Dịch giả : PHONG ĐảO
Chủ biên : TANG DU
IX. Lưu Cơ - 1 -
Nhà Mưu Lược Xây Dựng Triều Minh

Lưu Cơ, tự Bá ôn, người Thanh Điền, Triết Giang. Sinh vào năm thứ tư niên hiệu Chí Đại, đời vua Võ Tông nhà Nguyên, đỗ tiến sĩ năm thứ tư niên hiệu Chí Thuận (công nguyên 1333) đời nhà Nguyên. Đến năm thứ hai mươi niên hiệu Chí Chính (công nguyên 1360) đời vua Huệ Tông triều nhà Nguyên, Lưu Cơ đã gần năm mươi tuổi, nhận lời mời của Chu Nguyên Chương đến Ứng Thiên, để trù hoạch quân cơ cho Chu Nguyên Chương, bắt đầu một cuộc sống huy hoàng, thông đạt, đem đầy bụng kinh luân của mình ra để thi triển. Lưu Cơ chết vào năm thứ tám, niên hiệu Hồng Võ (công nguyên 1375) đời vua Thái Tổ triều nhà Minh, hưởng dương sáu mươi lăm tuổi.
Về mặt quân sự, Lưu Cơ được mọi người gọi là nhà chiến lược, có thể so sánh với Trương Lương, Khổng Minh. Về mặt chính trị, ông được mọi người gọi là nhà tư tưởng. Trong văn học sử, ông được mọi người xem là một nhà thơ trứ danh cuối đời nhà Nguyên đầu đời nhà Minh. Ông là tiến Sĩ triều nhà Nguyên, được mời ra làm quan, nhưng đã từ chối sự tiến cử của Sở Tài, để trở thành một vị khai quốc nguyên huân của triều nhà Minh. Ông là người có tài dụng binh như thần, đoán việc rất sáng suốt. Nhưng đối với sự hoài nghi của nhà vua thì đành chịu bó tay. Mặc dù ông biết rút lui đúng lúc, để quy ẩn thoát thân, nhưng rốt cục không tránh được cảnh "hết chim bẻ ná, thỏ chết làm thịt chó săn". Cuộc đời của ông, rất đáng cho chúng ta tìm hiểu, nghiên cứu.
1. Năm Mươi Mới Xuống Núi
Tổ tiên của Lưu Cơ là Hào Môn đại tộc ở huyện Thanh Điền. Ông sơ của Lưu Cơ là Lưu Hào, học vấn uyên bác, rất có mưu lược. Lưu Hào thường làm Hàn Lâm Chưởng Thư cho triều nhà Tống. Sau khi triều nhà Tống bị diệt vong, người địa phương từng đứng lên tổ chức nhiều cuộc khởi nghĩa chống Nguyên, nhưng đều bị thất bại. Những người sống sót trong cuộc khởi nghĩa này đã bỏ chạy tứ tán, tìm nơi ẩn náu. Đối với cuộc khởi nghĩa trên, Lưu Hào tỏ ra rất đồng tình. Về sau, triều đình phái quan viên mang theo danh sách những người khởi nghĩa còn sống để bắt giữ và tịch thâu tài sản. Người sứ giả trên đường đi, ghé trọ tại nhà Lưu Hào. Ông bèn tìm hiểu tình hình rồi giả vờ ân cần tiếp đãi. Chờ cho người sứ giả uống rượu say, bèn khóa cửa lại rồi phóng hỏa đốt cháy ngôi nhà. Thế là danh sách tìm bắt những người khởi nghĩa bị cháy thành tro. Nhờ đó mà số người này tránh khỏi tai họa.
Lưu Cơ đã lớn lên trong một gia đình như thế, tất nhiên là được sự hun đúc rất tốt đẹp. Ngay từ nhỏ,  Lưu Cơ ham học, và đã đọc rất nhiều sách vở. Đối với sách của người xưa viết về thiên văn, địa lý, cách dụng binh để đánh giặc, ông say mê đọc mãi không khi nào rời khỏi tay. Việc chú tâm nghiên cứu sách vở mang đến nhiều lợi ích cho Lưu Cơ, chẳng những làm cho trí tuệ của ông được mở mang, mà còn thúc đẩy ông tha thiết muốn lập chí lớn, muốn xây dựng sự nghiệp cho mình.
