dịch giả: Nguyễn Hiến Lê
P I - Chương 8 & 9
Đại tá kể một chuyện

    
arjorie đã dọn trên bàn một đĩa bánh tráng bột bắp mà Sam thích lắm.  Còn ông Smith thì đặt một bình bia và nhiều ly.  Ông nói liền:
- Tôi nghĩ rằng ông làm cho tụi da đỏ thù oán chỉ vì ông cất nhà ngay ở gần làng.  Tụi nó sợ làng Titusville bành trướng ra nhiều, làm cho khu đất của chúng thu hẹp lại và như vậy nguy hiểm cho chúng.  Chính chúng tôi ở đây, cũng không được yên ổn gì.  Nhưng chúng biết sức chúng tôi nên không dám làm hung.  Nếu đủ sức thì chúng đã đuổi chúng tôi ra khỏi miền này từ lâu rồi.
Đại tá đáp:
- Nếu vậy thì tốt hơn hết là tôi giao thiệp với chúng và thẳng thắn giảng cho chúng hiểu.
Ông già cười nửa miệng một cách tinh quái:
- Một chiến sĩ già như ông phải biết rằng không thể nói tới chuyện thẳng thắn với tụi da đỏ trời đánh đó được chứ?  Chỉ có đại úy Robert Rogers dắt bộ đội từ Bắc tới Nam, truy kích quân Hurons và Pháp, mới tin rằng bọn da đỏ ngay thẳng!  Và như vậy có lẽ vì chính đại úy là một đồ ngu, ngu thượng hạng.
- Thôi, xin ông đừng vu oan đại úy Rogers nữa.  Các tiểu bang mang ơn ông ấy nhiều lắm.  Ông là một trong những người tiên khu có danh nhất.  Nghe nói tôi mới thấy lòng vô ơn của loài người đối với những vị đã hy sinh tánh mạng và hạnh phúc cho nhân loại.  Số phận tôi sau này cũng như vậy thôi.
Ông già vẫn nói thẳng:
- Ông ư?  Nếu ông tin rằng ông có quyền được các dân tộc mang ơn ông thì một là ông tự lừa dối ông, hai là ông tưởng tượng quá mạnh, như dân ở đây đã nói.  Tôi không muốn làm phật ý ông, cũng không muốn khuyên ông.  Một người vào tuổi ông phải biết việc mình là ra sao chứ, phải không ông?  Ông nhận rằng hành vi của ông có vẻ như điên khùng chứ?
- Tôi chắc ông muốn biết công việc tôi làm lắm.
- Tôi không có tánh tò mò.  Tự do mà!  Ai làm gì thì làm, muốn làm ra sao thì làm!  Xin ông hiểu rằng tôi sở dĩ nghĩ tới ông là vì con tôi theo ông mà nó cũng điên như ông rồi.  Nó còn nhỏ, chưa đủ trí khôn.  Ông hiểu tôi chứ?  Ở cái miền rừng rú này, phải biết suy xét, suy xét một cách chắc chắn nhất và sáng suốt nhất, nếu không thì khó sống được với thú dữ, tụi da đỏ hoặc tai trời ách đất.
Marjorie lại gần nghe và gật đầu mỉm cười khen phải.  Không bao giờ nàng cho sự tham vọng của người yêu là có lý hết.  Nàng không nghĩ rằng chàng thiếu tài sức đâu: vừa can đảm vừa mạnh, lại rất hùng dũng hăng hái nữa.  Nhưng làm giầu lớn lại là chuyện khác.  Nàng nghĩ cứ theo nề nếp trong nhà, tiếp tục công việc của ông cha giữ gìn và khuyếch trương di sản của các người, là khôn hơn cả.  Bấy nhiêu đủ rồi, nhiều rồi nữa.
