC THÁI ÂM TÌ KINH
(Meridien de la rate) (7 huyệt x 2 )
Sự lưu hành kinh huyệt
Kinh này liên hệ với Túc Dương minh, phát ngôn từ huyệt ẩn bạch ở đầu ngón chân cái, chạy từ huyệt Đại đô, huyệt Thái Bạch, huyệt Công Tôn đến huyệt Thượng khê, vòng qua mắt cá phía trong, chạy thẳng lên huyệt Tam âm giao gần với Kinh túc khuyết âm ở phía trước. Nơi đây chạy thẳng lên các huyệt Lậu Cốc, Địa cơ, Tam lăng tuyền, qua đầu gối, chạy thẳng lên huyệt Huyết Hải, huyết Chí môn. từ huyệt Xung Môn chạy vòng trong trong bụng lên Hoàn hcách mạc liên lạc với hai bên cuống họng, đến dưới lưỡi.
Từ Lá lách chạy ra một đường đến huyệt Phủ Xá, huyệt Phú Khê, huyệt Đại Hoành, huyệt Phúc Ai, huyệt thực độc xuống huyệt Đại Bao mới dứt.
Lại xó một nhánh thần kinh ở ngoài từ trên nơi huyệt Phúc Ai, huyệt Địa Đái chạy ra do huyệt Trung Quản (nhâm mạch) vào huyệt Chiêu Trung (Nhâm mạch) dưới quả tim, giao tiếp với Thủ thiếu âm Tâm kinh.
I. HUYỆT ẨN BẠCH
Huyệt này có tên riêng là Quỷ Lủi, Qui nhân, Huyệt Túc thái âm tì kinh thuộc mộc.
Phương pháp tìm huyệt:
Bên trong ngón chân cái, cách móng chân một phân là vị trí của huyệt.
Phương pháp châm cứu:
Châm sâu 1 phân. Đốt 3 liều.
Chủ trị:
Bệnh lãng trí, ruột viêm cấp tính, chân lạnh. Kinh nguyệt quá nhiều, tử cung co rút, bụng lạnh, trẻ nít làm kinh.
Tham khảo các sách:
Sách Ngoại Đoài và Thiên Kim nói: Con  trai tinh hoàn vổ thục vô, hay bịnh điên thì đốt phía trong ngón cái cách một tấc, tùy theo người lớn hay nhỏ, nếu người lớn đốt cả hai bên rất hiệu nghiệm..
Sách Bảo Mạng dạy: máu lổ mũi chảy ra chẳng ngừng, đại tiểu tiện ra máu, chứng băng huyết nên châm huyệt Ẩn Bạch rất hay.
Tạp chí châm cứu dạy: Bịnh ỉa mửa, mồ hôi nhỏ giọt, khát nước, tay chân giật, chân lạnh, nhức đầu gối, bịnh chứng hiểm nghèo, đốt hai huyệt Ẩn bạch đến lúc hết ỉa mửa mới thôi.
Sách châm cứu Tác dụng, ông Thái phú Hùng (Nhật): Huyệt Ẩn bạch châm với huyệt Công Tôn trị ăn không tiêu, sôi bụng hoặc sình bụng rất hay.
Sách Hải Đặc Thị Đái nói: Dùng trị bịnh cổ tử cung và Nhiếp hộ tuyến.
Tâm soạn Châm Cứu Y học, ông Tiểu Nhản Điền lang nói: Huyệt Ẩn Bạch châm với huyệt Lệ Đoài, huyệt Thái Khê, huyệt Thừa sơn trị chân bị vọp bẻ.
Sách La chirurgie de la douleur của Serishe nói: huyệt Ẩn bạch và Tam âm giao cũng có thể trị bịnh Bạch Đái.
