Dịch giả: Lê Đức Minh
Chương 15
Vạc dầu đen

“Tạm biệt, những con cú nhỏ của ta.” Orddu nói, quay về phía căn nhà tranh. “Thật tiếc là các con không mặc cả được gì với chúng ta. Nhưng mọi việc là vậy. Hãy bay về tổ đi, và gửi lời chào thân ái của chúng ta đến cho bé Dallben nhé.”
“Xin hãy đợi!” Taran vội gọi to và bước theo sau mụ.
Eilonwy nhận ra ý định của cậu, hét lên một tiếng phản đối và túm lấy cánh tay cậu. Taran nhẹ nhàng đẩy cô sang bên. Orddu dừng lại và quay đầu nhìn cậu.
“Còn… còn một thứ nữa.” Taran hạ thấp giọng nói. Cậu căng người lên và hít một hơi thật sâu. “Chiếc trâm tôi đang cài đây, một món quà của Adaon, con trai của Taliesin.”
“Trâm à?” Orddu nói, tò mò nhìn cậu. “Một chiếc trâm cài à? Phải, cái đó nghe có vẻ hay đấy. Có lẽ đúng là thứ chúng ta muốn cũng nên. Lẽ ra con nên nhắc đến nó sớm hơn mới phải.”
Taran ngẩng đầu lên và mắt cậu gặp mắt Orddu. Trong giây lát ấy, cậu cảm thấy như họ chỉ có một mình. Cậu chầm chậm đưa tay lên cổ và cảm nhận sức mạnh của chiếc trâm cuồn cuộn trong người.
“Bà đã đùa giỡn với chúng tôi từ nãy giờ, Orddu ạ.” cậu thì thầm. “Bà đã nhìn thấy tôi đeo chiếc trâm của Adaon ngay từ khi chúng tôi đến đây. Bà đã biết rõ nó là vật gì.”
“Điều đó thì có quan trọng gì?” Orddu trả lời. “Nó vẫn là lựa chọn của con, cho dù con có muốn đem nó ra trao đổi hay không. Phải, chúng ta biết rất rõ chiếc trâm cài này. Menwy, con trai Teirgwaedd, ca sĩ hát rong đầu tiên, đã làm ra nó từ cách đây lâu lắm rồi.”
“Bà đã có thể giết chúng tôi” Taran lẩm bẩm, “và cướp lấy chiếc trâm.”
Orddu mỉm cười buồn rầu.
“Con không hiểu sao, chú gà con tội nghiệp? Cũng như chính tri thức, chân lý và tình yêu, chiếc trâm phải được trao đi một cách tự nguyện, nếu không thì quyền lực của nó sẽ bị phá vỡ. Và đúng là nó có rất nhiều quyền lực đấy. Cả điều này nữa con cũng phải hiểu. Bởi vì Menwy Ca sĩ đã phù phép cho nó bằng một câu thần thú rất mạnh, và truyền cho nó những giấc mơ, tri thức, cùng những lời tiên tri. Với một chiếc trâm như thế, một chú vịt nhỏ có thể giành được rất nhiều danh tiếng và vinh quang. Ai có thể nói trước được? Cậu ta có thể sẽ đánh bại tất cả các anh hùng trên toàn xứ Prydain này, thậm chí cả Gwydion, ông hoàng dòng họ Don nữa. Hãy suy nghĩ cho kỹ, chú vịt nhỏ của ta,” Orddu nói. “một khi con đã từ bỏ nó, nó sẽ không còn tác dụng với con nữa đâu. Con có muốn đổi nó lấy một cái vạc xấu xa mà con chỉ có ý định phá huỷ không?”
Cầm chiếc trâm cài trong tay, Taran cay đắng nhớ lại rõ ràng niềm vui khi cảm nhận mọi hình ảnh, mọi mùi hương, khi nhìn thấy từng giọt sương trên mạng nhện, khi cứu những người bạn đồng hành khỏi vụ lở đất, nhớ lại lời Gurgi ca ngợi sự uyên bác của cậu, nhớ lại ánh mắt ngưỡng mộ của Eilonwy, và nhớ lại Adaon đã tin tưởng giao chiếc trâm cho cậu ra sao. Một lần nữa, cậu lại cảm nhận niềm tự hào khi có được sức mạnh và tri thức. Dưới chân cậu, chiếc vạc xấu xí như đang cười chế nhạo. Taran gật đầu, gần như không nói nên lời.