Ông Drake cắn một miếng bánh tráng, hớp một hớp rượu cho khỏi khô cổ, rồi chống khuỷu tay lên bàn, dõng dạc nói:
- Ông lão, đầu óc người con "điên" của ông còn sáng suốt hơn hết thảy những đầu óc ở làng này hợp lại, kể cả đầu óc của ông nữa.  Tôi nghĩ rằng anh ấy có một tương lai rất sáng lạn vì anh ấy rất khôn ngoan.  Trời chứng cho lời nói của tôi.
Ông già nổi giận:
- Cha chả!  Đừng giở cái giọng đó với lão.  Phải, nó có đủ tư cách con người lắm, nhưng nó không phải là loài phượng hoàng đâu.
Đại tá cũng la lớn:
- Ông lầm rồi.  Tôi kể cho ông nghe một chuyện để làm gương tốt cho ông.  Ngày xưa, ở Ai Cập một người nổi danh biết được khoa vạn năng.  Ông ta ở giữa nơi thâm sơn cùng cốc.  Tại Bagdad, có một sinh viên trẻ tuổi muốn học khoa đó.  Một hôm chàng gói ghém quần áo rách rưới rồi lên đường kiếm nhà hiền triết.
Tới nơi, chàng thấy ông ta chỉ là một người thợ rèn, nhưng chàng cũng xin học.  Người thợ rèn bảo: "Được, cầm dây thừng này và kéo bể đi."  Chàng vâng lời, không nói một tiếng và cũng không hỏi một lời, tin rằng thế nào thầy cũng sẽ dạy học cho.  Năm năm sau chàng vẫn kéo bễ.  Một hôm chàng hỏi: "Thưa sư phụ, khi nào sư phụ dạy đạo cho con?"  Người thợ rèn đáp: "Kéo bễ đi."  Và chàng lại kéo bễ năm năm nữa.  Sau cùng, một buổi sáng người thợ rèn lại gần bảo: "Thôi, ngừng, về nhà đi.  Con đã học được cái đạo lớn nhất, rộng nhất trong đời rồi đó; con đã thấu được đạo vạn năng: là đức kiên nhẫn."
Anh Sam cũng có đủ kiên nhẫn như sinh viên đó vậy.
Ông Smith vừa ngó đại tá vừa nghe, và coi cặp mắt ông lão, cũng đoán được ông cho đại tá là điên chắc chắn.
Ông Drake tiếp:
- Phải, anh Sam đã theo tôi, mà không hỏi tôi một câu, anh đã tin tôi và chịu khó làm việc cực nhọc.  Những đức ấy, có lẽ ông đã truyền lại cho anh nhưng ông thiếu một đức mà anh ấy có.
Ông già la:
- Thiên lôi ơi!  Hồi lão còn trẻ, có lẽ lão cũng xuẩn như nó.  Có lẽ lão cũng đâm đầu liều lĩnh mạo hiểm.  Nhưng lão đã tới tuổi biết suy nghĩ, trước khi làm việc thì cũng phải biết mình làm việc gì mới được chứ.
- Ông nói có lý.
Đại tá ngồi suy nghĩ hồi lâu, rồi ông đưa mắt nhìn mọi người, nhìn ông già và nhìn Sam.
Chàng thanh niên có vẻ lúng túng vì được ông khen lúc nãy, nhất là vì ông đã so sánh chàng với thân phụ chàng.  Chàng cúi đầu, mân mê ngón tay.  Sau cùng đại tá ngó Marjorie.
 
Chương 9
Điều bí mật của Đại Tá
Đại tá hỏi nàng:
 Còn cô, cô nghĩ sao về điều ấy? Đàn bà bẩm sinh có trực giác linh cảm, chắc thấy rõ hơn đàn ông chúng tôi.
Ông già xen vô:
  Tôi chắc chắn rằng nó cũng đồng ý với tôi.
Thiếu nữ đáp một cách tinh ranh:
 Cái đó còn tùy. Nếu ông bắt anh Sam kéo dây mười năm thì khó mà anh ấy giàu được … tội nghiệp.
