Dịch giả: Liêu quốc Nhĩ
Chương 11

Mục sư kể đến đây ngừng lại, Ai Đan nôn nóng:
- Thế anh Hùng đó có gặp lại Anô không?
- Gặp lại hay không à?
Ông mục sư hớp một hớp trà rồi tiếp:
- Theo lời của Hùng kể lại thì thế này... Lúc Hùng quay về thành phố Anô với tấm lòng son chờ đợi. Nàng đã ở miết trong ngôi nhà nhỏ của Hùng. Ngày qua ngày, sáng trông chiều đợi gia đình thân thuộc kể cả thầy hiệu trưởng có khuyên nhủ như thế nào Anô vẫn không rời nhà. Anô tin tưởng là chỉ một thời gian rồi Hùng sẽ trở lại vùng núi. Nhưng sự chờ đợi vô vọng kia kéo dài hơn một năm thì Anô biết là... Mọi thứ đã vô ích. Hùng không còn quay về với nàng nữa. Thế là nàng buồn bã, không thiết ăn uống. Khi được mọi người phát hiện thì Anô chỉ còn thở thoi thóp. Nàng mãi nhìn về phía vùng xuôi, như nhờ mọi người nhắc lại với Hùng, là mãi mãi Anô không quên chàng. Rồi Anô nhắm mắt.
Và sau đấy, thể theo sự yêu cầu của Anô dân làng đã chôn nàng ở thung lũng hồng. Ngôi mộ được xây quanh bởi cụm Bồ Công Anh dại. Lúc Hùng quay về miền núi thì Anô qua đời đã được hai năm. Ngôi nhà xưa còn đó thời gian dày phủ kín mọi thứ, nhện giăn tứ phía, tất cả vẫn nằm yên ở vị trí cũ như ngày nào. Những quyển sách lúc đi, Hùng để lại vẫn còn xếp ngay ngắn trong ngăn tủ áo. Chỉ vắng bóng người cũ. Gió thổi buồn ngoài song như than vãn, Hùng đã ngồi bên giường ôn lại những kỷ niệm ngày xưa rồi đi ra thung lũng, đốt cho Anô một nén hương sầu người con gái miền sơn cước không có xiêm y loè lẹt nhưng có tâm hồn thuần khiết, đã chết cho tình yêu. Một đóa Bồ Công Anh dại nhưng cao quý mà chẳng bao giờ Hùng tìm lại được trên cõi đời ô trọc này. Anô vô học, nhưng Anô đã yêu và chết một cách không chọn lựa so sánh.
Anô cao đẹp hơn cả những người có học như Hùng vì sợ bị ràng buộc bởi hàng trăm định kiến của xã hội. Sau đó Hùng trở về thành phố và sống như một người mất thần. Sau khi nghe vị mục sư kể. Ai Đan đã buộc miệng:
- Một thiên tình sử tuyệt vời!
Nhưng vị mục sư già hớp một hớp trà, rồi nhìn Ai Đan nói tiếp:
- Nếu mọi sự diễn ra đúng như điều Hùng đã kể, thì đây rõ là một thiên tình sử đẹp. Nhưng mà, sau đấy nghe những người thân của Hùng kể lại, thì khác.
Ai Đan đã ngạc nhiên:
- Lại có một kết cục khác nữa ư?
- Vâng. Theo lời của người thân cậu ấy kể lại thì sự hết thần của Hùng không phải là do cái chết Anô tạo ra... Bởi vì cô ấy chưa hề chết.
- Sao vậy! Ai Đan băn khoăn.
Ông mục sư cười buồn, chậm rãi tiếp:
- Theo lời ngừơi nhà của Hùng kể lại thì thế này. Khi Hùng trở lại vùng núi thì Anô vẫn còn ở trong cái nhà tranh kia chờ... Và thế là Hùng cưới Anộ Nhưng cái sai lầm ở đây là... Sau đấy Hùng lại đưa cái cô gái ở vùng núi kia về thành phố. Kết quả là... Chỉ sau một thời gian ngắn, cái giàu sang xa hoa của phố phường, cô gái chất phác kia lại học đòi tô son trét phấn tập ăn vận thời trang, khiêu vũ. Chẳng bao lâu hoàn toàn lột xác. Không còn là cô gái của niềm sơn cước hiền lành của núi rừng ngày cũ. Cô ta biết hút thuốc, uống rượu, đánh bài rồi... Cặp kè với bạn trai... kết quả là... Hùng cũng bị mất Anộ Nghe nói... Sau đấy, Anô đã làm vợ kế cho một tay thương gia giàu có nào đấy... Và từ đó Hùng như một kẻ mất hồn.
