Dịch giả: Trạng Khang - Quốc
Chương VII
“CHÚNG TÔI ĐÃ SẴN SÀNG, THƯA GIÁO SƯ…”

Trong phòng đợi của khách sạn Hilton mới xây trên đại lộ Vasileos Constantimon, Alex nhận được thư tay để lại của Caroline.
Anh yêu quý,
Chúng em đã tới nơi nhưng lại phải khởi hành ngay vì Viện ở đây thuê được một chiếc tầu, ba giờ nữa sẽ nhổ neo. Em còn phải lo một đống tướng hòm xiểng và hành lý cả đoàn. Thư này, John Mellow nhận chuyển giúp tới khách sạn Hilton cho anh vì cậu ta có việc phải vào thành phố bằng xe taxi. Khoảng trưa mai bọn em sẽ tới Keros. Vô! Cùng! Sung! Sướng! Là! Anh! Sẽ! Đến! Với! Em!
Em biết là anh sẽ nghĩ ra điều gì hay mà, vì vậy em càng nóng lòng mong anh. Em đợi.
Caroline
Joe đọc lá thư hai lần, sau đó để lên bàn thường trực một tờ xanh[1]
Tôi rất mệt – Anh nói với người thường trực có nước da rám nắng và tóc màu bạc – Tôi phải ngủ một giấc, nhưng sáng mai tôi muốn tới một hỏn đảo nhỏ trên biển Ê giê.
Người thường trực cầm lấy tiền đút vào túi áo trong của mình và cúi đầu cảm ơn.
Hòn đảo ấy tên là gì, thưa ông?
Keros – Joe nói.
Người thường trực nhấc ống nghe, quay số và nói gì đó rất nhanh cho người ở đầu dây bên kia, sau đó anh ta ngừng bặt, đứng im như pho tượng bên máy. Rồi anh ta nói lại gì đó và lấy tay che ống nói, bàn tay anh ta trông giống như tay của nghệ sĩ dương cầm. Anh ta quay sang nói với  Alex:
Thưa ông, ở đây không có tầu biển nào tới Keros. Họ phải tìm kiếm trên bản đồ mà chưa thấy. Ông có chắc đảo đó tên Keros không?
Phải – Joe nói – Tôi biết là không có tàu nào thường xuyên tới Keros cả. Đó là một hòn đảo không người…..
Tôi hiểu, thưa ông – Người thường trực lại cầm ống nghe và nói với tốc độ khủng khiếp. Sau đó anh ta nghe một lúc và nhìn Alex.
Nếu như ông rất muốn tới đó thì có thể làm được. Nhưng đáng tiếc là bây giờ trời đã tối, thưa ông.
Joe làm động tác như định cho tay vào túi nhưng lại bỏ xuống:
Tôi rất biết ơn nếu như có thể giải quyết được việc này.
Lại  một cuộc nói chuyện với đầu dây bên kia. Sau đó máy được đặt xuống.
Vâng, thưa ông, tôi đã biết được ít nhiều về Keros. Cứ hai tuần lại có một chuyến tầu tới đó để mang đồ tiếp tế cho người coi đèn biển. Tuần sau chiếc tầu này sẽ đi từ đây đến đó…
Joe lắc đầu không chấp nhận.
Hoặc có thể thuê một chiếc thuyền ở Aten và đi tới đó vào chiều mai nếu như biển không động.
Liệu có cách thứ ba nào không?
Dạ có, nhưng hơi tốn kém. Sáng mai sẽ có máy bay bay tới Crêt. Tới đó ông có thể thuê trực thăng. Nếu ông muốn tôi có thể đặt trước ngay bây giờ. Khách du lịch bây giờ thích du ngoạn trên không. Sau khoảng ba tiếng kể từ khi ông rời Aten ông sẽ có mặt ở Keros.
Tuyệt. Tôi sẽ đi như vậy. Cám ơn.
Joe đặt thêm một tờ xanh lên bàn rồi vui vẻ đi về phía thang máy, vừa đi vừa vung vẩy chùm chìa khóa.
Anh ngủ thiếp đi ngay, khi tỉnh dậy hoàn toàn sảng khoái. Bên ngoài, trời đã hửng sáng, ánh nắng chiếu hồng các dãy núi đá trắng phía sau đền Pac tê nông.