Năm mười bốn tuổi, ông đã là một thiếu niên rất tài hoa. Cha ông mời mấy ông thầy đến để dạy, nhưng do những ông thầy này học vấn không cao, không thể thỏa mãn được những điều muốn học của Lưu Cơ, nên họ phải từ chức. Cuối cùng, cha ông mời được một danh nho có tài học uyên bác ở vùng Giang Nam, là Trịnh Phục Sơ đến dạy. Ông này cũng cảm thấy Lưu Cơ là một đứa trẻ khác hẳn những đứa trẻ bình thường.
Một hôm, Trịnh Phục Sơ cùng các học sinh của mình đang tìm hiểu về việc Khổng Tử đã đi chu du liệt quốc như thế nào, đã truyền đạo ra sao. Lưu Cơ bỗng đứng dậy, nói:
- Khổng Tử tuy là người có đạo đức cao, bản thân lại là người nước Lỗ, thế mà nước mình bị bại trận, vẫn không tìm cách cứu vãn được. Học nhiều mà lại vô vi thì có phải là một thư sinh vô dụng hay không? Người đại trượng phu không nên như thế!
Trịnh Phục Sơ nghe qua không khỏi kinh hoàng thất sắc. Sau đó ông nói với người cha của Lưu Cơ:
- Đây không phải là một đứa bé bình thường đâu. Sau này chắc chắn nó sẽ trở thành rường cột của quốc gia đấy!
Quả nhiên, đến năm thứ tư niên hiệu Chí Thuận triều nhà Nguyên (công nguyên 1333), với tuổi đời chỉ mới hai mươi ba, mà Lưu Cơ đã đỗ tiến sĩ, áo gấm về làng, và được cử làm Huyện Thừa huyện Cao An tại Giang Tây, cũng như được cử giữ chức Nho Học Phó Đề Cử tại Giang Triết.
Lưu Bá Ôn đã là một thiếu niên đắc chí, nên tha thiết muốn tận trung góp sức với triều đình nhà Nguyên, để làm nên những sự nghiệp oanh liệt. Nhưng lúc bấy giờ đang cuối triều nhả Nguyên, quan trường rất hủ bại, quan viên đều tham ô, cả xã hội đang lung lay sắp sụp đổ. Dù vậy, Lưu Cơ vẫn không cảm thấy nguy cơ bão táp sắp ập tới, và ngôi nhà đô sộ của triều nhà Nguyên sẽ sụp đổ tan tành. Ông một mặt tự lấy mình làm gương, luôn giữ thanh liêm, một mặt đấu tranh thẳng thừng với bọn tham quan ô lại. Nhưng ông ra làm việc chẳng bao lâu, thì bị người chung quanh ghét, tìm cách gièm pha và bài xích, đưa đi chỗ khác. Ông đã vấp phải một trở lực to lớn khi vừa bước ra cuộc đời. Ít lâu sau, do ông viết đơn tố cáo viên giám sát ngự sử không làm tròn trách nhiệm, nên đắc tội với thượng cấp bị đuổi về nhà.
Dù lần đầu tiên gặp trở lực trong quan trường, nhưng vẫn không làm cho người trẻ tuổi đầy nhiệt tình như Lưu Cơ chán nản. Trái lại, ông cho rằng do mình học thức còn quá nông cạn, kinh nghiệm xã hội chưa đủ chưa đi sâu vào cuộc đời, chưa hiểu rõ mọi sự hiểm ác trong quan trường, nhất là ông cũng nhận thức được triều đình nhà Nguyên do quá hủ bại, nên người ngay thẳng mới không có chỗ đứng chân, vậy đừng nói chi là làm chuyện gì khác. Bởi thế, trong những ngày trở về quê ẩn cư, ông đã ngày đêm nghiên cứu "Châu dịch", bát quái binh thư, chiến sách, như một kẻ đói khát cố nuốt lấy thức ăn. Ông cũng không quên giao du rộng rãi với các vị tân khách, bằng hữu để mở rộng ảnh hưởng của mình, chuẩn bị sẵn sàng bước trở ra xã hội lần thứ hai.