Ai Đan ngồi im lặng nghe, câu chuyện khá rắc rối. Có những hai kết cục nhưng cái kết cục thứ nhất tuy đau đớn nhưng còn chấp nhận được. Còn cái kết thúc thứ hai sao lại vô tình quá. Một sự tàn nhẫn không chấp nhận được. Cái nào đúng và cái nào sai?
Ông mục sư hớp trà rồi lại tiếp:
- Tôi biết là cậu không chấp nhận cái kết cuộc phần hai. Nhưng sau đấy kiểm chứng thì rõ là sự thật. Con người của Hùng là con người quá lý tưởng, dễ tin nhưng cuộc đời đâu có tốt đẹp như Hùng nghĩ đâu. Đó là câu chuyện mà tôi muốn dẫn dụ cho cậu thấy. Con người cũng giống như một loài hoa. Nó chỉ phát huy hết cái đẹp, cái hay trong môi trường thích hợp của nó. Còn nếu ta mang nó sang một hoàn cảnh khác, nó sẽ phát triển một cách èo uột đi. Đôi khi còn mang đến cả cái "chết".
Ai Đan ngồi ngẫm nghĩ. Bên ngoài gió vẫn còn se se lạnh. Những ngọn gió dâng lên qua khung cửa khiến Đan rùng mình. Ông mục sư hớp một hớp trà rồi tiếp:
- Đó là chuyện một anh trí thức thành phố và một cô gái chất phác miền cao. Còn bây giờ tôi muốn mời cậu nghe chuyện thứ hai, cũng ở trong gia đình tôi.
Ông đỡ lấy quyển Album, lật mấy trang rồi chỉ vào bức ảnh một người đàn bà Tây phương nhưng lại mặc theo kiểu người Hoa. Áo sườn xám, tóc búi cao, chân mang giáy thêu. Đứng bên cạnh một tiểu đình mái công. Cảnh có vẻ chụp ở Trung Quốc. Người con gái có đôi nét giống như Janẹ Nhưng bức ảnh khá cũ.
- Cậu thấy cô gái thế nào?
- Dạ rầt giống Janẹ Nếu bức ảnh không cũ quá, thỉ con đã nghĩ đấy là Jane rồi.
- Vâng. Jane rất giống cô ấy. Mỗi lần nhìn Jane là tôi nhớ đến nó, đấy là cô em ruột của tôi. Lúc tôi đến Trung Quốc tôi đã cùng mang nó theo và nó rất yêu xứ sở ấy.
Ai Đan nôn nóng. Chàng hỏi:
- Sau đấy bà ấy ở lại Trung Quốc?
- Nếu thế thì cũng không có gì đáng nói.
Mục sư có vẻ nghĩ ngợi:
- Khi mới tới Trung Quốc Pretty đã làm giáo viên cho một trường của Giáo hội. Vâng cô ấy là Prettỵ Trong thời gian ở Trung Quốc, Pretty đã yêu một đồng nghiệp người Trung Quốc. Sau đó họ lấy nhau, dẫn nhau về nội địa Trung Quốc sống với đại gia đình. Cô em gái tôi có tình yêu nhưng không thích ứng đươc với lối sống của người Trung Quốc. Chồng cứ bận công việc luôn nên chẳng có mặt bên cạnh giúp đõ được gì. Thế là trong hoàn cảnh khổ sở vậy. Họ có với nhau một đứa con trai.
- Và hai năm sau, em gái tôi không biết lý do gì bệnh và mất ở Trung Quốc.
Ai Đan cảm động. Vị mục sư già nghẹn lời nói:
- Cậu có biết là trước đó Pretty là đứa con khoẻ mạnh nhất trong gia đình tôi không?
