Ngày về của bọn họ (tt)

Ngưỡng nghe tin Diệu về, chưa kịp gặp, lại nghe nói Diệu bệnh. Ngưỡng xin Huỳnh ba viên tifomycine gửi cho Diệu. Những ngày cuối năm qua mau. Ngưỡng không dám nghĩ đến chuyện chờ đợi nữa. "Em chỉ muốn là em gái anh". Có lẽ đó là cách gỡ khó cho cả hai trước khi mỗi người trở về đời sống riêng lẻ của mình. Nếu Ngưỡng thấy mình chẳng thể bao bọc được một người vợ như Diệu, Ngưỡng cũng không thể đóng vai người anh thầm vụng nhớ thương em gái. Diệu cũng như những chữ bằng vôi nguệch ngoạc trên vách đá, đành coi như những kỷ niệm ở ngay hiện tại. Nhưng đời sống Ngưỡng vẫn còn bám lấy miền núi này như một loài cây leo bám vào các khe đá, liệu bao giờ chuyện xa cách Diệu thoát khỏi được vòng dự tính để thành sự thật.
Bên Ngưỡng, Huỳnh mỗi ngày một tỏ ra nóng nảy, sốt ruột. Phan cũng sốt ruột nhưng trước vẻ ồn ào, bực bội của Huỳnh, Phan chỉ còn biết yên lặng băn khoăn. Có bữa Huỳnh đã toan làm lớn chuyện với viên hiệu trưởng địa phương vì câu nói: "Ông Ty đã thỉnh ý ông Tỉnh về việc di chuyển của giáo chức ở các trường hạng C và ông Tỉnh có lời khuyên giáo chức nếu không nhằm ra nhiệm sở được đúng ngày, không nên về trong các dịp lễ. Tết, các anh giáo về, có gì xảy ra, tôi hoàn toàn không chịu trách nhiệm". "Tôi đã ba mươi mấy tuổi đầu lại cần anh chịu trách nhiệm về chuyện tôi về ngủ với vợ tôi sao?" - Huỳnh đã hét lớn.
Một buổi sáng, Ngưỡng đang dạy học, chợt Huỳnh chạy sang, hân hoan bảo Ngưỡng: "Về, về đến nơi rồi. Sửa soạn mau lên mới kịp". Ngưỡng còn đang ngơ ngác, Huỳnh vội chỉ ra ngoài cổng trường và văn phòng hiệu trưởng: "Thấy chưa? Về đến nơi rồi, về đến nơi rồi. Sửa soạn đi là vừa". Huỳnh nói xong hối hả quay về lớp. Những người đến văn phòng xin cho con về đứng quây lấy hiệu trưởng người nào cũng nhớn nhác. Có nhiều người chạy thẳng lên các lớp học. Bọn trẻ nhốn nháo ngó ra.
"Xin thầy cho chúng tôi về. Đánh lớn tới nơi…" Mấy người đàn ông vây lấy Ngưỡng, vừa nói vừa ngó vào lớp ra hiệu cho con. Ngưỡng lắng nghe, không hề có một tiếng súng. Nhưng kinh nghiệm đã cho Ngưỡng biết, dân chúng đánh hơi trận chiến rất nhanh. Ngưỡng phân vân chờ hiệu trưởng quyết định thì nhiều câu nói khác đã ồn ồn nổi lên: "Biệt kích đã xuống tới Phú Hiển rồi". [4]
Bọn trẻ không cần chờ thầy ra lệnh, nhốn nháo thu sách vở, ùa ra hiên lấy nón mũ chấp chới chực chạy về. Lớp Huỳnh học trò về trước tiên. Huỳnh sang bảo Ngưỡng: "Cho về là phải. Tình hình này có vẻ gay lắm đấy". Ngưỡng nhìn Huỳnh. Hắn chỉ còn thiếu nước ôm Ngưỡng nâng bổng lên.
