Dịch giả:Thanh Vân
Chương II

Những giấc mơ giữa mùa hè của Tristan đầy những nước, cái lạnh Bắc cực dâng lên cuồn cuộn quét qua giấc ngủ của anh trong những khoảng không trải rộng tươi xanh. Nếu thức giấc trong đêm, anh lại lướt bàn tay một cách phấn khởi lên bụng Susannah. Trong hai tháng đầu của cuộc hôn nhân, anh là một người tình thực sự cuồng nhiệt không vì bất cứ lý do sinh học nào, ngoài vết thương trong tâm trí về Samuel. Anh cầu nguyện một cách lười biếng, rồi cười thầm khi nghĩ biết đâu Chúa chẳng cho anh thơm con chuột xạ làm con. Anh ngấm ngầm dành một tuần đến Havana gặp ông nội, một việc mà anh biết là ngang bướng nhưng không thể đừng được. nếu là một trăn năm  trước, chắc anh sẽ thích thú đi du lịch trong lục địa, đến thăm những rặng núi và dòng sông bất tận, nhưng lúc này là năm 1915, anh hai mươi mốt tuổi, những thứ như thế còn lại rất ít, anh nóng lòng được thấy những đợt sóng mênh mông ngoài đại dương và xa hơn nữa. chẳng phải anh không thích nơi anh ra đời, thực ra nếu không có Canada thì miền bắc Montana là chọn lựa duy nhất của anh. Và anh yêu vợ theo kiểu một thanh niên có tính lạ đời như anh có thể yêu. Anh say mê cô, giữ cô ở bên mình, họ trò chuyện nhiều giờ liền về những dự định hầu hết là không thực tế (về phía anh cho tương lai: điều hành nông trại, nuôi gia đình và ngựa giống, và lẽ dĩ nhiên ngựa là cột trụ của việc kinh doanh. Susannah sẽ ngồi gần bãi quây gia súc dưới một cái dù để bảo vệ làn da nõn nà của cô, quan sát Tristan và Decker nghỉ ngơi và bầy ngựa được một người Cree lai đen giúp, anh ta bám vào con ngựa khó tính nhất như một quả ké bám vào bộ lông con chó xù.
Ludlow bận bịu với việc giải trí của Arthur, cha Susannah, ông ta đến miền tây trong đoàn thể thao với một hòm lớn đầy cần câu H.L. Leonard. Ludlow thấy có vẻ kỳ quặc khi người đàn ông này công khai săn sóc Alfred hơn chăm nom Tristan, riêng Alfred đã tự lành, nhưng anh vẫn cần chống gậy. Sau vài tuần câu cá, nhà tài chính khoái trá có dịp tìm kiếm kỹ càng nhiều thứ để mua, đúng kiểu hiếu kỳ truyền thống của người giàu đang phấn chấn, lúc nào cũng xoay sở mua bằng được một thứ gì đó. Ông mua một nông trại lớn ở kế bên, gọi là quà cưới tặng con gái và con rể, tuy ông vẫn giữ một nửa để bảo hiểm mà ông gọi là một "thủ tục kinh doanh thận trọng".
Ludlow trở lại là người phong nhã với vợ, cuối cùng thì nỗi đau của họ quá lớn không thể giữ một mình mãi. Khoảnh khắc nghiệt ngã nhất xảy ra vào một chiều chủ nhật nóng nực, họ đang nghỉ và ăn uống trên bãi cỏ, thì một cô gái mặc bộ quần áo mùa hè rẻ tiền phi ngựa không yên lao đến bên cổng. Tristan vội rảo bước ra ngoài và nhấc cô gái từ trên lưng ngựa xuống, anh nhận ngay ra  cô trong lúc những người khác bối rối nhưng buồn bã, đó là con gái của người tá điền ở mãi gần Cut Bank đến tìm Samuel, người đã tặng cô chiếc đồng hồ vàng để hộ thân. Cô đến gần bàn, ôm chặt cái túi vào ngực. Tristan giới thiệu cô, mang cho cô đĩa thức ăn và ly nước chanh. Anh ngồi xuống cạnh cô và nhìn một cách tai hoạ lúc cô rút chiếc đồng hồ trong túi ra. Cô biết tin Samuel mất trên  báo Helena và đã phi ngựa suốt ba ngày liền để trả lại chiếc đồng hồ, và nếu mọi người muốn, có thể đọc những lá thư Samuel gửi cho cô. Có khoảng một trăm lá thư, thư nào cũng kể tỉ mỉ công việc trong ngày bằng nét chữ cẩn thận của anh. Isabel bắt đầu đọc và mất tự chủ ngay. Ludlow đi đi lại lại trên cỏ và nguyền rủa trong lúc Alfred nhìn chằm chặp xuống đất. Susannah dẫn cô gái đi tắm và nghỉ ngơi. Đến giữa buổi chiều, cô gái nói phải ra về và đề nghị mọi người gửi thư trả cô khi đọc xong. Cô không nhận chút gì, kể cả quần áo, tiền bạc hoặc chiếc đồng hồ vàng nhưng xin một bức ảnh của Samuel vì anh không chú ý hoặc quá nhút nhát nên không gửi cho cô. Tristan lặng lẽ cưỡi ngựa tiễn cô vài dặm, ước gì cô đã có thai để bằng cách nào đó nhớ lại Samuel, nhưng không, anh mất đi hoàn toàn trinh trắng. Và lúc này cô gái ra đi vẻn vẹn có một tấm ảnh để an ủi. Tristan những muốn bóp cổ cả thế giới.
Tristan về nhà trong tâm trạng tồi tệ đến mức cố luyện một con ngựa giống non khó dạy. Con vật có bắp thịt rắn chắc và dẻo dai, những năm gần đây được coi là con ngựa của vùng. Anh định cho nó nhảy liền một lúc ba con ngựa cái thuần chủng của cha. Ludlow thấy dưới là ý tưởng hay nhưng cha của Susannah là người cuồng nhiệt với các cuộc đua ngựa lại nghĩ thế là thái quá. Trista nlàm đến tận sẩm tối, đến lúc những người quan sát trong ánh chiều chạng vạng đều thấy hoặc là ngựa hoặc là Tristan sẽ chết trong cuộc giao phối. cha của Susannah châm biếm nói rằng ngựa sè phụng sự một mục đích hay ho hơn là chó để làm thịt, và Tristan nhìn ông ta trừng trừng. Anh nói sẽ đặt tên cho con ngựa là Arthur Thịt Chó để tôn vinh ông ta, làm ông ta dậm chân thình thịch, tuyên bố sẽ không bao giờ ăn với họ và đòi một lời xin lỗi nhưng không bao giờ có.
