TRUYỆN TRẦU CAU

Xưa,và đời vua Hùng Vương,có một vị quan Lang dáng người cao lớn, nên lấy tên họ là Cao.Cao sinh được hai ngưòi con trai,anh tên là Tân,em tên là lang.Hai anh em đều được nuôi dưỡng đầy đủ, hình dáng và giọng nói như nhau, người ngoài khó nhận ra ai là anh,ai là em.Gần đến tuổi hai mươi thì cha mẹ đều qua đời. thế rồi hai anh em tìm thầy học nghề,đến ở nhà đạo sĩ họ Lưu.
Đạo sĩ lưu có người con gái vừa đến tuổi cập kê,thấy hai anh em thì ưa,muốn được thành thân.Cha mẹ đều yêu quí con gái,cũng không trái ý nàng.nhưng thấp cao chưa tỏ,chẳng biết ai là anh,ai là em.Nàng liền để một bát cháo cho hai người,rồi lui vào bình phong ngầm nhòm xem. Nàng thấy Lang nhường bát cháo cho Tân,liền thưa với cha,lấy Tân thành đôi vợ chồng.Tân nhân vậy làm một bài thơ về mối tình ấy như sau:
Tự buổi lưỡng nghi mở,
Lời mối lái xếp đặt,
Vội vàng kinh vách trắng,
Nhà vàng Kiều nga ở
Duyên thành như lời đoán
Oanh líu lo muôn cửa,
Cung treo mong chí lớn,
miệng trai sinh ngọc đẹp,
Um tùm như rừng trúc,
Muôn việc do tiền định,
Muôn đời nảy vực nhân
Thơ lá đỏ cùng đề.
Sửng sốt sợ vai hằn.
Bà Nguyệt xe chỉ hồng.
xong việc đánh ngư hiên(10
Tự trời dág kỳ lân.
roi quất tan lầu sương.
Lông phượng giữ thể toàn.
Chằng chịt tựa dưa vươn
Mới hay là hợp duyên.
Lang thấy thơ chỉ nói đến tình vợ chồng,không nói đến nghĩa anh em,liền nổi giận bỏ về không nói với ai. khi qua sườn núi,trời đổ mưa rào, nước suối dâng caokhông qua được mà mặt trời thì đã lặn ở đầu non rồi.Lang bèn ngồi một mình khcs than đau đớn mà chết.
Tân ở được mấy hôm,vì nhớ em,ăn ngủ bất an, liền bỏ vợ trở về nhà. Chàng nhìn thấy xác em mình bên bờ suối thì buồn thương vô hạn,liền gào khóc một hồi rồi tự vẫn.
Người vợ nhớ chồng da diết,tình cảm khó bề nguôi ngoai. Thế là nàng bí mật rời nhà đi tìm. Đến bờ suối, chợt thấy xác hai anh emnàng vừa sợ hãi vừa đau đớn,ôm lấy xác chồng than khóc một hồi,ộc ra mấy bát máu rồi chết.
Đạo sĩ lưu thấy con gái bỏ đi mà khong nói với mìnhthì đùng đùng vừa giận vừa buồn,tình cảm thương yêu lo lắng chùng dần xuống nên cũng không đi dò hỏi về con nữa.Cuối cùng hơn một năm sau,tuy vẫn bặt tin tứcnhưng ân tình chưa thể dứt.Nhớ tới khuôn mặt,lời nói cùng hành vi của con gái,đạo sĩ không ngăn được nỗi đau nhoi nhói trong tim.Ông bèn sửa soạn hánh trang đi tìm.Đến khúc suối nọ,ông liề ngồi nghỉ dưới gốc cây lớn,thấy bên suối có ba bộ xương khô của ba người.một bộ thì bên miệng mọc một cây nhỏ,mới cao chỉ hai ba thước;một bộ thì vùng bụng hóa thành tảng đá ;bộ còn klại thì giữa tim mọc một dây leo nhỏ dài mấy thước,quấn quanh tảng đá,có điều vẫn chư biết người chết  là ai.khi ấy đang là mùa hạ nóng bức,mặt trời như lửa đỏ hừng hực.những người sau lại chỗ này đều muốn dừng chân để hóng gió.Có người nhắc đến chuyện ba người ngày xưa.Đạo sĩ nghe xong mới biết đó là chuyện Tân,lang và con gái mình thì xiết bao buồn thương đau xót.hôm sau.ông chặt cây,bện cỏ làm đền (2) đặt bài vị ba người,sửa soạn rượu thịt,làm bài văn tế cả ba người.Lời bài văn tế như sau:
Đau đớn thay các con!