Lưu Cơ biết đã có cây ngô đồng thì không lo chi chim phượng hoàng không đến.
Quả nhiên, sau một thời gian trôi qua, tiếng tăm của Lưu Cơ ngày càng to, thậm chí có người còn cho rằng tài năng của ông có thể ví với Gia Cát Lượng. Do vậy, có nhiều văn sĩ ở Giang Nam đã đua nhau đến cửa xin chỉ giáo. Lưu Cơ cảm thấy ngày mình xuất đầu lộ diện sẽ không còn xa nữa.
Lúc bấy giờ là cuối đời triều Nguyên, sự mâu thuẫn trong xã hội hết sức gay gắt, nông dân ở các nơi đua nhau khởi nghĩa, chỗ này vừa yên thì chỗ khác nổi dậy. Hàn Sơn Đồng ở Dịch Thành (nay là Dịch Thành, Hà Bắc) và Lưu Phúc Thông ở Dĩnh Châu (nay là Phụ Dương, tỉnh An Huy) cùng khởi binh tại Nhữ Dĩnh, La Điền (nay là La Điền, tỉnh Hồ Bắc). Từ Thọ Huy khởi binh ở Kỳ Hoàng, Định Viễn (nay là Định Viễn, tỉnh An Huy). Quách Từ Hưng khởi binh ở Hào Châu, Thái Châu (nay là Đông Đài, tỉnh Giang Tô). Trương Sĩ Thành khởi binh ở Cáo Bưu... quân khởi nghĩa hết sức sôi nổi. Cứ cuộc khởi nghĩa này lại càng to hơn cuộc khởi nghĩa trước.
Trong khi đó, tại vùng Giang Triết có Phương Quốc Trân là người Hoàng Nham, do bị vu cáo thông đồng với giặc, nên tức giận giết chết kẻ thù của mình, rồi dẫn ba anh em quy tụ hải tặc đông đến mấy nghìn người, liên tục khuấy phá ở vùng Giang Triết. Triều đình nhà Nguyên mấy lần phái binh để tiêu diệt nhưng đều không thành. Ngay đến một Bột Thiếp Mộc là Hành Tỉnh Tả Thừa Giang Triết cũng suýt bị chúng bắt sống. Trong khi không còn cách nào khác hơn, triều đình hứa cho Phương Quốc Trân được làm quan và được hưởng bổng lộc cao. Nhưng Phương Quốc Trân là người có bản tánh ngoan cường, mấy lần đầu hàng rồi mấy lần phản lại, khiến nhân tâm hoang mang. Hành tỉnh Giang Triết thấy Phương Quốc Trân như thế, nên đã nghĩ tới Lưu Cơ, tiến cử ông làm Đô Sự tại Nguyên Soái Phủ. Lưu Cơ đã ở yên một chỗ ngoài mười năm không bước ra xã hội, lần này cảm thấy trước mắt mình như bừng sáng lên. Ông vừa đến nhiệm sở, liền chủ trương dùng vũ lực để tiêu diệt Phương Quốc Trân. Ông cho rằng anh em họ Phương đứng lên làm loạn, không kể gì đến ân huệ của triều đình từng ban cho, vậy "không tiêu diệt thì không thể răn đe người hậu thế”. Đồng thời, ông cũng hoạch định phương án tiểu trừ.