Đêm khuya hôm ấy, đại dương lại đến trong giấc mơ của Tristan, anh lật đi lật lại tấm thân bầm tím và thấy bầu trời đen tối, những làn sóng nhồi mênh mông dâng lên cuồn cuộn trong phiên gác đêm, tiếng lách cách của cánh buồm mũi cứng lại vì băng giá, rồi sau đó là bầu trời lác đác những vì sao, quá to so với những ngôi sao thực. Anh thức giấc, thấy Susannah đang phủ lên mình anh, rèm cửa bay phần phật như  những cánh buồm. Anh đến bên cửa sổ và nhìn trân trân xuống con ngựa giống trong bãi quây, dưới anh trăng anh có thể nhìn thấy rõ cái cổ đầy đặn của nó phồng lên. Anh bảo Susannah là sẽ đi xa vài tháng, có khi đến một năm, đi gặp con thuyền của ông nội ở Havana. Cô nói cô cũng biết anh cần đi và sẽ chờ đợi anh mãi mãi. Đến bữa ăn sáng, anh hôn từ biệt cha mẹ và lên ngựa cùng One Stab đến Great Falls để lên tàu lửa. One Stab cho anh một con dao găm và Tristan nhớ lại con dao của anh đã chôn cùng Noel ở Ypres. Ôm lấy ông già da đỏ, Tristan nói anh sẽ trở về, còn One Stab chỉ nói "Tôi biết thế" lúc ông lão xếp dây chì dò độ sâu lên ngựa cho Tristan.
Cuộc hành trình không bao giờ thực sự kết thúc, trừ việc nó đến với tất cả mọi người, trong đời người đàn ông này. Cuôi' tháng Chạp năm 1977 trên triền đồi phủ tuyết ở Alberta, một đứa cháu trai tìm thấy Tristan (đã tám mươi tư tuổi) cạnh xác con hươu lão đang moi ruột, bàn tay lào đã đông cứng quanh con dao găm mà One Stab cho lão ngày nào ở Great Falls. Đứa cháu treo con hươu lên cây thông và vác lão về nhà, đôi ủng đi tuyết của anh ta chỉ ngập sâu hơn chút ít trong tuyết.
Tristan lên tàu phía đông đến Chicago, vì tò mò nên dành hẳn vài ngày xem xét các chuyến tàu Great Lakes ở bến, anh theo hướng Nam đến New Orleans rồi đến Mobile, mất mấy ngày đi thuyền buồm dọc của một người xứ Wales rời Newfoundland và xuôi xuống Florida đến Key West, anh lên phà đêm đến Havana sau khi xem một đống rùa xanh trong khu đất rào kỹ, dỡ từ một con thuyền buồm đẹp đẽ nhưng bẩn thỉu chạy từ Cayman.
Đây là lần đầu tiên anh đến vùng nhiệt đơ;i và trong đêm đến Havana anh không ngủ, đi đi lại lại trên boong hàng nhiều giờ liền, không hiểu vì sao những ngọn gió nhẹ của Gulf Stream không xua được cái nồng ẩm đặc quánh bên dưới mũi tàu nơi anh dang đi, để thoát khỏi mùi khói than toả ra từ ống khói, những con sóng lấp lánh lân tinh. Đến tảng sáng, quang cảnh Havana hiện ra xa xa, anh vừa nhấp từng ngụm rum trong chai vừa ngắm những con cá heo đầu tiên bay qua mũi tàu, nằm ngửa rồi vọt qua lằn tàu. Xoay người, anh thấy vùng nửa tối màu đỏ tía rộng mênh mông của Gulf Stream in lên nền trời. Mắt anh đỏ hoe và chuyến đi thật căng thẳng, nhưng lần đầu tiên trong nửa năm nay anh thấy một cảm giác na ná sự thanh thản trong lòng, dường như ngọn gió nhẹ ban mai đã thổi sạch bề mặt biển cả, bên dưới chẳng hề có những dòng chảy và sự hỗn độn. Anh mỉm cười nhìn mặt nước và nghĩ đến cái thuyền buồm dọc của ông nội, tuy tương đối mới nhưng thật nhỏ bé so vbz con tàu chạy bằng hơi nước vừa nhổ neo ở Havana. Nhưng vấn đề là chỉ có ít tiền mà muốn đến nơi anh muốn,các cảng hay gây rắc rối cho những công ty vận tải lớn, hoặc vịnh quá nông so với những con tàu lớn và chở nặng. hơn nữa, ông già đã bảo ông ghét mùi khói và tiếng ồn của động cơ trên biển, và đã quá muộn để anh khuếch trương ý thích thành một việc quái gở.
Rốt cuộc người ta chẳng có quá nhiều cảm xúc với những vấn đề đặc biệt nhức nhối như không có một chế độ thưởng, phạt đúng đắn trên đời. vấn đề không phải là ít day dứt và khó chịu với một người vô ích đến thế, ngây thơ đến thế. Chúng ta không quan tâM đến những vấn đề lớn hơn, nghe nói những thiếu niên Nez Percé (một nhánh của người da đỏ Mỹ ở Idaho, Washington và Oregon) đang hào hứng tiếp nhận lời kêu gọi nồng nhiệt của kỵ binh. Chẳng có gì quái gở hơn cuộc gặp của một đứa trẻ với súng đạn. Và đó chính là sự khác biệt torng nhận thức báo chí hồi ấy cứ khăng khăng một mực rằng chúng ta đã chiến thắng.  Chúng ta thích nghĩ rằng toàn bộ vũ trụ sáng như soa sẽ đóng vón lại thành một vật kỳ quái, sự giao hội của chòm sao Orion vặn lệch đi, các nhánh của chòm sao Southern Cross rủ xuống. Lẽ tất nhiên là không, không thể thay đổi là không thể thay đổi, và mỗi người suy nghĩ theo cách của mình về vấn đề đang chịu đựng. Ngay cả thần thánh cũng không được miễn trừ, tiếng hú của Chúa Jesus nhuốm vẻ thất vọng khi Người bước khá ngập ngừng vào chốn vĩnh hằng. Hình như chúng ta không thể đi từ lớn đến nhỏ vì mọi thứ cùng có kích thước tương đương. Da thịt của mỗi người là riêng biệt và người nọ khó mà hình dung người kia một cách rõ rệt.
Vậy là Tristan không hiểu chút gì về nỗi thống khổ anh đã gây ra cho Susannah. Vào buổi sáng anh lên đường, cô đi tản bộ rất lâu và bị lạc. One Stab tìm ra cô lúc trời nhá nhem tối và sau đó Ludlow bảo lão trông chừng cô mỗi khi cô rời khỏi sân. Cô tiếp tục đi bộ nhiều tuần lễ và cha cô rút ngắn kỳ nghỉ, ông giận cô đã từ chối dự định của ông đòi huỷ bỏ cuộc hôn nhân. Susannah mang nặng tính cách phổ biến ở đầu thế kỷ mươi chín hơn là đầu thế kỷ hai mươi. Là một người tình bị bỏ rơi, cô không vui vì sự ái ngại của mọi người, quyết tâm này của cô không mấy ai hiểu thấu, cô dành thời gian hoặc để mang những cuốn cẩm nang về động thực vật của Samuel đi dạo, hoặc ngồi trong phòng riêng đọc Wordsworth, Keats và Shelley là những tác giả được ưa chuộng từ hai năm trước ở Radcliffe, trước khi cô lấy Tristan. Cô thích trò chuyện với bà mẹ chồng có trí thông minh xuất sắc hệt như cô, miễn là câu chuyện không đả động đến Tristan. Nhưng cô dành hầu hết thời gian cho những chuyến đi  bộ dài trong mùa hè và bận tâm như thế nên cô không chú ý đến lão One Stab đi theo cô. Thỉnh thoảng Susannah rủ bé Isabel đi cùng và cô sửng sốt vì tính hóm hỉnh, linh hoạt cùng sự hiểu biết thiên nhiên của cô bé, học được từ mẹ và nhờ óc quan sát hơn là trong sách vở. Một buổi chiều đặc biệt nóng nực, lúc họ đang tắm torng vực do một dòng suối tạo nên,  gần mộ Samuel, Isabel nhận ra One Stab lẩn vào rừng và vẫy tay. Susannah kêu to và vội che người, cô ngượng nghịu, lúng túng như một đứa trẻ. Lúc đó Isabel cười phá lên và nói khi nào lớn nó sẽ lấy One Stab nếu lão không quá già, vì Susannah đã lấy Tristan rồi và nó chẳng còn được chọn lựa gì trên đời nữa. Susannah vội ngâm mình xuống nước đến cổ và nhớ lại một hôm trong vực này, Tristan đã bắt chước một con rái cá đuổi bắt con cá hồi  bé bỏng và ăn cải xoong. Isabel nói lão One Stab chỉ đi theo để phòng cô khỏi lac hoặc tình cờ lang thang giữa một con gấu xám và những con thú khác mà thôi.