Nhận xét chúng:
Huyệt ẩn bạch trị tiểu tiện không thông, trẻ mít ăn chậm tiêu, ban đêm hay khóc, châm rất công hiệu. Sự tiêu hoá của bao tử là nhờ dương khí vận chuyển, nếu dưỡng khí không mạnh thì bụng đau và hay sinh chứng tiêu chảy, mỏi mệt, hơi thở ngắn. Có thể sanh chứng băng huyết và Bạch đái.
Huyệt Ẩn bạch là cội rể kinh Thái Âm, bổ huyệt này làm cho khí vượng và đưa hơi lên trên khiến cho tế bào bao tử sống động.
2. HUYỆT CÔNG TÔN
Thuộc Thái âm Tỳ kinh có đường riêng chạy qua Túc dương minh Vị Kinh.
Phương pháp tìm huyệt:
Tại phía trong lưng bàn chân có một cục xương lồi lên, lấy tay nhận xuống có cảm giác đau là vị trí của huyệt. Phía trên có huyệt Trung Phong sau có huyệt Chiếu hải.
Phương pháp châm cứu:
Châm từ 5 đến 8 phân, trước khi châm bảo người bịnh ngồi ngay 2 chân khép lại.
Đốt 20 liều.
Chủ trị:
Dưới bụng bị co rút. Kinh Phong. Trong ruột đau. Điên cuồng. Ruột ra máu. Mặt sưng. Bụng nóng. Không muốn ăn. Ụa mửa.
Phương pháp phối hợp:
Châm với huyệt Nội quan trị đau bụng.
Tham khảo các sách:
- Phú Tiêu U nói: Bao tử lạnh, lá lách đau, tả huyệt Công Tôn thì hết.
- Phú Thiên Kim dạy: Huyệt Công Tôn chủ trị ruột bị trướng, ăn không tiêu và sốt ruột.
- Sách Phản xạ Phát hạn của ông Cao Mộc Liên Thái Lang; Huyệt công tôn trị tử cung và bọng đái bị tổn thương.
Sách Bulletin de la socíete d’acupuncture nói: Huyệt Công Tôn châm với huyệt Thiên Xu trị ăn không tiêu, đau chằng bụng dưới. 
Nhận xét chung:
Huyệt Công Tôn thuộc Túc Thái Âm tỳ mạch nó liên quan với bao tử, nhơn đó những bịnh về bao tử, lá lách hông, bụng, thì huyệt nầy có tác dụng phát huy. Châm mạnh vào thì bịnh trạng được bình phục như thường. Những chứng bịnh thuộc về bao tử châm huyệt Công Tôn có ảnh hưởng rất tốt.
3. HUYỆT THƯƠNG KHEO
Thuộc Túc Thái Âm tỳ mạch về Kim huyệt
Phương pháp tìm huyệt:
Nơi mắt cá về phía trước có một lằn ngang, một bên huyệt trúng phong sau có huyệt Chiếu Hải, huyệt Thương Kheo nằm ở giữa.
Phương pháp châm cứu:
Châm sâu 3 phân. Đốt 3 liều.
Chủ trị:
Đại tiện bí, ăn không tiêu, ruột sôi. Thần kinh hai chân đau. Con nít tê và co rút. Ỉa mửa. Trĩ. Bụng đau. Các lóng xương chân nhức.
Phương pháp phối hợp:
Phối hợp với huyệt Kheo khư, hay huyệt Giải khê trị 2 chân teo và nhức.
Tham khảo các sách:
Phú Bá chứng nói: chuyện trị trĩ chảy mủ rất hay.
Sách Đại hành nói: Đàn bà không con, trẻ nhỏ làm kinh phong nên châm huyệt này.
Sách Hải Đặc Thị Đái nói: huyệt này dùng trị thận, ống tiểu tiện, tử cung đau.
Sách nghiên cứu sinh lý học của ông Câu Tỉnh Nhất Hùng nói: huyệt này trị tử cung lạnh, con nít hay giật mình.
Sách Théorie et pratique de l’acupuncture của Bác sĩ J.Lavier nói: châm với huyệt Phong thị, huyệt Âm thị trị bịnh tê bại. 