Trưa hôm đó đánh lớn ở Phú Mỹ. Lúc nghe những tiếng súng rung chuyển bàn ghế trong nhà, ba người đã sửa soạn xong. Nhưng trái với thông lệ, sau trận đánh, biệt kích lại trở về núi. Huỳnh nghe ngóng suốt một buổi chiều. Khi biết chắc biệt kích không về thị xã, hắn lại uống rượu kèm theo câu nói: "Phải uống say một chuyến rồi ngủ đại ở nhà, mặc tuốt". Vợ chồng ông cụ già đã bắt đầu cạo khoai lang, xắt từng khoanh ngâm nước sửa soạn làm rim. Các quán chợ ngoài đường bày thêm ít áo mới con nít và dọn hàng về muộn hơn trước. Người ta lập lại chuyện mùa xuân có đoàn du kích trên núi kéo xuống ruộng, gác súng, đá banh với nghĩa quân, hy vọng được vài đêm ngủ yên trong nhà không nghe tiếng súng. Bà cụ già bảo bọn Ngưỡng: "Tết ở đây cũng vui. Mấy thầy uống rượu nếp, đánh xóc đĩa rồi đi coi chọi gà…" Huỳnh cắt ngang: "Bác nói, tụi tôi càng sốt ruột".
Những lúc gần sáng từ ngoài ruộng mò về, nhiều khi Huỳnh và Phan thức nói chuyện tới lúc đi dạy. Ngưỡng về tới nhà, thấy ấm hẳn lại, để nguyên quần áo rúc vào ngủ một mạch. Ngưỡng vẫn hay mơ thấy Diệu, thấy máy bay và chiếc lan can gỗ mục ở nhà. Phan lại bắt đầu có những lời mê hoảng trong giấc ngủ sau mấy tháng êm ả mà Phan cho là bệnh tim đã trị dứt. Có đêm ở ruộng về vừa đặt mình ngủ Ngưỡng chợt tỉnh dậy vì tiếng than phiền của Phan. Ngưỡng tưởng Phan và Huỳnh còn thức nói chuyện. Khi nghe tiếng Huỳnh ngáy lớn đứt đoạn như tắc mũi, Ngưỡng mới biết Phan nói mê. Lúc đêm về sáng trời thật lạnh, tiếng hắn thật rõ, tự nhiên như lúc thức. Sau đó, hắn lịch kịch trở dậy, mò mẫm trong bóng tối, lại bàn thắp đèn, lấy nước nóng trong bình thủy pha một ly trà nhạt ngồi uống. Một hôm nói chuyện với bà cụ già về ngày cúng ông Táo, hắn bảo bà cụ nửa đùa nửa thật: "Có lẽ ma quỉ ám ảnh chúng tôi, cản đường không cho chúng tôi về". Hắn lặp lại câu nói nhiều lần. Càng lúc vẻ khôi hài của câu nói càng bị giảm nhường cho vẻ tin tưởng của hắn. Lúc đầu Huỳnh bảo Ngưỡng: "Những thằng ưa nói lẽ phải, trách nhiệm vốn là những thằng sợ ma". Về sau, mỗi ngày thấy Phan một hốc hác vì thiếu ngủ, vì một nỗi hoang mang mơ hồ, Huỳnh thường thức nói chuyện với hắn. Nhiều đêm Huỳnh mải miết tâm sự với Phan, hôm sau hắn băn khoăn bảo Ngưỡng: "Không hiểu sao mình lại nói nhiều với hắn như vậy. Dễ hố bỏ mẹ". Nhưng Huỳnh cứ tiếp tục băn khoăn và tiếp tục tâm sự. Trong bóng đêm Phan ngồi bên hắn như một sự quyến rũ ma quái đầy tình chân thật. Nhìn Phan trước mặt, hắn hết còn hình dung nổi một Phan đáng ghét lúc ban ngày, chỉ có một người bạn cũng buồn, cũng lo lắng như mình.