“Được.” cậu nặng nề đáp. “Đây sẽ là vật trao đổi của tôi.”
Cậu từ từ tháo chiếc trâm trên cổ ra. Khi cậu thả miếng sắt vào tay Orddu, như thể một tia sáng run rẩy, loé lên rồi tắt ngấm trong tim cậu, và cậu suýt nữa khóc oà lên vì đau đớn tột cùng.
“Xong, chú gà con của ta!” Orddu reo lên. “Chiếc trâm cài đổi lấy Vạc Tái Sinh!”
Quanh cậu, những người bạn đồng hành đứng lặng lẽ và ủ rũ. Hai tay Taran siết chặt lại.
“Chiếc vạc là của chúng tôi,” cậu nói, nhìn thẳng vào mặt Orddu, “có đúng vậy không? Nó là của chúng tôi và chúng tôi có thể làm gì với nó cũng được?”
“Sao? Tất nhiên là thế rồi, con chim nhỏ thân yêu.” Orddu nói. “Chúng ta không bao giờ bội ước trong một cuộc đổi chác cả. Nó hoàn toàn thuộc về các con, không còn nghi ngờ gì nữa.”
“Trong chuồng ngựa của các bà,” Taran nói, “tôi nhìn thấy có búa và thanh sắt. Các bà cho chúng tôi dùng chúng được không? Hay là,” cậu chua chát nói thêm, “chúng tôi lại phải trả một cái giá nữa?”
“Các con cứ tự nhiên dùng chúng.” Orddu đáp. “Chúng ta sẽ tính nó vào một phần của cuộc trao đổi, vì con đúng là một chú gà nhép táo gan, chúng ta phải thừa nhận như vậy.”
Taran dẫn nhóm bạn đến chuồng ngạư và dừng lại ở đó.
“Tôi hiểu các bạn đã cố làm gì.” cậu khẽ nói, lần lượt nắm tay từng người. “Mỗi người trong các bạn đều sẵn sàng từ bỏ thứ mà mình yêu quý nhất vì tôi. Tôi rất mừng là Orddu đã không lấy cây đàn hạc của anh, Fflewddur ạ.” cậu nói. “Tôi biết anh sẽ đau khổ ra sao nếu không có âm nhạc, thậm chí còn hơn cả tôi khi không có chiếc trâm. Và Gurgi, lẽ ra cậu không bao giờ nên tìm cách hy sinh chiếc túi thức ăn của mình chỉ vì tôi. Và Eilonwy, chiếc nhẫn và quả cầu của cô quá hữu ích và quá đẹp, không thể đem ra đổi lấy một cái vạc xấu xí được. Tất cả những thứ này,” Taran nói, “giờ còn đáng quý gấp đôi. Và các bạn cũng vậy, đúng là những người bạn đồng hành chân chính tốt nhất trên đời.” Cậu vồ lấy một chiếc búa đang dựa vào tường. “Đi thôi, chúng ta vẫn còn một việc phải làm nốt cho xong.”
Trang bị bằng những gậy sắt và búa tạ, nhóm bạn vội vã quay trở lại căn nhà tranh và trong khi ba mụ phù thuỷ tò mò ngắm nhìn, Taran giơ cây búa lên. Vận hết sức mình, cậu giáng nó xuống chiếc vạc. Chiếc búa nảy bật lên. Cái vạc rung lên như tiếng chuông sâu thẳm báo trước ngày tận thế, nhưng không hề suy chuyển. Với một tiếng thét tức giận, Taran lại giáng búa xuống. Chàng ca sĩ và Eilonwy cũng điên cuồng đập tới tấp, trong khi Gurgi dùng một thanh sắt nện lấy nện để lên chiếc vạc. Bất chấp cố gắng của họ, chiếc vạc vẫn không bị chút tổn hại nào. Ướt đẫm mồ hôi và kiệt sức, Taran tựa vào chiếc búa của mình và lau khuôn mặt đang ròng ròng mồ hôi.
“Lẽ ra các con phải cho chúng ta biết trước ý định của các con chứ, đàn ngỗng con của ta.” Orddu nói. “Không thể làm vậy với chiếc Vạc Tái Sinh đâu, các con biết đấy.”