Sáng hôm ấy ở Havana, Tristan ăn sáng rồi đi dạo phố đến giờ đã hẹn buổi trưa, giờ hàng ngày ông nội anh thăm hãng tàu thuỷ. Lúc đầu cuộc gặp gỡ bình thường, nhưng lúc thoát khỏi các thư ký và dấn vào cái nóng gay gắt của ban ngày, ông nội anh trở nên nghiêm trang và đi vượt lên nhanh như một người chạy cơn mưa dông. Ông lão đã cho tốp thuỷ thủ về nhà và lão bị bệnh lỵ, đấy là câu phàn nàn duy nhất Tristan nghe thấy từ miệng ông nội, nhưng nó che giấu một điều chắc chắn xảy ra, con thuyền  buồm sẽ bị tịch thu trên đường về Falmouth để dùng cho chiến tranh. Họ phải hợp tác điều khiển con thuyền. Lúc hai ông cháu đi qua Lãnh sự quán Anh, ông già dừng lại nhìn Tristan bằng cặp mắt xanh lơ lạnh lùng và bảo anh đừng nói gì hết, cuộc thoả thuận đã xong. Rồi ông lão uống một ngụm rum lớn trong chai của lão và đưa mời Tristan, nói rằng cảm xúc của lão ắt phải cùn nhụt đi một chút mới chịu được những kẻ ngu đần như thế này.
Đến cuối buổi chiều, họ chất các thứ lên thuyền buồm cùng một phó thuyền trưởng mới, một anh chàng Đan Mạch từ San Francisco tên là Asgaard và ba thuỷ thủ người Cuba rõ ràng là dày dạn kinh nghiệm. Lúc này thuyền trưởng không chính thức là Tristan, trong danh sách của ông nội, anh là một hành khách đi Falmouth. Họ lén khỏi nơi buộc thuyền sau khi trời tôi', cắm cờ Mỹ trước buồm chính và ghi chép hành trình vào một cuốn nhật ký mới. Sáng hôm sau có gió đông bắc mạnh, họ lượn vòng quanh mũi Antonio và nhằm hướng tây nam xuống kênh Yucatan, thẳng tới Barranquilla bốc hàng của một nước trung lập gồm gỗ dái ngựa và hồng mộc, và chẳng phải ngẫu nhiên, có cả một thần dân quan trọng người Anh. Rồi nhằm hướng đông, họ qua phía nam của Cayman, ngược lên kênh Windward rồi ra Caicos Passage, quay mũi về hướng bắc, được dòng Gulf Stream trợ giúp thẳng tới nước Anh.
Trong cabin riêng, thỉnh thoảng ông lão ra lệnh cho Asgaard và dạy dỗ Tristan không ngừng. Họ chia thành ca hai người một, uống cà phê Jamaica cho tỉnh ngủ. Suốt một tháng liền, mọi thứ biến sạch khỏi tâm trí Tristan ngoài việc nhồi nhét những kinh nghiệm sáu chục năm ròng của ông nội anh, giấc ngủ của anh đầy những đường đi của các cơn bão tưởng tượng, dây neo, cách chia cột buồm, những cơn sóng lừng lạ lẫm ở ngoài khơi Madagascar, hiếm có trong mùa đông. Họ không thấy dấu hiệu bị Đức phong toả lúc đến gần  bờ phía nam nước Anh. Ban đêm, lúc họ lẻn vào Falmouth thì chạm trán tình báo Anh. Đây là chuyến hàng cuối cùng của ông lão và tối hôm ấy, Tristan và bà vợ dìu ông lão lên giường, bà cụ đã đếm từng chuyến trở về của lão từ hơn nửa thế kỷ nay. Lão gần như vui vẻ lúc nắm tay vợ và nói lão về đến nhà là mừng lắm rồi.
Ngày hôm sau, Tristan được một giám đốc trước đây làm giám đốc nhà máy ở Midlands chỉ dẫn vắn tắt. Viên giám đốc tỏ ra cung kính và rót cho Tristan một ly lúc anh căng thẳng sờ tập hồ sơ. Rồi ông ta hỏi liệu Tristan có phiền không nếu cho biết cách lột da đầu người khác, hồi trẻ, ông ta đã đọc nhiều tác phẩm văn học về miền Tây nước Mỹ nhưng chưa có tác giả nào miêu tả chính xác kỹ thuật này, mà ông ta rất muốn biết. Tristan lẳng lặng đưa bàn tay xuống dưới lưỡi trai của mũ trong một cử chỉ cho thuận, rồi làm động tác bóctoác thật nhanh. Nó làm anh có cảm giác hài hước thật hiếm hoi và anh nói người ta đợi cho đến lúc kẻ địch đã chết hoặc gần chết mới lột, tuỳ thuộc vào mức độ căm ghét, không thể lột da người đã bị chặt đầu vì cần phải giữ cho chắc bằng một điểm tựa.
Người Anh gật gù tán thưởng rồi họ nói tiếp vào công việc. Sáng hôm sau, hàng trên thuyền dỡ xuống, những hòm gỗ để thịt bò đóng hộp nhưng thực ra bên trong chứa vũ khí loại tân tiến. Hàng sẽ chở đến Malindi  trên bờ biển Kenya viện trợ cho quân Anh, chặn trước những chuyện rắc rối với Đức ở pháo đài Ikomo ở Tananyika. Trong gia đoạn tương đối sớm này của cuộc chiến, họ không muốn gây rắc rối với Đức nên đã trương cờ Mỹ, nhưng tình hình chỉ thay đổi tạm thời và nếu Tristan bị nã đạn, anh phải đánh đắm thuyền. Nếu cuộc đụng độ nhỏ lúc họ đến gần Kenya, chỉ cần một hộp súng trường hoặc súng săn gửi đến Nairobi là có thể chống giữ được, và anh sẽ huấn luyện các thuỷ thủ tìn huống có thể xảy ra này.
Tristan ngồi suốt buổi chiều cạnh giường ông nội, đợi chuyến ra khơi lúc nửa đêm. Trong lúc ông già ngủ, nah viết thư cho Susannah và cha rằng anh đi công cán cho chính phủ, không biết thư từ có bị kiểm soát không, vì ngày hôm ấy một nhân viên tình báo cải trang thành ngư dân xứ Cornwall đã lẽo đẽo theo anh khắp mọi nơi. Viết thư đem lại cho anh một sự uỷ mị khá lạ lùng, dường như lát nữa số phận anh không thể thay đổi được nữa và anh sẽ tự chôn mình. Anh hình dung cha anh và Decker tranh cãi về dòng giống, còn mẹ anh trong phòng khách với chiếc máy hát đang chơi bản Cavalleria Rusticana. Anh như nhìn thấy Susannah ngồi dậy bên giường, duỗi đôi cánh tay trong ánh sáng ban mai, hình dáng mảnh mai của cô đến  bên cửa sổ xem thời tiết bao quanh các ngọn núi, rồi cô trở lại giường và nhìn anh một lúc lâu, không nói lời nào.