Phương Quốc Trân từ lâu đã nghe tiếng Lưu Cơ là người có tài năng, nên rất lo sợ, vội vàng phái người đem một số lớn vàng bạc bảo vật đến hối lộ cho ông. Nhưng Lưu Cơ tuyệt đối không nhận. Phương Quốc Trân lại sai người đi theo đường biển lên Bắc Kinh, hối lộ cho một yếu nhân có thế lực tại kinh đô, khiến triều đình quyết định sẽ tiến hành phủ dụ Phương Quốc Trân và ban cho chức tước. Lưu Cơ dù nằm mộng cũng không ngờ được chuyện lại xảy ra như thế. Ông đang bố trí binh lực thì triều đình xuống lệnh khiển trách ông tự tiện tác oai tác phúc. Việc đoạt mất binh quyền của ông là chuyện không nói, họ còn đưa ông giam lỏng tại Thiệu Hưng. Lưu Cơ quá tức giận, từ quan trở về quê hương của mình tại Thanh Điền.
Năm thứ mười sáu niên hiệu Chí Chính (công nguyên 1356), Hành tỉnh của triều nhà Nguyên lại cử Lưu Cơ giữ chức Đô Sự, để ông đi phủ dụ Ngô Thành Thất và đồng bọn khởi nghĩa tại An Sơn. Lưu Cơ tự chiêu mộ binh nghĩa dũng, tổ chức thành bộ đội, rồi áp dụng cả hai phương pháp cứng rắn và xoa dịu: Ai đầu hàng triều đình thì sẽ được khoan dung, thậm chí còn cử làm quan. Ai chống lại mệnh lệnh của triều đình thì bắt được sẽ bị xử tử. Do đó, cánh nghĩa quân này đã bị tiêu diệt.
Đến năm mười bảy niên hiệu Chí Chính (công nguyên 1357), nông dân ở vùng rừng núi Triết Đông nổi lên khởi nghĩa. Hành tỉnh lại triệu Lưu Cơ đi tảo trừ. Cùng với Thạch Mạt Nghi Tôn, ông giữ chức Hành Khu Mật Viện Phán Quan tại Giang Triết, cùng giữ Xứ Châu. Kinh Lược Sứ là Lý Quốc Phượng dâng sớ khen ngợi tài cán của Lưu Cơ, xin triều đình nhà Nguyên trọng dụng ông. Nhưng bọn quý tộc đang chấp chính trong triều đình sợ đắc tội với Phương Quốc Trân, nên chỉ để ông làm Tổng Quản Phủ Phán, chứ không để ông chỉ huy quân đội. Lưu Cơ thấy tài năng của mình không được phát huy, nên lại bỏ quan trở về Thanh Điền.
Các nhà giàu tại Thanh Điền sợ Phương Quốc Trân tới cướp bóc, giết chóc, nên đã đua nhau nương tựa vào Lưu Cơ, tổ chức một đạo võ trang riêng của địa chủ trong vùng. Họ xây hào lũy để tự bảo vệ gia sản của mình. Quân đội của Phương Quốc Trân thấy vậy không dám xâm phạm.
Tài năng của Lưu Cơ không được triều nhà Nguyên sử dụng tốt, nên không thể phát huy. Trong những ngày ẩn cư tại Thanh Điền, Lưu Cơ tuân theo lời cổ huấn của Khổng Tử: "Nước có đạo thì ra làm quan, nước không đạo thì nằm nhà đọc sách". Ngày ngày ông luôn đọc sách như lời dạy của người xưa, chờ cơ hội gặp người tri ngộ. Tất cả những sách thuộc về thiên văn, binh pháp, Tứ thư, Ngũ kinh, thi từ, văn chương, không sách nào mà ông không đọc. Ông còn yêu thích làm thơ, viết văn để bộc lộ tâm trạng có tài mà không gặp thời của mình, cũng như tấm lòng muốn báo quốc nhưng lại không có điều kiện. Trong bài thơ "Cảm hoài", ông viết:
Ngô thiên áp Tần đức.
Thoại khí sinh nghệ đang,
Tu thân sĩ thiên mệnh,
Vạn thạch toàn kì danh
Dịch:
Trời Ngô đè Tần đức,
Khí lành sinh núi xinh,
Tu thân chờ mệnh trời,
Muôn đá giữ thanh danh
Trong bài thơ dùng chữ "Tần" để ám chỉ triển nhà “Nguyên", vừa phân tích chính xác thời cuộc, lại vừa bộc lộ tình cảm trong lòng mình.