“Cái vạc giờ là của chúng tôi.” Eilonwy vặc lại. “Taran đã phải trả một cái giá quá đắt rồi. Nếu chúng tôi có muốn đập nát nó thì cũng là chuyện riêng của chúng tôi!”
“Tất nhiên rồi,” Orddu đáp, “và các con cứ việc gõ đập nó từ giờ cho đến khi chim xây tổ lại cũng được. Nhưng, những con ngỗng nhỏ ngốc nghếch của ta ơi, các con sẽ không bao giờ phá huỷ được nó theo cách ấy đâu. Trời ạ, không, các con làm sai hết rồi!”
Gurgi, đang định bò vào lòng chiếc vạc và tấn công nó từ trong ra, dừng lại để lắng nghe khi Orddu tiếp tục nói.
“Vì chiếc vạc là của các con rồi,” mụ nói, “các con có quyền biết làm cách nào để phá huỷ được nó. Chỉ có một cách thôi, rất đơn giản và gọn ghẽ.”
“Cho chúng tôi biết đi!” Taran kêu lên. “Để chúng tôi có thể tống khứ cái vật xấu xa này!”
“Một người sống phải trèo vào trong đó.” Orddu nói. “Khi đó, chiếc vạc sẽ tự tan vỡ. Nhưng” mụ nói thêm, “chỉ có một điều hơi khó chịu thôi, đó là con vịt nhỏ khốn khổ nào trèo vào trong chiếc vạc sẽ không bao giờ còn có thể sống sót để trèo ra được nữa.”
Với một tiếng kêu khiếp sợ, Gurgi nhảy phắt ra xa chiếc vạc và chạy đi một quãng an toàn, ở đó, nó điên tiết vung thanh sắt của mình lên và dứ dứ nắm đấm về phía cái vạc.
“Phải,” Orddu mỉm cười, “chỉ có cách đó thôi. Con chỉ mất một cái trâm để đổi lấy chiếc vạc, nhưng phải mất một mạng người để phá huỷ nó. Không những thế, kẻ nào hy sinh mạng mình để phá huỷ chiếc vạc phải làm điều đó một cách tự nguyện và biết rõ điều mình đang làm. Và giờ thì, đàn gà con của ta,” mụ nói tiếp, “chúng ta thật sự phải nói lời chia tay thôi. Orgoch đang buồn ngủ lắm. Các con đã đánh thức chúng ta dậy quá sớm, các con biết đấy. Tạm biệt, tạm biệt.” mụ đưa tay lên vẫy rồi cùng với hai mụ phù thuỷ kia quay vào trong căn nhà tranh.
“Khoan đã!” Taran hét lên. “Hãy cho chúng tôi biết đi, không còn cách nào khác sao?”
Cậu chạy tới bên cánh cửa. Cái đầu của Orddu ló ra một thoáng.
“Không còn cách nào khác cả, gà con của ta ạ.” mụ nói và lần đầu tiên trong giọng nói của mụ có một thoáng thương hại.
Cánh cửa đóng sập trước mặt Taran. Cậu tuyệt vọng đấm mãi lên nó; nhưng ba mụ phù thuỷ không đáp lại nữa. Ngay cả ô cửa sổ cũng đột nhiên tối sầm lại như bị che phủ bởi một màn sương đen không thể chọc thủng nổi.
“Khi Orddu và các bạn của bà ta nói lời từ biệt,” chàng ca sĩ nhận xét, “thì họ nói thật đấy. Tôi không nghĩ chúng ta sẽ gặp lại họ nữa đâu.” Mặt anh ta tươi lên một chút. “Và đó là tin tức đáng phấn khởi nhất mà tôi được nghe từ sáng đến giờ.”
Taran mệt mỏi buông rơi cây búa xuống đất.
“Chắc chắn phải có điều gì khác chúng ta có thể làm chứ. Mặc dù chúng ta không thể phá huỷ chiếc vạc, chúng ta cũng không thể bỏ nó lại được.”
“Hãy giấu nó đi,” Fflewddu gợi ý, “chôn nó đi. Và tôi đề nghị làm càng sớm càng tốt. Cậu có thể chắc chắn là chúng ta sẽ không tìm được ai tự nguyện nhảy vào đó phá vỡ nó đâu.”
Taran lắc đầu.