 Phải, tôi đâu có đủ tiền trả anh ấy mỗi ngày một đồng trong một thời gian lâu như vậy được. Tôi nghèo. Cả sản nghiệp của tôi chỉ có cái máy đó thôi.
 Nếu vậy thì anh ấy đã mất trí rồi vì anh ấy tin chắc rằng theo ông kéo dây thì sẽ giàu lớn.
Ông Drake cười nửa miệng, nói nho nhỏ:
 Tôi tưởng phải nói minh bạch cho ai nấy đều hiểu. thật ra không có một ai tưởng tượng được công việc của tôi hết.
Ông Smith lớn tiếng:
 Tôi đã nói với ông rằng tôi không tò mò muốn biết mà. Việc riêng của ông, ông làm sao thì làm mặc ông.
Ông Drake im lặng trong một phút rồi nói:
  Chiều nay nóng quá. Rượu bia này tuy ngon, nhưng có trà nóng thì thú lắm.
Marjorie ngạc nhiên nhìn ông.
 Cô pha trà cho tôi được chứ?
 Dạ được, nhưng ông phải đợi một lát. Bếp đã tắt, mà củi thì hết. Anh Sam kiếm cho em vài cành khô nhé?
Sam sắp sửa đứng dậy. Đại tá làm dấu cho anh ngồi xuống.
 Ông Smith, ông có chút dầu không?
 Ở đây, nhà nào mà không có? Suối Dầu ở ngay trước cửa mà không múc thứ thuốc trị bá chứng đó về thì uổng lắm.
 Được.
Rồi đại tá đứng dậy, bảo Marjorie kiếm một hộp thiếc cũ.
Ông đổ chút dầu vào trong hộp, đốt lên và hỏi:
 Tại sao lại phải dùng củi? Ngọn lửa này còn nóng hơn các thứ khác nữa. Cô đặt xoong lên đây và cô đã đoán được dự định của tôi rồi chứ?
Marjorie đáp nho nhỏ:
 Tôi đoánn được một chút, nhưng xin ông giảng thêm:
Đại tá dõng dạc giảng:
 Thứ dầu đó, người Pháp gọi là “pétrole”. Bà con thấy công dụng của nó chưa? Thấy nó ích lợi cho các bà nội trợ ra sao chưa? Nhất là ở châu thành công dụng của nó còn lớn hơn ở đây nhiều. Cả thế giới cần tới nó.
Ông già hỏi:
 Phải, nhưng nó nổi ở trên mặt nước, tại sao ông không múc về mà lại phải dùng cái máy ấy?
Ông Drake mỉm cười:
 Chắc ông đã nghe nói ở Âu Châu, nhất là ở nước Anh, người ta đã chế ra những máy kỳ dị chạy bằng hơi nước và ở miền Tây nước mình, mới đây, có người bắt đầu dùng thử nó rồi chứ? Phải có nhiều củi và than để đun sôi nước trong các máy ấy. Nếu bây giờ dùng dầu này hoặc hơi của dầu để đốt những nồi xúp – de thì khoa học tiến bộ biết bao nhiêu, ông thấy không?
Ông già đáp một cách cương quyết:
 Lão chẳng biết chút gì về máy móc hết mà cũng chẳng thấy nó dùng được gì cả.
 Ông không thấy sao? Ông sống ở đây như giữa bốn bức tường một nhà khám. Ông không thích xem xe lửa sao? Ông biết rằng chiếc đầu máy kỳ dị, chiếc xe lửa của Stephenson (1) đó, chạy một giờ trên 50 cây số và chở được 100 hành khách, không kể hàng hóa nữa không? Một ngày kia chúng ta sẽ có một chuyến xe lửa đi ngang Châu Mỹ, từ Đông qua Tây, mà có lẽ không mất đầy một tháng.
 Ồ, già rồi, tôi không ham du lịch nữa. Ông nghĩ sao thì nghĩ, tôi ở đây dễ chịu lắm. Một căn nhà, vài thửa ruộng, đủ rồi.