Nhận xét chung:
Huyệt Thương Kheo thuộc Tỳ kinh có thể trị các chứng bịnh thuộc bao tử, nhân đó những người bị thấp khí làm bụng đầy hơi và đau. Hơi thấp chạy vào cơ thể làm cho uể oải nặng nề sanh ra những trạng thái nóng hông, đau bụng da vàng châm huyệt Thương Kheo rất tốt.
4. HUYỆT TAM ÂM GIAO
Huyệt này có tên riêng là Thừa mạng, Túc Thái Âm Can Kinh, Túc Thiếu âm thận kinh 3 đường kinh mạch đều nhóm họp nơi đây.
Phương pháp tìm huyệt:
Lấy 3 ngón tay chận lên xương mắt cá, nơi mắt cá đi lên 3 tấc, đối diện phía ngoài là huyệt Huyền chung, bên trong là vị trí của huyệt.
Phương pháp châm cứu:
Châm sâu 5 phân đến 8 phân. Đốt 7 liều
Chủ trị:
Bệnh sinh dục đàn ông và đàn bà.
- Trẻ nhỏ tiểu xón.
- Ruột sôi.
Dưới rún đau.
Phương pháp phối hợp:
Đốt với huyệt Trung cực, Huyệt Huyết Hải làm điều kinh.
Đốt với huyệt Khí hải trị bịnh Di tinh, bạch đái.
Đốt với huyệt Tam lý, huyệt Dương Lăng tuyền, huyệt Tuyệt cốt trị chân đau, chân teo, đầu gối sưng, đầu ngón tay tê và nhức mỏi.
Đốt với huyệt Thừa sơn trị hông đầy.
Tham khảo các sách:
Nếu dùng phương pháp châm cứu mà ghẻ chốc không hết, đốt huyệt này 30 liều bịnh không trở lại.
Cẩm nang nhãn khoa nói: Vành mắt phía trên thòng xuống nếu bịnh còn nhẹ thì đốt huyệt Tam âm giao.
Sách nhà Tống nói: ông Từ văn Bá thấy sản phụ sanh nguy hiểm, xem kỹ lại thai chết trong bụng. Ông châm huyệt Tam âm giao, tả 2 huyệt Thái xung, thai liền ra được.
Sách Đồng Nhơn nói: Tả huyệt Tam âm giao, bổ huyệt Hiệp cốc làm thai ra.
Phương trửu hậu nói: huyệt này trị thời khí.
Quyển châm cứu Y học Giang nghĩa, của ông Bổn Cống (Nhựt) nói: huyệt Tam âm giao trị chân yếu đi không được, nây bụng đau, con nít tiểu xón.
Sách Précis de la vraie acupuncture Chinoise của Soulier de Morant nói: Huyệt Tam gâm giáo phối hợp Ủy trung trị hết chứng nhức lưng.
Nhận xét chung:
Đốt huyệt Dương Lăng tuyền làm hết bạch đái và dứt kinh nguyệt, cũng như đốt huyệt Tam âm giao làm sanh bạch đái và có kinh nhiều. Nếu bịnh thuộc Tam dương Kinh nên dùng huyệt Tam âm giao. bịnh ở Tam âm kinh nên dùng huyệt Tam dương lạc.
Sách nội kinh nói: Châm gia có kỹ thuật theo âm kinh mà dẫn dương, theo dương dẫn âm rất có công hiệu.
Đốt Tam âm giao trị da đầu mọc mụt, mọc ghẻ, vì thế mà biết Tam âm giao bài tiết máu ứ. Huyệt này có thể điều kinh nhưng cần phải châm thêm huyệt Trung cực. Tam âm chao chủ trị các chứng kích thích trên não làm cho mạch lạc được thăng bằng. Vì nó là nơi giao hợp 3 kinh: lá lách, gan, thận nên mới trị được các chứng nói trên.