“Không, chúng ta không thể giấu nó đi được. Không sớm thì muộn Arawn cũng sẽ tìm ra nó, và mọi cố gắng của chúng ta sẽ thành công cốc hết. Thầy Dallben hẳn sẽ biết.” cậu nói tiếp. “Chỉ một mình thấy ấy có đủ uyên bác để xử lý chiếc vạc. Chính Gwydion cũng có ý định đem chiếc vạc về Caer Dallben. Giờ đó sẽ là nhiệm vụ của chúng ta.”
Fflewddur gật đầu.
“Tôi đoán là điều an toàn duy nhất. Nhưng nó là một thứ quái thai cồng kềnh, tôi không biết làm cách nào bốn người chúng ta có thể lôi nó đi qua những đường núi được.”
Phía trước căn nhà tranh im lìm, nhóm bạn dẫn Lluagor và Melynlas ra, rồi buộc chiếc vạc và giữa hai con chiến mã. Gurgi và Eilonwy cầm cương dắt hai con ngựa phải kéo nặng, trong khi Taran và chàng ca sĩ đi bộ, một người đi trước, một người đi sau, để giữ vững chiếc vạc.
Mặc dù rất nóng lòng rời khỏi căn nhà tranh của Orddu, Taran không dám đánh liều đi qua khu đầm lầy Morva nữa. Thay vào đó, cậu quyết định nhóm bạn sẽ đi một quãng trên nền đất cứng ở mép đầm và men theo vòng cung hình bán nguyệt của đầm lầy cho tới khi họ đến được cánh đồng hoang.
“Đường ấy xa hơn,” Taran nói, “nhưng khu đầm lầy lại quá hiểm hóc. Lần trước tôi có chiếc trâm của Adaon dẫn đường. Giờ thì,” cậu nói thêm với một tiếng thở dài, “tôi e rằng tôi sẽ chỉ dẫn chúng ta đến cùng một kết cuộc như bọn Thợ Săn thôi.”
“Đó cũng là một ý hay đấy!” Chàng ca sĩ kêu lên. “Không phải là cho chúng ta,” anh vội nói thêm, “mà là cho chiếc vạc ấy. Hãy ném các vạc chết tiệt này chìm xuống cát lún đi!”
“Không, cảm ơn nhiều!” Eilonwy đáp. “Đến khi tìm được chỗ cát lún thì chúng ta cũng chìm luôn với cái vạc rồi. Nếu ông mệt thì chúng ta có thể đổi chỗ và ông có thể dẫn Melynlas.”
“Không, không hề.” Fflewddur lẩm bẩm. “Nó không nặng đến thế đâu. Tôi thấy đây là một cách rèn luyện sức khoẻ rất hay. Một người họ Fflam không bao giờ chùn bước cả!”
Anh ta vừa dứt lời thì một sợi dây đàn bật tung, nhưng chàng ca sĩ không thèm để ý đến nó vì đang quá bận bịu giữ cho chiếc vạc khỏi chao đảo. Taran lặng lẽ bước, chỉ mở miệng để chỉ hướng cho Eilonwy và Gurgi. Họ đi tiếp suốt ngày hôm ấy, thỉnh thoảng mới dừng lại nghỉ. Mặc dù vậy, đến khi mặt trời lặn thì Taran nhận ra họ chỉ mới đi được một quãng ngắn và chưa đến gần được cánh đồng hoang rộng mênh mông. Cậu còn nhận thấy cả sự mệt mỏi của mình cũng nặng nề như chính chiếc vạc vậy, một cảm giác mệt mỏi mà cậu chưa bao giờ chú ý đến khi còn đeo chiếc trâm cài của Adaon.
Họ cắm trại trên một cánh đồng thạch nam trống trải và lạnh lẽo, phủ đầy sương mù bốc lên từ đầm lầy Morva. Ở đó, họ tháo chiếc vạc ra khỏi hai con ngựa mệt mỏi và Gurgi lấy thức ăn từ trong chiếc túi của nó ra. Sau bữa ăn, Fflewddur phấn chấn trở lại. Mặc dù còn run rẩy vì lạnh và ẩm ướt, chàng ca sĩ đặt cây đàn hạc lên vai và tìm cách làm đám bạn phấn khởi hơn bằng một bài hát vui vẻ. Taran, thường vẫn rất háo hức được nghe chàng ca sĩ chơi nhạc, giờ ngồi tách xa một quãng, rầu rĩ nhìn chiếc vạc. Một lát sau, Eilonwy lại gần và đặt tay lên vai cậu.