Trong bài thơ họa với Trương Đức Bình, ông viết:
Giả Nghị tấu thư ai tự khóc,
Khuất Nguyên tâm sự khổ thùy luân.
Dịch:
Giả Nghị tâu vua buồn tự khóc,
Khuất Nguyên nỗi khổ nói cùng ai?
Trong "Ba bài cảm hứng” ông viết:
Càn khôn xứ xứ tinh kỳ mãn,
Nhục thực hà nhân vấn thái di?
Dịch:
Càn khôn cờ xí rợp trời,
Người ăn thịt cá đời nào hỏi (kẻ hái rau) vi.
Lưu Cơ cảm thán những cuộc khởi nghĩa sôi nổi của nông dân, tuy đã khuấy động cuộc sống yên tĩnh của giai cấp địa chủ, nhưng đối với bọn quan liêu cao cấp, tâm hồn đã chai sạn, tham sống sợ chết, vẫn nửa tỉnh nửa mê, không quan tâm chi cả. Đối với những chí sĩ thương nước thương dân như Giả Nghị, Khuất Nguyên, thì triều đình lại không hiểu được tâm trạng của họ. Ông oán trách triều đình không hỏi đến những người đi hái rau vi để sống, không dùng đến những người bụng đầy kinh luân như ông, cũng như những người có tuyệt kỷ đang ẩn cư trong dân gian, trong những túp "chòi tranh” thô lậu.
Lưu Cơ nhục mạ những cuộc nông dân khởi nghĩa ở khắp địa phương là đạo tặc, là một lũ cướp, và oán trách quân đội của triều đình trấn áp nông dân kỷ cương quá bại hoại, không ra hồn gì. Trong bài "Ưu hoài", ông viết:
Quần đạo tung hoành bán Cửu Châu,
Can qua mãn mục kỷ thời hưu?
Quan tào các hữu doanh sinh kế,
Tướng soái hà tằng vị quốc mưu?
Mãnh hổ phong lang an tiến thực,
Nông phu điền phụ khổ chu cầu.
Ức cường phù nhược tu thiên thảo,
Khả quái vô nhân tá trợ trù
Dịch:
Bọn cướp tung hoành nửa Cửu Châu (1),
Can qua khắp chốn biết bao lâu?
Quan viên chỉ biết vơ đầy túi,
Tướng soái mấy ai vì nước đâu?
Cọp dữ, sài lang dược hiến dâng,
Nông phu rẩy bái hạch sách dân.
Trị cường giúp nhược trời thảo phạt,
Chỉ lạ không ai giúp đỡ dân.
Chú thích (1) Tức nước Trung Hoa
Trong bài họa thơ “ngày xuân trong sáng" của Thạch Mạt Công, ông viết:
Xích Mi thanh độc chung hà tại,
Bạch mã huỳnh cân mạc mạn cuồng.
Tướng soái như lâm tu phát túng,
Thái bình công nghiệp vọng Tiêu Trương.
Dịch:
Xích Mi cưỡi nghé nay còn đâu,
Ngựa trắng khăn vàng chớ ngông cuồng.
Tướng soái như rừng cần giữ nếp,
Thái bình chỉ đợi Tiêu và Trương (1).
Chú Thích: (1) Tức Tiêu Hà và Trương Lương.
Trong bài thơ họa lại bài "Cảm hứng" của Mạnh Bá Chân, đối với quân khởi nghĩa quàng khăn đỏ đi theo Chu Nguyên Chương, ông gọi thẳng chúng là đạo tặc và viết:
Ngũ tải Giang Hoài bách chiến trường,
Càn khôn cử mục tống kham thương.
Dĩ văn đạo tặc đa ư nghỉ,
Vô nại quan quân bạo tự lang
Dịch:
Năm năm trăm trận ở Giang Hoài,
Nhìn khắp nơi nơi thực thảm thay.