 Ông là người vị kỷ. Nhờ xe lửa mà đồ ở tỉnh chở về đây sẽ bán với một giá rẻ bằng nửa giá đắt hiện nay. Hơn nữa, bắp của ông, hết thảy những huê lợi của ông, ông có thể chở ra tỉnh bán giá cao hơn được.
Ông Smith nhún vai. Ông có vẻ thích và để ý tới xe lửa vì nó có lợi cho ông. Ông hỏi:
 Vậy ông tính cho thằng Sam làm sở xe lửa ư?
 Không – Tôi không nói đến xe lửa vì dầu xe lửa có thế giúp cho nó phát triển được. Thật ra, tôi chỉ nghĩ đến sự tiến hóa của nhân loại vậy thôi. Nhờ dầu lửa, kỹ nghệ có thể khuyếch trương lạ lùng và sẽ có nhiều sự phát minh kỳ dị.
Marjorie xen vào:
 Nhưng điều tôi không hiểu là dầu nổi ở mặt nước mà tạI sao ông lại phải đào để kiếm nó?
Đại tá lại mỉm cười:
 Cô thử tưởng tượng cả thế giới sẽ cần dùng biết bao nhiêu dầu! Dầu ở suối này đủ sao được. Vậy phải kiếm thêm nữa. Cho nên tôi phải đào đất. Tôi nghĩ thứ dầu nổi ở trên mặt suối này và trên mặt hồ Erié cũng vậy, đều do mỏ ở dưới đất cả. Nếu máy của tôi đào nhầm một mỏ đó và tới lớp dầu thì tôi chỉ  có việc múc lên.
 Vậy anh Sam đã có lý mà tôi không ngờ. Anh ấy đã may mắn gặp được ông. Dù ông có lầm đi nữa thì ý đó cũng rất mới mẻ.
Đại tá mỉm cười với nàng, còn sam thì mắc cở, đỏ mặt tía tai lên, nói với người yêu:
 Em biết nhận lỗi như vậy, đáng khen lắm.
Nàng nhũn nhặn đáp:
 Tính em thành thật.
Đại tá uống bia, mơ mộng một lúc rồi nói:
 Hết thảy các nhà phát minh hồi đầu đều bị thiên hạ cho là điên. Archimède điên! Raleigh điên! Pasteur (2) điên! Tất cả những người mà nhân loại mang ơn đều điên, điên ráo! Người ta muốn cho tôi ra sao thì cho, tôi không cần. Cô biết rằng tôi có lý. Tôi tin chắc rằng tôi không lầm. Có thứ dầu lửa đó, làm gì mà chẳng được? Nhờ nó không cồng kềnh như than và củi, biết đâu người ta sẽ chẳng chế tạo được những xe lửa đặc biệt, những xe hai ba chỗ ngồi, chạy trên đường cái nhanh như gió? Biết đâu người ta sẽ chẳng nhờ sự phát minh của tôi mà chế một máy bay được ở trên không?
Ông già nói:
 Thôi, đại tá ơi, ông đi quá lố rồi.
Ông Drake đập mạnh tay xuống bàn la:
 Tôi đi quá lố? Có ngày nào là ông không nghe thấy người ta thực hành được những điều bây giờ ai cũng cho là tự nhiên, nhưng mươi năm trước thì người ta cho là không sao làm được không? Tại sao lại không thể có những máy bay được như chim? Ông cho tôi biết một việc gì mà loài người không làm được nào?