“Tôi biết rằng điều này không thể an ủi anh được,” cô nói, “nhưng nếu anh nhìn mọi việc theo cách khác thì thực ra anh không hề từ bỏ bất kỳ thứ gì. Đúng là anh đã đánh đổi chiếc trâm và mọi quyền lực đi kèm với nó. Nhưng anh không thấy sao? Tất cả những quyền lực đó đều xuất phát từ chính chiếc trâm; chúng đâu phải là của anh. Tôi nghĩ,” cô nói thêm, “sẽ tệ hơn nhiều nếu phải từ bỏ một ngày hè. Ý tôi là đó mới chính là một phần của anh. Tôi biết, tôi sẽ không muốn từ bỏ bất kỳ ngày hè nào của mình, hay thậm chí một ngày đông đi chăng nữa. Vì vậy, nếu anh nghĩ cho kỹ lại thì Orddu đâu có lấy đi của anh cái gì; anh vẫn là chính bản thân mình, và anh không thể chối cãi được điều đó!”
“Đúng thế.” Taran đáp. “Tôi vẫn chỉ là một thằng Phụ - Chăn lợn. Lẽ ra tôi phải biết rằng bất kỳ điều gì quá tốt đẹp thì sẽ không thể kéo dài lâu được.”
“Có thể đúng như vậy,” Eilonwy nói, “nhưng xét về chuyện Phụ - Chăn lợn thì tôi nghĩ anh là một người cực kỳ xuất sắc. Hãy tin tôi đi, tôi không nghi ngờ chút nào về việc anh là người Phụ - Chăn lợn giỏi nhất trên toàn xứ Prydain này. Có bao nhiêu người Phụ - Chăn lợn khác thì tôi không biết, nhưng đó là chuyện lạc đề rồi. Và tôi không nghĩ là bất kỳ ai trong số họ có thể làm những điều anh đã làm.”
“Tôi không thể làm gì khác.” Taran nói, “Nếu không thì chúng ta sẽ không có được chiếc vạc. Orddu nói họ chỉ quan tâm đến mọi việc như ở nguyên trạng của chúng.” cậu nói tiếp, “Giờ thì tôi tin, họ chỉ quan tâm đến mọi việc như chúng phải diễn ra thì đúng hơn. Adaon biết số phận của anh ấy đã được định đoạt,” Taran tiếp tục, quay sang Eilonwy, giọng cậu trở nên vững vàng hơn, “và anh ấy đã không trốn chạy nó, mặc dù nó khiến anh ấy phải mất mạng. Được thôi,” cậu tuyên bố, “nếu tôi cũng đã có một số phận được định sẵn thì tôi sẽ đối mặt với nó. Tôi chỉ hy vọng rằng tôi có thể can đảm đối mặt với nó như Adaon mà thôi.”
“Nhưng cũng đừng quên,” Eilonwy nói thêm, “cho dù chuyện gì khác xảy ra thì anh cũng đã giành được chiếc vạc cho Gwydion, cho cụ Dallben và tất cả chúng ta. Đó là điều mà không ai có thể cướp đi của anh. Chỉ riêng điều đó thôi cũng đã cho anh đủ lý do để tự hào rồi.”
Taran gật đầu. “Phải, tôi đã làm được ngần ấy.”
Cậu không nói gì nữa và Eilonwy lặng lẽ để cậu ngồi lại đó. Rất lâu sau, khi những người khác đã đi ngủ, Taran vẫn ngồi nhìn chằm chằm vào chiếc vạc. Cậu nghĩ thật kỹ về những điều Eilonwy đã nói; nỗi tuyệt vọng của cậu vơi đi chút ít và lòng tự hào dâng lên trong cậu. Chẳng bao lâu nữa chiếc vạc sẽ được giao vào tay Gwydion và sứ mệnh dài đằng đẵng này sẽ kết thúc.
“Mình đã làm được ngần ấy.” Taran nhắc đi nhắc lại với chính mình, và một sức mạnh mới mẻ nảy nở trong tim cậu.
Tuy nhiên, khi ngọn gió than vãn thổi qua cánh đồng thạch nam và chiếc Vạc Tái Sinh đứng lù lù trước mặt cậu như một bóng đen bằng sắt, cậu lại nghĩ về chiếc trâm, rồi cậu vùi mặt vào hai bàn tay và khóc.