Nghe đồn đạo tặc đông như kiến,
Khổ nỗi quan quân ấy họa tai!
Trong bài “Nghe Cao Bưu nộp tiền", ông viết:
Văn đạo Cao Bưu dĩ triệt vi,
Khước sầu Hoài Điện vị toàn quy.
Thánh triều nhã trọng hoài nhu sách,
Chư tướng dương tri lổ lược phi.
Dịch:
Nghe đồn Cao Bưu đã giải vây,
Hoài Điện còn lo thiếu người này.
Thánh triều ban lệnh nên mềm mỏng,
Vậy tướng cướp dân ấy tội đày.
Những chữ “Giang Hoài", “Hoài Điện” đều chỉ Chu Nguyên Chương, còn "thánh triều” là chỉ triều nhà Nguyên. Lưu Cơ oán trách trong những cuộc nông dân khởi nghĩa, "quan quân hung bạo như sài lang". Những tướng lãnh chỉ huy quân đi trấn áp chỉ lo "cướp bóc”, không cần biết việc “cướp bóc" sẽ dẫn đến hậu quả tai hại như thế nào. Từ trong những câu thơ trên, chúng ta có thể thấy được Lưu Cơ trước khi theo Chu Nguyên Chương thì lập trường, tư tưởng và tình cảm của ông, đều đứng về phía triều đình nhà Nguyên. Nhưng qua đó chúng ta cũng có thể thấy được, Lưu Cơ đã nhận thức được nền chính trị cửa triều nhà Nguyên đã hủ bại, cũng như quan viên toàn là bọn bất tài. Trong bài “Lời của người bán cam” ông đã có ngụ ý sâu xa, chỉ trích quan lại triều nhà Nguyên là “Vàng ngọc bên ngoài, nhưng bên trong thì hủ bại", “giặc cướp nổi lên mà không biết bình định, bá tánh khốn khổ mà không biết cứu tế, quan lại làm bậy mà không biết ngăn cấm, thi hành pháp luật mà không biết lý lẽ, ngồi không ăn cơm mà không biết nhục".
Qua ảnh hưởng sâu rộng của bao nhiêu cuộc khởi nghĩa nông dân đại quy mô, và trải qua hơn hai mươi năm khi bị biếm, nên lúc được đưa lên cao trong hoạn trường, đã khiến người tráng niên Lưu Cơ vốn am hiểu quân sự và có chính nghĩa, đối với sự thống trị dị tộc của triều đình nhà Nguyên, dần dần đã có sự giác ngộ, nên niềm tin đối với triều đình bắt đầu lung lay. Ông ngưỡng mộ những nhà quân sự kiệt xuất thời cổ như Gia Cát Lượng, Tổ Địch, Nhạc Phi. Trong cuộc sống đầy buồn khổ, ông viết những bài như "Điếu Gia Cát Võ Hầu phú”, "Điếu Tổ Dự Châu phú”, “Điếu Nhạc tướng quân phú”, trong từng câu từng chữ, ông bộc lộ sự kính nể và ngưỡng mộ của ông đối với những vị anh hùng dân tộc này, và cũng bộc lộ sự chán ghét của ông đối với giai cấp thống trị quý tộc Mông Cổ. Đấy chính là sự chuẩn bị về mặt tư tưởng để ông đi theo Chu Nguyên Chương.
Trong sách "Úc Ly Tử", ông đã dùng hình thức ngụ ngôn để bày tỏ học thức uyên bác của mình, lại thể hiện tư tưởng sáng tạo rất phong phú, giúp người xem phải tự cảnh tỉnh một cách sâu xa. "Úc Ly Tử" vừa là tên sách, vừa là sự tự xưng của tác giả, nội dung đề cập đến nhiều mặt rất rộng, từ cá nhân đến gia đình, xã hội, quốc gia. Từ chính trị đến kinh tế, quân sự, ngoại giao, từ tư tưởng đến lý luận, thần tiên quỷ quái. Gần như cái gì cũng bao quát cả. Nó vừa là một sự tổng kết kinh nghiệm trong những ngày ra làm quan ở những giai đoạn trước, vừa là cơ sở lý luận thâm hậu cho việc lập quốc trị loạn sau này.