Năm 1950 Hội Y học châm cứu ở Ba lê có ra tờ báo nói: Châm huyệt Tam âm giao để kim lại 1 giờ thì có 3 đường bạch tuyến dài độ 35  đến 50ly từ chỗ châm chạy khắp nới. Đây là trạng thái của kinh thận, gan, lá lách vận chuyển mà mảy may không sai chạy. Đó là chứng minh cụ thể không phải ức đoán vậy.
Tạp chí Y học ở Mỹ nói về khoa châm cứu cho rằng huyệt Tam âm giao trị mất ngủ, người mất sức nhiều và hay đi tiểu đêm trị rất công hiệu. Cũng thường trị chứng bịnh tay co rút, lát (hắc lào) long ben, ghẻ chóc. Đàn bà có thai nếu châm đốt huyệt Tam âm giao có phản ứng làm cho hư thai, vì thế mà từ xưa đến nay những người có thai không nên châm đốt huyệt này.
5. HUYỆT ÂM LĂNG TUYỀN
Túc Thái Âm tỳ mạch hợp với Hỏa huyệt.
Phương pháp tìm huyệt:
Ngay chơn ra từ phía trong đầu gối chỗ sâu ngang với huyệt Dương lăng tuyền là vị trí của huyệt.
Phương pháp châm cứu:
Châm sâu 5 phân,cấm đốt, có thể dùng phương pháp xâm.
Chủ trị:
Đau bụng nơi cuống rún, âm đạo viêm, tiểu xón không ngừng, tiểu không thông, Bộ sinh dục đau nhức, ỉa mửa.
Phương pháp phối hợp.
Phối hợp với Dương Lăng tuyền trị chân đau.
Phối hợp với huyệt Thủy Phân trị dưới rún sưng.
Phối hợp huyệt Túc Tam Lý, huyệt Khí hải, huyệt thiên xu trị tiểu tiện không thông.
Tham khảo các sách:
Bí quyết của Thiên Tinh nói rằng: nếu ruột non và rún đau thì trước châm huyệt Âm Lăng sau châm huyệt Dũng Tuyền.
Phú Tịch Hoằng nói: Huyệt Âm lăng Tuyền trị bụng đầy hay đau, châm với huyệt Thừa sơn làm cho ăn biết ngon.
Hải đặc thị Đái nói: dùng trị tử cung, thân, niếu quản đau.
Sách Luân viên Trí Tề (Nhựt) nói: huyệt Âm Lăng tuyền trị bụng và hoành cách mạc nóng hay trong ruột có cục nổi lên.
Sách l’acupuncture Chinoise của Ch.Flandin nói: huyệt Âm lăng tuyền trị bọng đái, tử cung nhức sưng, thận suy.
g) Nhận xét chung:
Huyệt Âm lăng tuyền Tỳ kinh thuộc thủy huyệt cùng với thận thủy và bàng quang có sự liên hệ mật thiết nên có thể làm cho lá lách bớt nóng bằng cách bài tiết nước ra ngoài, dương khí được thông, thấp khí được bớt có công dụng làm bớt đau và lợi tiểu.
Phối hợp với huyệt Túc tam Lý trị đi tiểu không thông. Sau khi lấy kim ra thì đi tiểu được nhiều.
6. HUYỆT KHÍ HẢI
Huyệt này có tên riêng là Bá Trùng Sào, từ Thái âm tỳ mạch phát ra.
Phương pháp tìm huyệt:
Trên xương đầu gối, phía trong hai tấc, ngồi ngay thòng chân xuống. Châm gia lấy tay mặt để lên đầu gối bên trái người bịnh, ngón cái đè mạnh xuống có cảm giác đau là vị trí của huyệt.
Phương pháp châm cứu:
Châm sâu 5 phân đến 1 tấc, hoặc đốt 3 liều.
Chủ trị:
Màng bụng viêm, bụng đau, kinh huyệt không đều tử cung ra máu, màng tử cung viêm, cao hoàn viêm, hai đầu gối bị phong thấp sanh ghẻ và ngứa.