Một số hành động kỳ lạ nhất của chúng ta cũng là đặc điểm sâu sắc nhất, đó là sự khao khát ngấm ngầm giữ nguyên những ý nghĩ  yếu đuối, trừ khi họ có ý chí mạnh mẽ đủ xua tan chúng. Lẽ tất nhiên chẳng ai nhìn thấy "ý chí" và có lẽ nó là một khái niệm hơi rẻ tiền, một từ ngữ cùn mòn cần đến một ngàn từ bổ nghĩa. Sáng hôm ấy, sau bữa ăn sáng dưới ánh đèn lặng lẽ với bà nội – bà cụ cho anh cuốn Kinh Thánh bọc trong chiếc áo len đan dài tay bằng len lông cừu – Tristan ra khơi đi châu Phi, đáp ứng những khao khát nung nấu lòng anh. Từ khi học địa lý lớp sáu ở trường làng, anh đã mơ đến châu Phi không phải để săn bắn, vì One Stab đã dạy anh cảm giác về danh dự và chính trực hơn là việc bắn một con vật để vừa lòng cái tôi của mình, nhưng vừa nhìn thấy, ngửi thấy, cảm thấy và hiểu biết, cậu bé Tristan đã mê tít các bản đồ cậu có. Một ám ảnh nữa nhờ những câu chuyện của cha cậu kể về những chuyến đi ngắn ngủi hồi niên thiếu với ông nội anh, một chuyến đi Goterborg ở Thuỵ Điển vào mùa hè, chuyến khác đi Bordeaux và nhìn thấy cá voi ở biển Bắc. Là người chăn ngựa rất thành thạo, trong  giấc mơ Tristan hình dung thuyền buồm như một con ngựa trên biển khổng lồ nhảy trên ngọn sóng đầy bọt và nghiêng ngả trên những con sóng lừng. Một cảm giác không nói ra, không hình dung nổi, ngoài dự kiến về thời gian và không gian sẽ cho anh biết vì sao Samuel chết.
Một tuần gió rét căm căm đưa họ vòng quanh mũi St. Vicient, nơi họ nhắm hướng đông nam đến Gibratar. Asgaard tính trung bình mỗi ngày họ đi được một  trăm năm mươi hải lý, đàng nào thì khi vào Địa Trung Hải cũng phải đi chậm lại. Hai lần họ phải hạ buồm để tập súng trường. Tristan rất hài lòng mở hộp thấy bảy khẩu Holland&Holland có cỡ nòng khác nhau kể cả một súng bắn voi và bốn khẩu súng săn. Nhưng biển cả quá dữ dội và gần như không có thời gian để ngắm bắn, và sóng cứ trồi lên thụt xuống làm đổ các chai để ở đuôi tàu. Chỉ có Tristan và một trong những anh chàng Cuba, sau này tiết lộ là người Mexico bị đi đày, là  có thể bắn được. Asgaard là một người Đan Mạch bình thản, nhắm cả hai mắt khi kéo cò, một trong những người Cuba không thể nín được cười khúc khích, còn người kia cứng nhắc và nghiêm túc nhưng không có kinh nghiệm.
Vào Địa Trung Hải được một ngày rưỡi, lúc đang qua Alboran, một tàu khu trục Đức đánh tín hiệu bảo họ cuốn mép buồm và dừng lại, nhưng một cơn gió mạnh đột ngột và mây đen vần vũ làm họ chạy thoát ngon lành. Để an toàn, Asgarrd nghĩ khôn ngoan nhất là đi men bờ Algeria và Tunisia, bên ngoài điểm họ cho là ít nhất cũng an toàn cho đến Ấn Độ Dương. Điều đó chứng tỏ là đúng, tuy Tristan kiệt sức và không ngủ khi thuyền của họ đứng yên vì thiếu gió suốt ba ngày ở ngoài khơi Libya. Trái với thông lệ, họ đỗ lại Ierapetra ở Crete đủ lâu để lấy nước ngọt thay chỗ nước hơi bị mặn của họ. Trên cầu tàu, một chủ hiệu rõràng là người Đức lén theo dõi họ và anh chàng Mexico gợi ý với Tristan nên cắt phăng cổ họng thằng cha nọ. Tốp thuỷ thủ không được báo cho biết nhiệm vụ, nhưng chẳng ai tin các hòm gỗ kia chứa thịt bò, Asgaard phát hoảng khi Tristan bỏ hết những nghi thức trên tàu tách biệt thuyền trưởng với nhân viên, những thủ tục mà anh căm ghét và chống lại trong quân đội. Toàn bộ thuỷ thủ trên tàu đều nhanh nhẹn và có năng lực, phấn chấn, phần lớn vì họ đang hướng về phương nam, đến vùng ấm hơn mà họ yêu thích.
Một buổi rạng đông, con thuyền đến Port Said và vào kên đào Suez yên ổn. Chỉ Tristan và Asgaard là lo âu vì Hồng Hải quá nóng nực. Sức nóng giảm hẳn khi họ đến eo  biển Bab el Mandeb có những cơn gió mạnh thổi từ phương nam của Ấn Độ Dương trong vịnh Aden. Hai tuần sau họ đến Malindi, và thấy nơi hẹn đã đổi đến Mombasa, phải bơi hai ngày nữa về phương nam. Tristan lại rơi vào nỗi buồn vì anh ngấm ngầm mong chạm trán tàu chiến Đức, nhưng việc đổi đến Mombasa là bất khả kháng. Viên sĩ quan Anh nói họ phải biết ơn vì tuy đi xa hơn nhưng thế là đền đáp khá thiên vị cho cuộc hành trình đầy gian nguy của họ. Anh ta còn nói đã đề nghị thưởng huân chương, đến nước ấy Tristan phát ớn và ra khỏi phòng. Sau hơn một tháng lênh đênh trên biển, chàng công tử bột nhiễu sự này làm Tristan buồn nôn. Trước kia Asgaard đã ở Mombasa, anh ta dành chuyên lên bờ vui thú với một goá phụ người Pháp, nên Tristan với hai gã Cuba và gã Mexico lên chuyến tàu hoả mới đi Nairobi, nhậu nhẹt và chơi gái điếm đến mệt lử. Tristan nhận chở một chuyến ngà voi, răng nanh lợn lòi và ngà voi giả bằng sừng tê giác, một loại thuốc kích dục của Trung  Hoa đến Singapore. Ở Nairobi, anh hút thử thuốc phiện và khá thích thú trạng thái lâng lâng xua hết phiền muộn của nó. Trên đường về cảng, ở trạm lấy nhiên liệu Tirstan chụp một tấm ảnh đầu con tê giác vắt qua lòng anh. Anh trả hai chục đô la cho anh chàng thợ ảnh người Anh nghiện rượu, gây gổ, rồi gửi tấm ảnh về cho One Stab, nhờ ông William Ludlow, Choteau, Montana, Mỹ, chuyển hộ. Bức điện viết "Con vật này chết chỉ trong giây lát ngăn đoàn tàu".