Quyển "Bách Chiến Kỳ Lược" là một bộ sách trước tác về lý luận quân sự, cũng được ông viết ra trong thời kỳ đó. Chỉ đáng tiếc là bộ sách này về sau bị Chu Nguyên Chương giữ kín trong triều đình, không thể lọt ra ngoài. Và hiện nay thì không còn thấy nó đâu nữa, chỉ còn lưu truyền trong dân gian một số quyển chép tay mà thôi.
Khoảng những năm niên hiệu Nguyên Phong đời vua Tống Thành Tông, từng tổng hợp các quyển sách binh thư thời cổ lại viết thành quyển "Võ Kinh". Quy định sáu bộ binh thư là "Tôn Tử”, "Ngô Tử”, "Lục Thao", “Tư Mã Pháp", "Tam Lược", "Úy Liêu Tử”, "Lý Vệ Công Vấn Đối", là những quyển sách mà người dụng binh cần phải đọc. Riêng quyển "Bách chiến kỳ lược" chính là bút ký của Lưu Cơ khi đọc "Võ Kinh". Đồng thời, trong quyển bút ký này, ông còn sưu tập tất cả những tư liệu quan trọng tản mát trong số sách từ đời Tiên Tần cho tới đời Ngũ Đại, kéo dài 600 năm. Một điều đáng nói hơn, ấy là trong quyển bút ký này, Lưu Cơ đã dựa vào kinh nghiệm thực tiễn và tâm đắc của mình trong vấn đề quân sự, đề xuất một số kiến giải rất có giá trị.
Trong quyển “Bách chiến kỳ lược" Lưu Cơ đã kế thừa và phát triển những tinh hoa trong tư tưởng biện chứng về quân sự của các binh gia thời cổ. Một mặt ông phản đối việc lạm dụng lực lượng quân sự, và đứng từ góc độ trị quốc để nói đến vấn đề trị quân, cũng như đứng trên lập trường của một nhà chính trị, để bàn về vấn đề quân sự. Ông cho rằng những người hiếu chiến chắc chắn sẽ bị diệt vong. Mặt khác, ông cực lực nhấn mạnh về mặt chiến lược, chiến thuật, chủ trương khi sống trong yên ổn phải nhớ đến hồi nguy nan, khi sống trong bình yên, phải nhớ đến hồi loạn lạc, "bên trong phải chấn chỉnh văn đức, bên ngoài phải củng cố võ bị". Về mặt chiến lược Lưu Cơ còn chủ trương "người thiện chiến sẽ ít kẻ thù”, và cho rằng "người ít kẻ thù là người hưng thịnh, còn người nhiều kẻ thù là người sẽ bị diệt vong". Ông phản đối việc gây thù địch với khắp mọi nơi, và chủ trương phân hóa làm tan rã quân địch, lấy địch chế địch.
Trong quyển "Bách chiến kỳ lược", những quan điểm biện chứng về quân sự như trên, vẫn thường thấy luôn. Cho dù những tiêu đề trong sách cũng bộc lộ rõ điểm này, như: tín chiến dữ giáo chiến, công chiến dữ thủ chiến, tiến chiến dữ thoái chiến, hoãn chiến dữ tốc chiến, phân chiến dữ hợp chiến, cơ chiến dữ bảo chiến (đánh khi có lòng tin và đánh để dạy tướng sĩ, đánh để tấn công và đánh để giữ thành giữ đất, đánh để tiến lên và đánh để rút lui, đánh thong thả và đánh cấp tốc, đánh bằng cách chia quân ra và đánh bằng cách hợp nhất binh lại, đánh trong khi tướng sĩ đói và đánh trong khi tướng sĩ no)... Từng vấn đề một, ông đứng từ góc độ tương phản hoặc đối lập để giải thích rõ ràng nguyên tắc dụng binh. Ông đề xuất phép xây dựng quân đội bằng cách vừa có lòng tin vừa có sự giáo dục, việc ban ân và việc trừng phạt phải đi song đôi, nhất là trong vấn đề thưởng phạt cần phải nghiêm minh công bằng. Ông nêu ra hằng loạt những tình huống khác nhau và phương lược tác chiến linh hoạt, cơ động.