Đại tá có thể nói hàng giờ được. Ông gặp một vấn đề ông thích nhất, đó là cái mộng vĩ đại của ông, cái mộng mà ông nghĩ tới suốt đời ông. Marjorie mỉm cười nghe ông, không có vẻ chi mỉa mai hết. Đàn bà dễ hiểu được những ý cao cả quảng đại hơn đàn ông. Họ sẵn sàng nhận những ý đó như người mẹ chiều những ý muốn kỳ khôi của con nít vậy. Nhưng Đại tá đánh thức những tình cảm cao đẹp mà nàng không ngờ rằng mình có, ông đã xé bức màn phủ mắt nàng và nàng đã thấy thế giới mênh mông hơn. Ông điên hay chỉ là một thi sĩ, ông có lý hay là chỉ mơ mộng, nàng không biết, nhưng biết rầng tâm hồn ông cao thượng và không nên cười ông.
Ông Smith nhắc lại lời của Đại tá:
 Một việc gì mà loài người làm không được ư? Thì đây, ông khôn lanh như vậy, xin ông lấy dầu ở dưới đất lên giúp tôi.
 Rồi tôi lấy lên cho ông coi.
 Tôi mong vậy. Nhưng hình như chúng tôi đã đợi lâu quá rồi.
Đại tá sắp đáp thì nghe có tiếng la.
Sam chạy ra cửa sổ, Hoggan và Kent theo sau. Hàng ngàn ngôi sao lấp lánh trên nền trời xanh như hiển. Một ánh đỏ rực nhuộm máu một phía chân trời. Tiếng la hét theo gió đưa tới, lớn hơn và rõ hơn.
Tim đập mạnh, Sam nói:
 Họ hô tấn công.
Ông Smith bình tĩnh, vừa đáp vừa đi lại phía tường, gỡ cây súng cũ móc ở đinh bằng sợi dây da.
 Chắc là tụi da đỏ.
Ông Drake để hết cả súng ở trại, bực tức la:
 Có những khí giới tốt ở đây thì loài cẩu trệ ấy sẽ trốn chạy hết ráo.
Sao vẩn ngó ra ngoài. Có vài người đi ngang qua, biểu anh:
 Tụi Da đỏ mới đốt rừng và rút lui rồi.
Ông Smith hỏi:
 Đốt rừng? Thế là nghĩa lý gì? Chúng có thủ đoạn gì đây?
Đại tá chạy ra ngoài, nhìn về phía trời đỏ rực, kêu:
 Trời ơi! Có vẻ như ở phía nông trại chúng ta.
Ông già theo ra:
 Tôi không thấy làm lạ. Tôi đã biết trước mà! Ông nên mừng rằng chưa đào gặp được lớp dầu, nếu không thì lúc này đây, cả làng Tiusville sẽ ở trong một cảnh ngộ lắm. Ông bạn ơi, thôi, đừng nói tới những phát minh của ông nữa.
Nhưng Đại tá không nghe, gọi Hoggan, Kent và Sam:
 Chạy về với tôi, cứu được vật gì thì cứu.
Trong đêm tối, cả bốn người cùng chạy. Kent, mập hơn, thỉnh thoảng vấp vào đá và rễ cây vì không thấy rõ đường. Đại tá và Sam cứ chạy thẳng về phía trước, qua được mọi trở ngại, không vấp váp.
Họ tới một chỗ trống và thấy căn nhà ván của họ bốc lửa ngùn ngụt. Thất vọng, ông ngừng chân, nắm tay lại, bức tóc la:
 Cứu cái máy! Cái máy trước hết!
Rồi họ lại chạy. cây để cất nhà là loại có dầu, cho nên cháy bừng bừng, như có ai tưới dầu vô. Đại tá và Sam cùng tới, thấy máy bị vùi dưới một đống thân cây. Rõ ràng có kẻ đập mạnh về phía nó. Nhưng có phá nổi không?
Chú thích:
1 – Người Anh (1781 – 1848) được coi là nhà phát minh ra đầu máy xe lửa.
2- Archimède là nhà bác học Hy Lạp. Ở thế kỷ thứ ba trước tây lịch. – Raleigh là nhà thám hiểm Anh ở thế kỷ XVI, tìm được nhiều miền ở Mỹ. – Pasteur là nhà bác học Pháp ở thế kỷ XIX.