Mùa thu lại đến Montana, mới có một năm định mệnh từ lúc các chàng trai ra trận. Isabel và Susannah đã đi Boston, sau khi Susannah khỏi trận viêm phổi vì đã đi bộ lâu dưới trời mưa. Năm ấy chỉ có ba ngày là mùa hè Indian thực sự, và một buổi chiều ngoài hành lang, Ludlow loay hoay lắp cái radio, trong lúc One Stab và bé Isabel chăm chú quan sát. Khi những tiếng nhạc đầu tiên từ Great Falls toả ra theo sóng radio, tất thảy phát hoảng. Lũ chó săn chim đang ngủ trong hành lang đứng phắt dậy sủa, con đục rúm lại vì sợ. Ludlow suýt đánh rơi cái máy ông đã mất hai ngày lắp ráp. Rồi Isabel cười phá lên và vừa vỗ tay hoan hô, vừa nhảy vòng tròn. Lão One Stab lại chìm vào suy tư trong lúc ông Ludlow giải thích khái niệm rằng vật nào cũng có âm thanh riêng của nó. Ngẫm nghĩ suốt một giờ, One Stab coi cái radio bản chất là thứ vô dụng chẳng kém gì cái máy hát.
Susannah ở suốt mùa đông tại nhà Isabel ở quảng trường Louisburg. Vẫn bị cha mẹ xa lánh vì cuộc hôn nhân, cô thấy Isabel là người bạn gần gũi và quan hệ mẹ chồng, nàng dâu giả tạo của họ đã trở thành bạn bè thân thiết. năm ấy Isabel quyết định không cặp bồ với ai, ngoài việc xem nhạc kịch và nghe giao hưởng, bà dồn sức học tiếng Pháp và tiếng Ý, cho vấn đề nam nữ bình quyền, đòi quyền bầu cử cho phụ nữ. Bà tổ chức một bữa tiệc tối mừng nữ thi sĩ Amy Lowell là em họ xa của bà. Cô ta đã xảy ra chuyện bê bối vì dám hút xì gà công khai. Susannah vẫn còn yếu, cô thích thú thấy người phụ nữ khoa trương ấy đòi một ly brandy sau bữa tối, châm điếu xì gà và đọc những vần thơ mong manh, yếu đuối, khác xa với tác giả đến nực cười.
Susannah chẳng bao giờ nhận được bức thư của Tristan từ Falmouth, chỉ duy nhất một bức thư ngắn gửi từ một tỉnh ở Anh, báo tin thư từ sẽ bị kiểm duyệt để không gây nguy hiểm cho cuộc chiến. tin này làm cô hoang mang và đau đớn, suýt nữa thì cô liên lạc với cha cô, ông đã nhận được tin Tristan được khen thưởng gì đó. Lãnh sự Anh ở Boston báo cho ông biết Tristan được thưởng Bội tinh Victoria vì đã hoàn thành xuất sắc một nhiệm vụ đặc biệt nguy hiểm, song không thể tiết lộ chính xác. Cha của Susannah không thể không lẩm bẩm "Cái thằng thích phiêu lưu chó chết!" khi gnhe tin ấy trong bữa tiệc trưa của Câu lạc bộ Harvard, ông được chúc mừng vì có người con rể ưu tú đến thế. Ông đã ăn mặc khá giống J.P. Morgan và Jay Gould dù hoạ tiết rõ ràng nhỏ hơn. Cuộc chiến ở châu Âu đã đem lại cho Arthur một thời hoàng kim về tài chính, ông ta đầu tư nhiều vào ngựa và thóc lúa, chủ yếu dựa vào khai mỏ và sản xuất. Ông ta đưa Alfred vào văn phòng ở Helena, cổ vũ anh bước vào chính trường và  gửi các bản báo cáo hàng tuần mọi tin tức tình báo kinh tế ông ta có được. Alfred đã giúp ông ta kiếm được những khoản lãi kếch sù vì bán lúa mì với giá cắt cổ, và cha Susannah không thể không nghĩ giá anh là con rể thì hay biết bao. Arthur đã đầu tư vào Standard Oil là công ty đã mua quyền khai thác đồng ở Anacoda, Montana, và đang thành lập Amalganated Copper. Alfred hiểu rõ đặc quyền của những người góp vốn trong lúc Ludlow nặng về tình cảm, chỉ chú ý đến tiền lương và điều kiện sống của thợ mỏ. Khi các đội viên dân phòng treo cổ một kẻ phá cuộc đình công ở cầu Butte, Arthur đã chào họ.
Đến mùa xuân, Alfred đến miền đông theo lời chỉ bảo của Arthur, xếp đặt kế hoạch cho tương lai của anh, gặp mẹ và không phải ngẫu nhiên, gặp Susannah mà anh vẫn yêu thầm nhớ vụng. Alfred hơi cục mịch so với Tristan và Samuel nhưng anh là người trước sau như một, luôn thán phục các em, bản tính anh đằm thắm và trung thành. Một buổi tối, anh đã khóc lúc đi ngủ khi thấy mình mong Tristan không trở về và Susannah vì lý do nào đấy sẽ yêu anh. Thực ra Alfred hơi quá chân thật, đặc điểm ấy làm sự nghiệp chính trị của anh biến đổi nhanh chóng. Ở Boston, anh bị tổn thương sâu sắc khi Susannah dường như chẳng chú ý gì đến anh bên bàn tiệc mừng gia đình đoàn tụ. Những ngày sau đó, trong một số cuộc dạo chơi tháng Tư qua Boston Common, cô tỏ ra thân thiện nhưng xa cách khi thấy anh có vẻ náo nức. Lúc chia tay, cô tặng anh cuốn thơ của Amy Lowell, với bản chất tẻ nhạt anh không biết làm gì, nhưng lời đề tặng "Alfred thân mến nhất, anh là người đàn ông tốt bụng và đáng kính trọng. Thương mến, Susannah" làm tinh thần anh phấn chấn đến mức trong ngăn riêng trên chuyến tàu về nhà, anh mở bìa cuốn sách, ngửi dòng đề tặng của cô và run cả người khi nghĩ đã bắt được mùi hương của cô.
Chiếc thuyền buồm không hoàn toàn ra ngoài tầm nhìn của Dar es Salaam, lúc họ chất xong đồ bằng ngà, Tristan bị bệnh lỵ nặng đến mức lả đi bên bánh lái. Giai đoạn đầu anh nằm lịm và sốt coa suốt một tuần, trong lúc sóng biển dâng cao đến mức Asgaard lo cho tính mệnh của cả con thuyên lân thuyên trưởng. Nếu Tristan và con thuyền không có một thể tạng gần như siêu nhiên, ắt cả hai đã phải nằm trần trụi dưới đáy Ấn Độ Dương. Cuối tuần lễ đầu tiên, cơn sốt chưa dứt hẳn nhưng đã giảm đến mức ít nhất Tristan cũng đi lại được trong cơn ác mộng vùng nhiệt đới. Trong những giấc mơ náo động anh nhìn thấy cánh cổng địa ngục và muốn đi qua, nhưng chỉ mình Chúa biết và giữ anh lại và vào lúc nửa đêm, anh trần truồng vắt vẻo trên rầm néo buồm giống một cái máng xối, bọt nước ấm áp của đại dương làm anh dịu đi, lát sau gã Mexico dùng cọc cắm thuyền dỡ anh xuống và đặt anh vào giường.