Ai Đan nắm lấy tay mục sư Ađam nói:
- Con đã hiểu điều bác định nói rồi - Ai Đan cuối cùng nói - Ta yêu mai là một chuyện. Nhưng mai là một loài hoa yếu đuối. Chỉ để ngắm, còn nếu muốn trồng chỉ có thể trồng trên vùng đất hẹp với cái phong thổ của nó thôi. Nếu di thực đi nơi khác, chưa hẳn hoa còn đẹp. Mà đôi lúc đấy là một hành động giết hoa...
Ông mục sư đã trầm ngâm một chút nói:
- Đôi lúc tôi cũng tin rằng, tình yêu cũng có thể là một cứu cánh. Không ai nói là có thể tự chủ được vận mệnh của chính mình. Có nhiều cái vượt ngoài sự kiểm soát của tạ Tục ngữ Anh có câu: "Đến bên đèo vực thẳm, không thể không nhảy xuống... "
- Thưa ngài mục sư - Ai Đan nói với cảm giác nặng nề - Thành ngữ của Trung Quốc chúng tôi cũng có câu: " Đến bên vực thẳm dừng chân lại". Tôi nghĩ là bây giờ là cũng chưa muộn nếu muốn dừng chân.
Mục sư Ađam không vòng vo nữa:
- Cậu Ai Đan này, tôi hỏi nhưng không ép cậu trả lời. Cậu có yêu con gái tôi không?
Ai Đan nghiêm túc gật đầu:
- Ngòai Jane ra, chắc con không yêu ai khác.
- Vậy thì... Cậu có yêu nó một cách chân tình. Chúng tôi cũng yêu cậu hãy nhận lời chúc mừng tốt đẹp của một người cha cho cậu nhé.
Mục sư Ađam đứng lên, vòng tay siết lấy Ai Đan với cái hôn lên trán. Rồi người yên lặng bỏ đi để lại Đan một mình với phòng khách trống vắng và một tâm trạng rối bời.
Đan trở về phòng, mở cửa sổ nhìn ra bờ hồ gió thổi làm lăng tăn sóng hồ. Tuyết vẫn còn phủ dầy trên lá, trên cỏ. Vườn hoa tuy được chăm sóc kỹ, nhưng vẫn còn động tuyết. Đan nhớ tới lời của mục sư với sự tích về hoa mai. Chàng biết người không có tính muốn ngăn cẳn mối tình của hai người. Những câu chuyện cũng khiến Đan suy nghĩ. Chàng nghĩ đến những khó khăn trăn trở của quê hương. Cuộc chiến sẽ kéo dài đến bao giờ mới thắng lợi? Rồi nghĩ đến cái nhỏ bé của mình với những tương lai mù mịt. Đến những người bân chiến đấu bên mình. Những người xông pha lửa trận không biết sống nay chết mai, không dám khởi thảo một kế hoạch dài lâu cho một cuộc sống mai sau. Nhưng Đan thì khác. Đan yêu gia đình mục sư Ađam yêu cả tổ quốc, trước kia, Đan không hề nghĩ đên sự xung đột mâu thuẫn này. Chàng chỉ biết yêu là yêu. Ngoài tình yêu ra không nghĩ thêm điều gì nữa. Bây giờ không thể suy nghĩ giản dị như vậy được. Vì bây giờ Đan đang có một tình yêu trinh khiết như thiên thần. Tình yêu của Janẹ Lời chúc mừng của mục sư, tất cả hy vọng và tình yêu đặt hết lên chàng... Đan không thể để cho niềm tin kia phải tan theo mây khói theo cuộc chiến. Đây không phải là một canh bạc.
Đan biết rất rõ lòng mình. Tình yêu quê hương và tổ quốc. Nước Anh không phải là tổ quốc của Đan. Cambera cũng không phải là quê hương của chàng. Sớm muộn gì rồi Đan cũng phải xa nơi đây, xa cả con người ở đây. Lúc đó... Đan sẽ làm gì? Hạnh phúc của Janẻ Đan không muốn Jane cũng héo úa như những cây mai di thực mà mục sư đã nói. Đan càng thấy bối rối khi nghĩ đến tình yêu. Giữ lúc Ai Đan phân vân suy nghĩ. Thì Jane như một cánh bướm, nhẹ nhàng đậu xuống cạnh chàng.
- Ồ. Anh thương yêu!