Những buổi đến lớp, Huỳnh thường sang nói chuyện với Ngưỡng. Hắn bảo Ngưỡng: "Bây giờ chỉ nom thấy thằng trưởng lớp của cậu về đây hoặc những người đến lôi con cái về là làm mình còn yêu đời được một tí". Ngưỡng biết Huỳnh vẫn còn lòng chờ đợi tuy hắn không còn nhiệt thành như trước nữa. Hắn không hề nhắc lại những dự tính, như về nhà hớt tóc, cạo râu cho vợ con dễ nhận ra mình. "Bà cụ nói có lẽ hợp lý. Mình ở lại, sáng mùng một mang một bộ bầu cua ra hốc núi xốc… (thiếu 8 chữ) có khi lại đỡ sầu" - Hắn nói.
°
Lá quốc kỳ phất phới trong không khí lạnh lẽo buổi sáng như một lá bùa hộ mệnh của ngôi trường. Ngưỡng bảo Phan: "Chắc ăn rồi đó. Phi cơ không thể nào lầm tưởng mình với những trường đã bị chiếm". Phan hỏi: "Anh đã sửa soạn bài Ý nghĩa ngày tết Nguyên đán rồi chứ?" "Rồi. Anh có muốn tôi dượt lại trước với anh bài đó không?" - Ngưỡng cười, nói. Phan hình như sợ Ngưỡng cẩu thả không chuẩn bị sẽ lúng túng trước đại diện xã, hội trưởng hội phụ huynh.
Trước dãy trường, một chiếc bàn phủ vải trắng nom ra trụ cờ trên đặt một bình bông vạn thọ bằng giấy. Hai bên, hai dãy dài ra tới trụ cờ. Một chiếc bàn học đặt ở giữa để những phần thưởng và số kẹo bánh sẽ phát cho học sinh. Những cành phượng trơ trụi loáng thoáng đủ các loại hoa do học trò tự động buộc vào. Có một số trẻ vận áo mới cổ tay có nút gài, luẩn quẩn quanh trụ cờ. Huỳnh đứng trên hiên nhìn xuống, mắt đờ đẫn. Ngưỡng lại trụ cờ ngồi xuống bậc xi măng, châm thuốc hút, vẫy bọn trẻ lại nói chuyện: "Thầy còn chờ trò trưởng lớp ở núi xuống đưa thầy về. Thầy về, thầy ra liền, nhớ dành phần rim cho thầy nghe". Ngưỡng nhìn từng đứa: "Chút nữa, mấy trò gắng hát cho thật nhiều, cho thiệt vui, rồi thầy sẽ kể chuyện cho tất cả nghe. Khi hát, nhớ vỗ tay đánh nhịp, vỗ thật giòn".