Với Tristan, Thần Chết đã ở trên boong và trong cabin anh uống rượu dù vẫn đang sốt, anh nghe thấy tiếng bước chân của họ. Samuel cười vang và nói về thực vật học nhưng tuyết bám trên tóc anh, mái tóc trắng xoá của anh bay trong gió biển lúc ho; đến gần Columbo ở Sri Lanka. Susannah xuất hiện với đôi cánh xanh biếc và One Stab hú gọi ở tận mũi tàu. Anh nghe thấy tiếng họ, thậm chí nhìn thấy họ qua những thanh gỗ tếch và gỗ sồi trắng.
Anh không biết đấy là giấc ngủ mê sảng hay lúc thức mê sảng, nhưng trong giấc mơ cả ngủ lẫn thức đều có những người bị săn đuổi. một hôm lúc tảng sáng, Asgaard thấy anh ở bên dưới, trần truồng, ôm chặt một cái ngà voi to tướng vào ngư/c, xem xét gốc nhà  vấy máu đã đen kịt lại và bốc mùi khủng khiếp. Tristan đang gắng lên boong và cố kéo cái ngà qua mạn tàu thì Asgaard giữ anh lại và nhốt anh vào cabin, cắt gã Mexico canh gác.
Trong cơn sốt, Tristan rơi vào tình trạng thèm khát bí ẩn nhưng anh không được chuẩn bị chu đáo cho nó, với anh mọi thứ trên cõi trần gian cả sống  cũng như chết đều có tỷ lệ như nhau, anh không nhận ra bất cứ cảm giác có ý nghĩa nào trong bàn chân trần của anh ở cuối giường, hay đại dương ở dưới mũi ai, lúc nào cũng là đêm dù đang là giữa trưa, máu ở cuối cái ngà  voi to tướng kia không là của con thuyền, nó chảy qua mạn thuyền rồi không biết vì sao trở lại đầu con voi. Susannah đến như một bóng ma gợi tình màu hồng nhạt, dạ con của cô phủ kín anh, nước mặn như đang phun ra từ rầm néo buồm cho đến lúc anh cũng thành bóng ma, và anh trở thành đại dương, bản thân Susannah, con ngựa đang nhảy chụm bốn vó dưới người anh, cả một rừng ngựa biển dưới anh, gió xé toạc cả cánh buồm lẫn mặt trăng lơ lửng bên trên, và bóng tối len ở giữa thật nhẹ nhàng.
Anh hồi phục rất nhanh, đúng lúc họ đến lối vào eo Malacca và bơi trong làn gió nhẹ, thuận buồm tới Singapore. Ngà voi đem bán hạ giá trong một hội nghị  trên thuyền, lời lãi không ít và các thương nhân Trung Hoa sợ bị giết nên canh chừng cuộc mặc cả. Tristan nằm dài, gầy gò như một sợi dây cáp vì đau ốm, nhưng đầy uy quyền. Anh đồng ý nhận với giá quá cao chở một hòm thuốc phiện đi San Francisco, có một trong các nhà buôn đi kèm. Asgaard tìm cách thoái thác nhưng đến bữa trưa Tristan chia đều tiền lãi bán ngà voi cho toànbộ thuỷ thủ, dành một phần đặc biệt cho ông nội là chủ chiếc thuyền. Anh nói tiền lãi thuốc phiện cũng chia như thế và Asgaard mơ ước một nông trại nhỏ bên bờ biển Đan Mạch có thể dễ dàng thuộc về tay anh ta. Những anh chàng Cuba say sưa nghĩ gia đình họ sẽ sung sướng  biết bao với sự giàu có mới mẻ này. Chỉ có Tristan và gã Mexico là vất vưởng, chẳng lo gì đến việc tiếp theo với đồng tiền trước họ, vì họ chẳng muốn dùng số tiền ấy mua gì, người ta đoán rằng gã Mexico nghĩ đến đất nước yêu qúy và xa  xôi mà đã không thể trở về mà không bị tội chết. Chỉ có Chúa Trời mới biết Tristan muốn gì ngoài việc mong người chết sống lại, đầu óc anh đầy tàn tích của cuộc chém giết, một thành phố hoặc một khu rừng cháytrụi, một mô sẹo lạnh ngắt.
Chiếc thuyền buồm nhắm hướng bắc qua biển Nam Trung Hoa, đỗ ở Manila lấy nước ngọt và đồ tiếp tế. Người đi kèm thùng thuốc phiện rất sợ bến cảng bỉ ổi này, nên Tristan phải cắt Asgaard và hai gã Cuba vũ trang súng trường trên boong. Sau đó, Tristan xuống cabin và viết một bức thư ngắn nhưng là đòn chí tử cho Susannah (chồng cô đã chết hẳn rồi, xin đi lấy người khác) rồi lúc đi gửi bưu điện, anh và gã Mexico gặp viên thuyền trưởng một tàu nhanh chạy hơi nước họ đã gặp trong cuộc nhậu nhẹt say sưa ở Manila. Trước lúc rạng đông, trên đường về thuyền họ chạm trán bốn kẻ côn đồ gần vũng tàu đậu vàct đã chết nếu gã  Mexico không tước vũ khí một tên, trong lúc Tristan tấn công tên to lớn nhất. Gã Mexico chém phăng đầu tên côn đồ bằng chính con dao của hắn, cứu Tristan đang bị bóp nghẹt cổ, làm những tên khác bỏ chạytán loạn nhưng Tristan bị thương nặng vào chân, một nhát chém sâu qua một bên đầu gối cắt đứt gân. Gã Mexico buộc garô cho Tristan, và họ vừa hát inh ỏi vừa trở về xuồng rồi lảo đảo bơi về chỗ neo thuyền. Lúc họ đến Hawaii vết thương đã lành, nhưng từ đó trở đi Tristan đi khập khiễng.
Trong sáu năm sau đó, ngoài tốp thuỷ thủ ở xa của anh, không ai biết nhiều về Tristan, trừ một vài chi tiết. Mọi người càng bực mình hơn vì sự kém cỏi của họ, chúng ta biết anh đến San Francisco, rồi nhắm hướng nam đến Panama, định qua con kênh mới đào nhưng trận lở đất ở Gaitland Cut đã tạm thời đóng con đường này, anh phải đi vòng Horn và đặt thêm một máy phụ chạy hơi nước nhỏ ở Rio. Trong ba năm sau đó ở Caribean, chiếc thuyền buồm là thuyền buôn tương đối ổn định, chạy từ Bermuda qua Martinique đến Cartagena. Tristan mua một nông trại nhỏ ở Isla de Pinos rồi lên đường đi Dakar, phiêu lưu chuyến nữa cho chính phủ Anh trong năm cuối cùng của cuộc chiến. Anh đi vòng mũi Hảo Vọng trở về Mombasa, đưa một phụ nữ Galla ra nước ngoài một tuần lễ, nhưng cô ta sợ con thuyền chòng chành và đòi lên bờ ở Zanzibar với một túi nhỏ đựng vàng. Anh lặp lại việc chở ngà voi và thuốc phiên khi lại nhằm hướng đông đến Singapore, Manila, Hawaii và San Francisco, xuôi xuống qua kênh đào đã thông vào cuối năm 1921, rồi từ đấy trở về Havana, ở đó Asgaard và tốp thuỷ thủ còn lại chia tay với anh, trừ gã Mexico. Anh ở nông trại của mình vài tháng và lúc về Havana, anh biết tin ông nội anh mất từ năm năm trước, còn Ludlow bị đột quỵ, ông đang mong anh về nhà để có thể gặp nhau trước khi ông qua đời. Tristan và gã Mexico thuê một tốp thuỷ thủ khác rồi lên đường đi Vera Cruz, lúc này gã Mexico đã đủ tiền để tạo quyền lực riêng cho mình. Tristan để gã Mexico trông nom con thuyền buồm, anh cưỡi ngựa và đi tàu hoả lên miền Bắc, đến nơi vào tháng Tư năm 1922, vẫn cháy nắng, khập khiễng, lòng không yên ổn và nhìn đời bằng con mắt hờ hững nhất.