Đan quay lại. Jane không kịp cởi áo khoát ra, đã xà vào lòng chàng. Đan cúi xuống:
- Jane, sao mặt em lạnh cóng và má em lại đỏ như quả táo thế này?
- Anh cũng lạnh vậy? Jane nũng nịu - Sao anh không khơi lò sưởi lên.
Rồi Jane đứng dậy, khép cửa sổ, đến bên lò sưởi đốt lò. Đan xúc động nói.
- Anh đứng bên cửa sổ nhìn ra đón em. Vì anh tưởng em sẽ đi từ hướng đó về.
Lửa từ lò sưởi đã cháy cao. Jane kéo Đan đến ngồi cạnh, nàng ngước lên hỏi:
- Hỉnh như cha em nói gì với anh?
- Em biết chuyện đó ư?
- Lúc em và mẹ ra phố, em định kéo anh cùng đi, nhưng cha bảo đừng, vì cha đang chờ anh dậy nói chuyện.
Ai Đan suy nghĩ mãi vân không tìm dược cách để giài thích câu chuyện với Jane.
- Chúng tôi đã bắt đầu câu chuyện về cây mai trồng ở Tô Châu...
- Rồi sau đó?
- Cha chẳng nói gì với em cả à?
- Khi về đến nhà, em hỏi cha, cha lại bảo sang tìm anh, chắc là cha nói gì, sao em thấy anh có vẻ không vui vậy?
Ai Đan lạnh lùng, không hiểu sao phụ nữ họ lại nhạy cảm như vậy lúc nào cũng khó giấu tâm sự riêng của mình. Đan suy nghĩ một chút, rồi bình tĩnh nói:
- Hôm nay, anh vừa nói chuyện với một mục sư, chứ không phải nói chuyện với người thân.
- Cha em thích nói những chuyện nghiêm túc.
- Anh và cha em đã thảo luận nhiều về cuộc đời, về sự tồn tại của cuộc sống và mục đích thật sự đeo đuổi của con người là gì.
Jane tựa đầu lên đùi Đan. Trong khi chàng vòng tay qua lưng nàng, với cái nhìn suy nghĩ. Ánh lửa chiếu trên mặt Jane thật rạng rỡ.
- Nói những điều đó để làm gì? Mục đích tìm hiểu lý tưởng và hạnh phúc ư?
- Đó là cách nói của "người bình thường" chứ không phải của mục sư.
- Thế còn quan điểm của mục sư?
- Sự tồn tại của sự sống, không phải là để tìm hạnh phúc hay đau khổ. Mà là để hy sinh cái ta đã hoàn thành sự nghiệp cao cả. Hy sinh cái ta để đạt đến cái sống vĩnh hằng. Là một sự giải thoát tối thượng cho tâm linh.
- Cha đã nói chỉ vì những điều đó ư?
- Không cha em chỉ được ra những nguyên tắc.
Jane suy nghĩ:
- Anh có nghĩ là sự hy sinh đòi hỏi phải trả không?
- Không, chúng ta làm bất cứ điều gì cũng chỉ muốn đạt đến sự thư thả của tâm hồn, đó không phải là trả giá. Như điều mục sư đã nói: Chúng ta tin tưởng chỉ vì chúng ta muốn có một niềm tin thôi, cũng như chúng ta yêu vì muốn được yêu vậy. Chuyện đó không có gì đáng ngờ cả.
- Em tin rằng cha nói đúng.
- Anh cũng thế.
- Nhưng anh Đan này. Anh có nghĩ là không gì để ta lo âu khi... Em yêu anh không?
- Cha em cũng đã mừng cho anh chuyện đó. Jane này, em biết không, ngoài em, anh chẳng còn yêu ai.
Đan cùi xuống hôn lên mái tóc vàng, trên đôi mắt xanh lơ, trên khuôn mặt đầy hạnh phúc của Janẹ Lòng chàng miên man với trăm mối suy nghĩ lo lắng. Rồi hai mươi bốn tiếng đồng hồ sau. Đan lại đáp xe xuôi về phương Nam. Lần này đòan xe như chở nặng hơn. Vì chở thêm trái tim âu lo trăm mối của Đan và cả một tình yêu trong trắng của Jane nữa.