Huỳnh lại xin Ngưỡng một điếu thuốc. Bọn trẻ bấm nhau, cười ồn. Huỳnh trợn mắt: "Tết đến nơi rồi, bây sắp có thêm một tuổi rồi. Gắng lớn lên mau mau một chút, đi biệt kích, về đây đưa chúng tao về thị xã". Huỳnh kéo Ngưỡng đứng lên, xuống sân: "Đạn bom tơi bời còn bày vẽ tất niên". Huỳnh nói lúc hai người qua phòng hiệu trưởng. Ngưỡng lắc đầu: "Chuyện gì thì trách hắn chuyện này không nên". Huỳnh chỉ rặng núi trước mặt: "Bom nổ đạn réo ngay bên tai còn vui thú gì". Ngưỡng yên lặng, vừa bước vừa kéo gót giày cày từng đường đứt quãng trên cát. Giọng Ngưỡng cất lên đột ngột: "Như vậy nếu vui được càng nên vui. Nhiều khi quay lưng được vào nỗi khổ mà sống cũng nên làm. Bọn nhỏ cả năm chỉ trông ngày tết. Chiến tranh bất thường hóa tất cả nhưng lòng mong đợi ngày tết nơi bọn trẻ vẫn nguyên như tự bao giờ. Mình chẳng nên làm chúng quá thất vọng". Huỳnh vẫn bứt rứt: "Mình vẫn thấy có sự trái ngược như mâu thuẫn. Khóc để rồi cười, cười ngay sau tiếng khóc. Ngay bên tiếng khóc…" "Chiến tranh là bất thường hóa triệu chứng. Mình có sống mâu thuẫn không có chi lạ. Mình vẫn đề cao tình huynh đệ, lòng đoàn kết trong khi bom nổ rung cả bảng đen. Mình vẫn nói đến lòng kiêu hùng trong khi không một đứa trẻ nào không biết đêm đêm mình lần ra nằm ngoài ruộng. Nhưng tôi thấy nếu nghề mình có ý nghĩa, chính là ở trong lúc này". Ngưỡng dướn người cột giùm mấy đứa trẻ một bó vạn thọ lên cạnh phượng trơ trụi. Hai người đi dọc theo bờ rào bàn chải. "Nếu bản chất những điều mình dạy học trò vẫn có thể coi là tốt, bọn mình chính là những đứa đến cái hốc núi này, sống cực nhục trong những mâu thuẫn, ngoan cố giữ lại sự tốt đó. Nhưng không giữ lại với nỗi lạc quan máy móc mà với nỗi đau đớn của mọi người quanh mình có thể, của cả chính mình. Đó cũng là điều làm mình xa cách bọn Phan, bọn hiệu trưởng". "Mình không có thói quen nghĩ đến học trò những khi ra khỏi cổng trường" - Huỳnh nói. Ngưỡng cười: "Tôi không hơn gì cậu. Nhưng ít ra, ngồi trong lớp dàn mặt với học trò hết ngày này qua ngày khác, chẳng lẽ không có lấy một lần mình nghĩ đến mối liên hệ giữa mình với chúng, chẳng lẽ không có lấy một lúc cả thầy cả trò cùng quên những thắc thỏm riêng để cùng cười với nhau. Dù muốn dù không mình cũng không bỏ được vai trò ông thầy. Có khác chăng, mình đóng không giống người khác". Huỳnh cười yên lặng như bất cứ lúc nào hắn nén lòng không cãi Ngưỡng. Hắn hỏi lảng: "Cậu đã gặp lại Diệu chưa? Khỏi rồi thì phải". "Gặp rồi" - Ngưỡng lững lơ. "Khỏe chưa?" "Còn hơi xanh".
Một ông cụ già quần áo xốc xếch hiện ở trên đầu dốc, lật đật bước vào cổng trường, ông cụ đứng sững đưa mắt về phía trụ cờ có những chiếc băng trống trải. Ông nhếch một nụ cười bâng quơ, thăm dò. Ngưỡng vỗ vào mông Huỳnh: "Ban tiếp dân, xếp chỗ cho khách kìa". Huỳnh chậm chạp bước lại phía ông lão. Hắn cười lúc đã tới sát ông cụ. Nụ cười có vẻ đột ngột như hắn vừa chợt nhận ra cần phải tiếp ông cụ. Ngưỡng lại gần mấy đứa học trò con gái nhảy lò cò với nhau ở góc sân, khôi hài mấy câu. Một hai đứa nhát không dám nói chuyện lảng đi chỗ khác. Ngưỡng bỏ lên lớp học. Qua cửa sổ lớp Phan, Ngưỡng thấy lớp vắng không, Phan ngồi trên bục, cầm tì trên hai bàn tay đan nhau, hai mắt sấp xuống mệt mỏi. Ngưỡng vào lớp. Vài đứa học trò ít nô giỡn ngồi chụm lại nói chuyện ở xó lớp. Ngưỡng lên bục. Lúc nghe tiếng trống tụ tập học trò, Ngưỡng mới thấy mình cũng tì cằm lên hai bàn tay đan nhau, mặt mệt mỏi như Phan.