Chúng ta khó mà hiểu hết sự mãn nguyện không nói nên lời của Ludlow trong một chiều tháng Tư ấm áp, ông và One Stab ngồi ở ngoài hiên nghe nhạc từ chiếc radio, bỗng thấy con ngựa của Tristan vòng quanh đống tuyết đang tan trên đường rồi tế lên chui qua cổng. Tristan nhảy từ trên ngựa xuống và đỡ lấy người cha từ trên hiên lao vào vòng tay anh, anh nhắc đi nhắc lại với cha, nói mãi nhưng ông già lúc này đã thực sự không thốt nên lời vì cơn đột quỵ. One Stab ngước mắt nhìn chăm chú và cảm nhận những giọt nước mắt đầu tiên của con người thô bạo đến thê' lúc cảm nhận sự hài lòng của Ludlow. One Stab bắt đầu hát. Decker chạy từ bãi quây súc vật về, cả Tristan và Decker đều cố nhấc bổng nhau lên. Nghe tiếng ồn ào, Pet từ trong bếp chạy ra và cố cúi chào vì Tristan đã ôm chầm lấy chị. một cô gái trạc mười sáu tuổi có mớ tóc dài buộc túm kiểu đuôi ngựa, mặc quần áo nam giới chạy vòng góc nhà xách bộ cương, nước da ngăm ngăm của cô sạm nắng gió nhưng không hẳn là người da đỏ. Cô nhìn Tristan chằm chặp, anh bắt chợt cái nhìn của cô nhưng ngay lúc đó cô lảngđi ngay. Decker nói đấy là Isabel, con gái anh nhưng tính nó nhút nhát.
như lặng lẽ. Ludlow viết bằng phấn những câu hỏi lên tấm bảng đá đen. Tóc ông bác trắng song dáng người vẫn thẳng. Decker ngoảnh nhìn vào nơi xa giải thích với Tristan rằng mẹ anh đang ở Rome, rồi ngừng lại lưỡng lự, sau đó nói thêm rằng Alfred và Susannah đã lấy nhau cách đây một năm, họ đang đi du lịch tuần trăng mật kéo dài khắp châu Âu và sẽ ở Cap d'Antibes suốt mùa hè. Decker nhẹ cả người và uống một ngụm lớn khi Tristan có vẻ chẳng bận tâm. Tristan đi một vòng trên bãi cỏ, nói anh muốn phi ngựa và hy vọng họ sẽ không quá say trong bữa trưa. Anh phi nước đại ngược thung lũng hẹp dẫn đến con suối trong hẻm núi. Lúc anh đến và xuống ngựa, vẫn còn dấu vết đống tuyết phủ trên mộ Samuel, một con ác là bay vụt khỏi tảng đá. Anh ngắm những hoạ tiết vô hình mà con chim tạo thành lúc bay vút lên trong không khí, đến tận mỏm hẻm núi trên đầu anh. Anh thấy mình chẳng làm được điều gì tốt lành cho thế giới bên kia vì nấm mồ dưới chân anh chỉ là tuyết, đất, và một tấm bia đá xám xỉn vì thời tiết. Trên đường về nhà, anh ngắm Isabel đang chải lông cho ba con ngựa non dưới ánh mặt trời. Decker gọi cô là Isabel Hai để khỏi nhầm với mẹ của Tristan. Anh hỏi cô gái con lửng đâu, cô nói con vật đã mất tích nhưng con cái nó vẫn còn sống sau vườn quả. Cô dẫn Tristan vào chuồng ngựa và chỉ cho anh con cún Airedale ông Ludlow đã mua tặng sinh nhật cô. Dù mới mười tuần tuổi, con chó săn đến cắn Tristan và anh vỗ vỗ nó cho dịu dần, cho đến lúc nó nhay nhay tai anh. Rồi anh nhìn cô gái thân mật làm cô đỏ bừng mặt và nhìn xuống chân.
Đến bữa trưa Ludlow cắt thịt cừu một cách trịnh trọng rồi viết lên bảng "Kể chuyện cho chúng ta nghe" và đưa cho Tristan. Lạ lùng thay, và giống như bất cứ những người phiêu lưu chẳng phải vì thích mạo hiểm mà chỉ vì sự thôi thúc của cả thể xác lẫn tâm hồn, Tristan chẳng thấy gì quá ư đặc biệt trong bảy năm qua của anh. Nhưng anh có một ý nghĩ hoàn toàn quái gở về những điều cả bàn muốn nghe nên anh kể cho cha việc chặt đầu tên Philippines, trận bão lớn ở ngoài khơi quần đảo Marsalk, con rắn cuộn mồi anh mua trong lúc say rượu ở Ricife, có thể cuộn quanh cột buồm chặt đến mức không thể gỡ ra, cho đến lúc họ phải đưa một con lợn con đến dứ, vẻ đẹp của mấy con ngựa anh đã để lại cho tốp thuỷ thủ của anh chăm nom ở Cuba, dân Singapore ăn thịt chó ra sao làm mọi người ngồi quanh bàn sửng sốt trừ One Stab, lão hỏi thăm Tristan về châu Phi. Sau bữa trưa, anh phát quà để trong túi yên, anh đeo quanh cổ One Stab chuỗi vòng bằng răng sư tử, chỉ mấy ngày sau lão đã phi ngựa ba ngày liền tới Fort Benton để khoe chuỗi vòng với Người Nhìn Tinh Như Chim. Tristan hấp tấp đưa chiếc nhẫn gắn hồng ngọc định tặng mẹ cho Hai, anh đeo vào ngón tay đeo nhẫn của cô và hôn lên trán cô. Cả bàn ăn lặng ngắt và Pet định can nhưng Decker bảo chị thôi đi.
Đêm khuya hôm ấy, lúc mọi người đã đi ngủ, Tristan lang thang mãi trên đồng cỏ dưới ánh trăng. Tuyết loang lổ thành những mảng trắng quái gở và xa tít về phía tây, anh có thể nhìn thấy những ngọn núi trắng hơn của dãy Rockies. Anh lắng nghe tiếng sói tru, tiếng lách cách lúc truy đuổi và thỉnh thoảng một tiếng hú ngắn. Nghe thấy tiếng con cún con sủa ăng ẳng ở đàng sau gần bãi quây, anh vào chuồng ngựa và bế nó lên. Anh mang nó vào trong nhà rồi đưa vào phòng riêng, đặt nó lên tấm da và quây cho nó một cái ổ bằng chăn bông, chống lại cái rét ban đêm. Sau đó Tristan ngủ cho đến nửa đêm, lúc con cún rên rỉ và trong ánh trăng tràn qua cửa sổ, anh thấy Hai đang đứng ở chân giường. Anh nhoài ra nắm lấy tay cô và lát sau, cô hoà vào giấc ngủ say sưa, không mộng mị của anh. Cuối cùng thì những nỗi đau gây ra cho nhau và mọi sự lẻ loi đang biến dần khỏi cõi đời.