Dưới ngòi bút của các nhà sử học, Lưu Bá Ôn còn là một kỳ nhân, một thần nhân. Ông am hiểu sâu xa về “Dịch" học, có thể dựa vào hiện tượng thiên nhiên để đoán biết việc con người. Thậm chí có thể tiên đoán mọi việc, có thể hô phong hoán vũ, và xem ông là Gia Cát Khổng Minh của Thanh Điền.
Năm thứ mười chín niên hiệu Chí Chính triều đại nhà Nguyên (công nguyên 1359), Chu Nguyên Chương lãnh đạo một toán quân khăn đỏ trước sau chiếm lĩnh được Chư Ký, Cù Châu và Xứ Châu, cũng như trước sau đã tiêu diệt những cứ điểm quân sự bị cô lập của quân Nguyên ở phía Đông Nam. Lực lượng quân sự ở triều nhà Nguyên ở Triết Đông đã hoàn toàn bi tiêu diệt. Hầu hết các địa phương ở Triết Đông đều được bình định xong.
Chu Nguyên Chương phấn khởi, ra sức quy tụ các phần tử trí thức, các nhân sĩ nổi tiếng ở các địa phương. Ông hy vọng số người này sẽ phụ tá cho mình hoàn thành sự nghiệp lớn, giúp mình mở rộng địa bàn, ổn định trật tự xã hội.
Lưu Cơ là người rất có danh vọng ở Triết Đông, tất nhiên cũng là người được Chu Nguyên Chương mời về giúp cho ông ta. Nhưng do tư tưởng của Lưu Cơ phản đối quân khởi nghĩa khăn đỏ, và xem họ là "đạo tặc". Nhưng do thế lực của ông vừa yếu vừa cô lập, nên không thể chống cự với Chu Nguyên Chương. Do vậy, khi Chu Nguyên Chương phái người đến mời ông ra phụ tá, thì ông đã tìm lời khôn khéo để từ chối. Đến khi Hồ Đại Hải đánh chiếm được Xứ Châu, một lần nữa lại mang lễ vật trọng hậu, nhiều tiền bạc đến mời Lưu Cơ, nhưng ông lại dùng lời uyển chuyển từ chối một lần nữa, không chịu quy thuận. Về sau, viên Tổng chế xứ Châu là Tôn Viêm viết một bức thư dài đến mấy nghìn chữ, phân tích nhiều mặt lợi hại và nói rõ sẽ xóa bỏ hết những chuyện cũ đã qua, yêu cầu ông xuất sơn để vừa bảo toàn được tính mệnh của bản thân và gia đình, vừa có thể làm quan để chung lo việc thiên hạ. Cùng một lúc đó, các bằng hửu của Lưu Cơ cũng viết thơ đốc thúc, nên ông mới nhận lời mời của Chu Nguyên Chương.
Đứng trước tình hình quyết liệt như vậy, vào tháng ba năm thứ hai mươi niên hiệu Chí Chính triều nhà Nguyên (công nguyên 1360), Lưu Cơ cuối cùng đã quyết định đi Ứng Thiên Phủ (nay là Nam Kinh) để tìm hiểu thái độ của Chu Nguyên Chương xem đối với mình ra sao.
Lúc bấy giờ ông đã gần năm mươi tuổi. Mãi cho đến khi rời khỏi Thanh Điền, ông vẫn còn bán tín bán nghi. Có người khuyên ông nên dẫn bộ đội của mình đi theo, nhưng ông không bằng lòng. Ông trao bộ đội của mình lại cho người em ruột là Lưu Bệ và những gia nhân đắc lực lo việc chỉ huy. Ông bảo họ cần phải bảo vệ tốt quê hương, đề phòng Phương Quốc Trân kéo đến tấn công.