Học trò xếp hàng vây quanh trụ cờ và mấy tấm bàn ghế. Quan khách có ba bốn người ngồi xa nhau ở hai băng đầu. Hiệu trưởng nói chuyện nho nhỏ với người đại diện xã. Người giáo viên phụ khuyết áo dài tay, cổ cứng không ủi, hai tay cầm tờ giới thiệu chương trình đứng sau tấm bàn trải khăn trắng. Huỳnh hai tay chắp sau lưng qua lại sau đám học trò giữ trật tự.
Bốn chiếc oanh tạc cơ bay thành hình bầu dục trên rặng núi trước cổng trường. Khi hát quốc ca, tuy cờ đã treo từ trước, học trò ngửng hết mặt lên trời. Ngưỡng đứng bên đám học trò lớp mình, yên lặng như chúng, thỉnh thoảng lại miết giầy lên cát vì một âm thanh thật sắc từ phía tấm bàn phủ khăn trắng đập vào tai. "Em đã nghĩ ra món quà để anh mua tặng. Lúc nào ở Sài Gòn ra qua thị xã anh mua cho em cũng được". Diệu đã nói lúc thấy Ngưỡng nhìn chiếc nón có bốn chữ bằng sơn đỏ chói "Đả đảo Cộng sản" Diệu đội trên đầu. "Em đã định bỏ chiếc nón này ngay hôm ở quận về nhưng người còn mệt quá đầu trần ra nắng không chịu nổi". "Cứ đội, có sao. Chừng nào có nón Huế ở thị xã mang về rục đi cũng không muộn". Diệu cười trong nón nom thật yếu. Lúc Diệu chào Ngưỡng, đi về phía nhà ông thầy thuốc bắc, Ngưỡng còn muốn giữ lại.
Người giáo viên phụ khuyết giới thiệu đến phần của Ngưỡng. Ngưỡng thong thả bước vào gần trụ cờ, nhìn bọn trẻ và cười. "Thầy sẽ kể cho các em nghe một câu chuyện thật vui. Một câu chuyện nói rõ ý nghĩa ngày tết Nguyên đán". Tiếng Ngưỡng chậm rãi, lớn. Những chiếc máy bay sà xuống thật thấp lao vút vào những cột khói đen sậm ở chân núi. Những trái rocket như những cái chầy bạc lấp lánh dưới nắng tới tấp phóng xuống trước nền rặng núi xanh đậm. Đất rùng từng đợt dữ dội. Bọn trẻ nhao nhao hướng về phía đó. Ngưỡng nuốt nước bọt, thấy Phan và Huỳnh nhìn mình. Ngưỡng gạt đi hình ảnh Diệu đội chiếc nón lấp lánh có bàn tay nhô gân xanh giữ vành trên đường tới nhà thầy thuốc, vỗ mạnh hai tay vào nhau, lớn tiếng:
"Yên lặng, tất cả yên lặng, nghe đây. Ngày xưa, có một ông vua…"

[1]Bản in mà chúng tôi sử dụng bị mất 3 dòng ở đoạn này, rất mong được độc giả có bản in nguyên vẹn giúp bổ sung (talawas).
[2]Bản in mà chúng tôi sử dụng bị mất 2 dòng ở đoạn này, rất mong được độc giả có bản in nguyên vẹn giúp bổ sung (talawas).
[3]Bản in mà chúng tôi sử dụng bị mất 4 trang ở đoạn này, rất mong được độc giả có bản in nguyên vẹn giúp bổ sung (talawas).
[4]Bản in mà chúng tôi sử dụng bị mất 8 chữ ở đoạn này, rất mong được độc giả có bản in nguyên vẹn giúp bổ sung (talawas).