Cuộc đời Tristan chuyển động theo thời gian với số gia của bảy: lúc này anh đã có bảy năm từng trải, một giai đoạn có một không hai và quý báu trong đời anh, để rồi trong tương lại anh sẽ trở lại khoảnh khắc này, những chi tiết vụn vặt của cuốn sách cuộc đời được hồi tưởng từ từ để mỗi trang được lật giở với sự háo hức nhất định. Không có thái độ cô lập, và điều cao quý hơn là những người anh yêu thường, nhưng họ chỉ hiểu thấu đáo khi anh đã ra đi, những người đã đưa anh đến chân lý và tình cảm ấm áp. Trong buổi sáng đầu tiên ấy, anh có thể nhìn thấy họ rõ ràng từ cửa sổ sau khi Hai chui vội vào chiếc áo choàng ngủ và hôn anh rồi ra khỏi phòng. Lúc đầu có tiếng huyên náo khó xác định ở mãi trong đồng cỏ, chứng tỏ chiếc Ford cũ kỹ đang xóc nảy trên những hòn đá và chạy qua lớp bùn thành những vòng lớn. One Stab ngồi ở tay lái và Ludlow mặc áo khoác bằng da bò rừng ngồi thẳng người cạnh lão. Decker dựa vào chuồng ngựa, đội chiếc mũ len Irish, một làn khói sớm trong khoảng ánh sáng mặt trời và tiếng cọ mũi sột soạt của con bò đực Hereford qua các thanh hàng rào. Pet vừa rắc thóc cho gà và mấy con ngỗng, vừa xuỳ xuỳ đuổi con cún đang chạy theo đàn gà. Lúc anh xuống ăn sáng, cái bếp lò đun củi ấm áp và ánh mặt trời tuôn chảy qua cửa sổ hướng nam cho thấy phong cảnh của thung lũng. Hai rót cà phê cho Tristan, anh nhìn vào cái bát sành đựng cá trích là món Roscoe Decker rất mê và lấy một miếng với hành dầm. Hai dọn cá hồi rán mà One Stab mới đánh lúc tảng sáng cho anh. Lúc cô rửa bát đĩa, Tristan nhìn chằm chặp vào lưng cô và mớ tóc đen bóng tết một cái đuôi sam. Anh nhắm mắt lại và trong giây lát, sàn nhà tròng trành bên dưới anh như biển cả, anh như ngửi thấy không khí trong lành của biển khơi lúc thuỷ triều phương bắc xuống thấp. Anh mở mắt và mỉm cười hỏi Hai có đồng ý lấy anh không, như thế sẽ tránh được chuyện chướng tai gai mắt trong nhà vì những chuyến đến thăm ban đêm. Cô lau khô bàn tay và cầm chiếc nhẫn hồng ngọc trên bậu cửa sổ như đang giữ ly rượu lễ và đáp vâng, nếu bản thân anh tin chắc, và nếu anh chưa tin chắc cũng vâng.
Đám cưới tổ chức trọng thể vào đầu tháng Mười, hoãn lại để chờ Isabel kịp về từ Châu Âu và do Pet cố nài, vì sợ Tristan sẽ bất chợt bỏ đi bất cứ lúc nào anh thích, ý nghĩ ấy khác xa với suy nghĩ của anh. Tristan đã mất cả mùa hè xây một nhà nghỉ trên hẻm núi, nhìn xuống dòng suối. một tốp thợ mộc Na Uy từ Spokane đến cùng ba thợ xây đá Italy từ Butte. Căn nhà thiết kế giản dị, có một phòng chính đồ sộ, căn bếp và lò sưởi ở một đầu, đầu kia là một lò sưởi bằng đá cạnh tường. có hai chái nhà, mỗi chái có ba buồng ngủ. Hai rất lúng túng vì quy mô nơi này. One Stab và Ludlow ngày nào cũng đi chiếc xe hơi rẻ tiền đến thăm và mang bữa trưa cho công nhân. Ludlow đã viết được những bức thư hơi dài, đầy thuyết phục và cứ sau bữa tối, Tristan lại trả lời bên lò sưởi.
Ở Montana, cuộc khủng hoảng đến sớm mười năm. Tại các vùng đồng bằng phía đông, thị trường ngũ cốc phát đạt nhờ ảnh hưởng của chiến tranh, nay suy sụp hoàn toàn vì bị hạn hán hai năm liền. Nhiều ngân hàng phá sản và thị trường ngựa lạm phát vì sự hăng hái nhập ngũ đã giảm. Decker đã giảm số gia súc đăng ký ở Herefords, nhưng thu nhập duy nhất của nông trại từ ngựa giống vẫn phải cậy nhờ vào những người như Arthur Thít chó, loan tin Decker gây giống ngựa thuần chủng. Lứa con cháu không khoẻ mạnh và sung sức như ngựa đua nhung là loại ngựa thanh nhã và cưỡi rất thích, mặt chúng đẹp và đầy khí thế. Chúng chạy rất nhanh trong cuộc đua một phần tư dặm. Tristan và Decker đem chúng đua ở chợ phiên Montana, Idaho, Washington và Oregon. Với số tiền được cuộc, Tristan mua  cho Ludlow chiếc xe du lịch Packard mà One Stab lái rất đường hoàng và cẩn thận, lão vẫn đeo chuỗi vòng răng sư tử. Người từ các nơi xa như San Antonio, Kingsville, Texas đến mua ngựa nhiều đến mức Decker và Ludlow đâm lưỡng lự, nhưng Tristan giải quyết công việc rất khôn ngoan.
Lễ cưới mùa thu đã trở thành kỷ niệm, vắng mặt Alfred và Susannah. Thực ra, Tristan gặp Susannah từ bốn năm trước, trong bữa tiệc Giáng sinh tao nhã song vui nhộn. thỉnh thoảng Alfred đến mỗi khi có cuộc vận động trong khu vực của Thượng viện Mỹ, một cuộc đua mà anh chiến thắng ngon lành nhờ két bạc và ảnh hưởng của bố vợ. Không người nào – ngoài Pet và Hai – nhìn thấy nỗi sầu khổ của Susannah trong lễ Giáng sinh năm ấy. Cô vẫn không có con và khi các con của Tristan là Samuel Decker và Isabel Ba vuốt ve mái tóc vàng óng của cô trên hiên nhà, cô đã bật khóc.
Nền kinh tế quốc gia ngày càng phát sinh nhiều vấn đề và theo lời khuyên của Arthur, Ludlow rút dần vốn khỏi ngân hàng Helena và vì thiếu suy nghĩ, ông đem chôn vàng dưới một tảng đá lớn ở nền lò sưởi nhà Tristan. Tristan một mực đòi tự trang trải cho nông trại, một thói quen tuy ngạo mạn song dễ thương. Anh vẫn gửi thông báo đúng thể thức và tiền cho Susannah và cha cô, vì quyền sử dụng đất đai mà họ cùng sở hữu.