Phương pháp phối hợp:
Hiệp với huyệt Địa cơ trị kinh trồi sụt.
Hiệp với huyệt Xung môn trị trong bụng có cục.
Hiệp với huyệt Khí Hải trị uất hơi, tiểu ra máu hay bạch đái.
Tham khảo các sách:
Sách Đồ dực nói: huyệt Huyết hải trị thận nhức, hai ống chân bị thấp khí sinh ghẻ, ngứa khó chịu.
Sách Đại Thành nói: trị hai chân sanh ghẻ.
Tạp chí Châm cứu nói hai bên đùi bị ghẻ độc sưng có mũ, đau ngứa chẳng ngớt lên đến Cao hoàn vẫn còn đau, ngày đêm rên la. Châm huyệt Huyết hải, Huyệt Hạ Cự hư, chảy nước vàng liền hết. Hải Đặc Thị Đái nói: dùng trị tử cung, thận, niếu quản bị bịnh.
Sách Nghiên cứu thực nghiệm của Trường Môn Cốc trượng nói: huyệt này hợp với huyệt Khí hải trị sạn ở thận.
Quyển Traité de l’acupuncture của Bác sĩ Royer de la Fuýe nói: Huyệt Huyết Hải trị bịnh Tinh hoàn sưng hay tử cung ra máu.
g) Nhận xét chung:
Huyệt huyết hải làm Chủ huyệt, tri các chứng bịnh thuộc về huyết, có công năng lọc máu làm hơi thấp bớt đi, vì thế các chứng ghẻ mụt đều nhẹ. Huyệt Huyết Hải và huyệt Khí Hải có công năng làm chứng bịnh đầy hơi, trước ở ruột được thuyên giảm.
7. HUYỆT THỰC ĐỘC:
Huyệt này có tên riêng là Mạng quang, thuộc Túc Thái Âm tỳ Kinh mạch khí đi ra.
phương pháp tìm huyệt.
Nằm ngửa ngay tay ra, từ huyệt nhủ bàn, ra hai tấc, dưới một tấc 6 phần ngay xương sườn thứ 6 thẳng tay lên lấy huyệt. Đối với huyệt Trung Uyển thành hình tam giác.
Phương pháp châm cứu:
Châm sâu 3 đến 4 phân. Đốt từ 3 đến 100 liều.
Chủ trị:
Phổi viêm, màng hông viêm. Thần kinh ở hông đau, gan đau phổi sung huyết.
Tham khảo các sách:
Sách châm cứu nói:trị ho nhiều, hông đau.
Sách Ngoại đài nói: Huyệt nầy chủ trị hông đau hay sưng, trong ngực có tiếng kêu ồ ồ, thỉnh thoảng nghe có tiếng động như nước chảy.
Hải Đặc Thị Đái nói: dùng trị bịnh phổi, ống thực quản, hạch sửa.
Sách Trị liệu Phương diện của ông Độ biên Tam Lang nói: Huyệt Thực Độc có công năng trị cuống họng sưng và vú sưng.
Quyển Théorie et pratique de l’acupuncture của Bác sĩ J.Lavier nói: Huyệt này trị bịnh uất hơi, làm khó thở.
Nhận xét chung:
Đàn bà sau khi sanh hay sình bụng, mình sưng, nên đốt nhiều liều. Chứng bụng trướng hay sưng dùng tay nhận vào thấy móp hoặc bụng đầy hơi nằm không được, tiểu không thông vì tì khí kém. Vì thế cần phải đốt nhiều liều huyệt nầy để làm cho tì khí mạnh lên, đốt thêm huyệt Quan nguyên nhiều liều để cho thận thủy, thì chứng thủy thũng được lành.
Huyệt này còn trị dứt chứng Kiết lỵ, tiêu ra máu, ra đàm vì tì khí kém làm người gầy ốm bằng cách đốt huyệt Quan Nguyên, Mạng quan. 
Chamcuu04.JPG