Mệnh nhẹ như giọt sương,chiếc lá,nghĩa nặng như gò núi,sườn non
Cùng một gốctừa rễ tử sinh,mộ kết liền khác gì liền nhánh.
Nhớ các con khi mới tới gặp ta,nghĩ rằng tài cây tùng,cây bách.
Tưởng các con sống nhờ ở nơi ta,nghĩ rằng mừng nào hơn môn đệ.
Chắc hẳn có trí cao vươn tới,nên muốn ơn gây dựng thành tài.
Ta đương hòm trúc sai đi,ngỡ có dáng vàng,cây ngọc.
Ngươi tự phòng tiêu ân ái, thiết tha đan quế Hằng Nga.
những là ngó tuyết dưỡng sinh;đâu ngỡ cây mồ đã lớn.
ÔI!Tử sinh có hạn,dẫu nhành dương giọt nước khó tìm;
Thọ yểu bất thường,thì bài hát đưa ma dễ nổi.
Nay ta:xe bồ vừa tới.Một bó cỏ khôBBỗng nghe kèn trống tang tóc. Xiết bao thảm sầu.Xin lấy hai làn xuân cúc,mong trút nỗi lòng.
Ôi hỡi,thương thay,các con hưởng lễ.
Tế xong,đạo sĩ lật đật trở về,thương nhớ khôn nguoi loạng vhoạng lên giường nằm ngủ.Chợt thấy ba người đi tới,lạy ông và nói:"Chúng con vì tình nghĩa anh em,không dám sống cẩu thả,làm liên lụy tới con gái yêu của thầy. Đã không bị trị tội,lại được an ủi tế lễ,dám đâu không đến lạy tạ".
Người con gái tiếp lời:"Con từ khi thác sinh,được cha nuôi dưỡng,đã được bao năm,không có cách gì báo đáp.Vừa rồi,vì đạo vợ chồng,nên đã chết để theo chồng,tuy giữ trọn được đạo làm vợ,song ơn cha thì không trả được,xin cha trị tội".
Đạo sĩ Lưu nói:"Các con biết trọn đạo anh em,trọn tình vợ chồng,thì ta có hận gì? Nhưng vì đường chia đôi ngả âm -dương, một sớm trở thành thiên cổ,nên mới đau thương,xúc đọng đó thôi!"
Nói rồi rót rượu khuyên mời, Ba người khẩn khoản từ chối mà đi...Lưu trở mình tỉnh dậy,vẫn còn bàng hoàngnhư là một giấc mộng.Hôm sau, ông lại đến đền,gạt nước mắt từ biệt.Từ đó,hễ ai qua đây đều thắp hương lễ bái,gọi họ là anh em kính nhường,vợ chồng tiết nghĩa.
Sau này,Hùng Vương tuần hành tới đây,thấy cây đều sai trũi quảdâuy leo um tùmVương thăm chừng,có người đem chuyện cũ tâu lên,nhưng không biết cây và dây leo tên gì. Vương trầm trồ hồi lâu liền sai người hái quả trên cây và ngắt lá trên dây leo để xem.Có người đặt lên chỗ đã bị đập vỡ,một lát thì màu hồng tươi nổi lên,mùi vị thơm phức.Vương cho ăn thử,quả nhiên vừa thơm,vừa đượm.Thế rồi Vương cho nung đá thành vôi,quết trên lá,ăn với quảthì môi đỏ tươi,hàn khí,tà khí lui hết.Vương sai truyền cho khắp nước,nơi nào cũng coi trọng.Rồi đặt tên cây là cây Tân Lang (cây cau)dây leo là cây phù lưu (trầu).Từ đó về sau,trong các dịp hôn lễ,hội họp,người ta lấy miếng trầu là đầu câu chuyện. Sở dĩ gọi tên là quả "tân lang " (quả cau)vì là tên của hai anh em,nói ghép lại;cũng gọi tên là "cao" vì là tên họ của hai người.Gọi là "phù lưu"(trầu)vì dây lá nó rậm rạp,ưa nhìn và họ của cô gái là họ Lưu. 
Chú thích:
(1):Ngư hiên:Xe của phu nhân,trang sức bằng da cánên gọi thế.
(2)Sách Lĩnh nam chích quái của Vũ Quỳnh chép là:miếu tam phương(miếu ba kẻ danh thơm).Chính ngôi miếu này ở xã Nam hoa,tổng Nam hoa,trước thuộc huyện Thanh chương,sau cắt về Nam đàn,xưa đều thuộc Đức Quang,tức Đức Thọ,Hà Tĩnh (BVN).