Mọi chuyện diễn ra đúng như lời người thường trực khách sạn Hilton. Giờ đây anh đang ngôi trên buồng lái của chiêc trực thăng nhỏ, cạnh người phi công. Dưới kia một mầu xanh xẫm đang kéo dài tới tận chân trời.
Mười phút nữa chúng ta sẽ tới nơi – người phi cống nói tiếng Anh nhát gừng – Tôi chưa tới đó bao giờ, nhưng tôi đã liên lạc bằng vô tuyến điện với người coi đèn biển. Ông ta nói là đảo khá bằng phẳng, máy bay có thể hạ cánh dễ dàng – Anh ta ngẩng đầu nhìn trời rồi nói tiếp – Tôi muốn trở về ngay vì hiện đang có gió mạnh từ châu Phi thổi tới. Trời vẫn trong, nhưng gió sẽ tcó thể làm lật máy bay. Trực thăng không thể chạy thoát được nhanh như máy bay phản lực. Ồ, chúng ta đã tới nơi. Ông thấy không?
Joe nhô người ra phía trước nhìn xuống qua vòm kính của mũi chiếc trực thăng. Lúc đầu anh chưa nhìn thấy gì cả. Mãi sau anh mới nhìn thấy một mỏm đá nhỏ nhô lên khỏi mặt nước, xung quanh một viền trắng do sóng đánh vào chân đảo tạo nên. Máy bay nhẹ nhàng hạ độ cao, lướt qua mỏm núi, từ từ bay xuống sườn núi bằng phẳng. Phía bên kia giáp biển là vách đá thẳng đứng không đường lên.
Người phi công cho máy bay trực thăng dừng ở trên không để nhìn kỹ nơi hạ cánh, Alex trông thấy một dẫy nhà thấp, lợp tôn lượn sóng nép mình bên chân núi. Trong nhà mọi người đang lần lượt chạy ra, bóng họ đổ dài trên mặt đất.
Máy bay lại vòng ra biển và ngay lúc này Joe nhìn thấy chiếc thuyền buồm nhỏ mầu xanh thẫm nằm ẩn giữa những vách đá. Vợ chồng Gorlon cũng đã tới nơi. Anh nghĩ thoáng qua nhưng rồi tập trung ngay vào những người đang đứng trước nhà. Máy bay lại bay vào phía bãi phẳng bên chân núi và từ từ hạ xuống theo phương thẳng đứng.
May mà không có gió – Joe nói. Người phi công lặng lẽ gật đầu, Alex ngồi nhổm người, anh đã trông thấy Caroline. Không biết anh nhận ra cô bằng cách nào vì vẫn còn khá xa chưa trông thấy rõ mặt từng người. Tuy nhiên anh đã nhận ra cô ngay. Một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bẩy, tám. Có tám người cả thẩy, thừa một người so với nhóm.
Động cơ đã tắt, chỉ có cánh quạt vẫn còn quay nhanh gây ra tiếng gió. Máy bay hạ xuống không được êm lắm, bị lắc mạnh. Joe bị xô lên phía trước rồi ngã ngồi xuống ghế.
Xong – người phi công nói – Cảm ơn ông.
Tôi cảm ơn anh mới phải – Joe bắt tay anh ta và nhẩy ra khỏi máy bay. Caroline đã chạy tới ngay khi bánh máy bay vừa chạm đất. Họ nắm lấy tay nhau.
Joe giơ tay đỡ lấy chiếc vali do người phi công đưa xuống. Anh giơ tay lên vẫy.
Chào tạm biệt, chúc lên đường may mắn – Anh gọi to – Hy vọng rằng chúng ta còn gặp nhau.
Người phi công gật đầu cười. Động cơ lại vang lên và máy bay bốc lên cao. Họ đứng nhìn theo hồi lâu cho đến khi máy bay chỉ còn là một chấm nhỏ bay về phía bắc. Rồi họ đi về phía dãy nhà.
Bắt tay mọi người, Joe nhận thấy họ đã thay đổi khá nhiều. Nước da họ đều rám nắng tưởng như họ đã ở đây vài tuần rồi. Ngay cả giáo sư cũng mặc sooc và áo sơ mi cộc tay, không như Caroline đã viết cho anh. Trông ông giống một viên sĩ quan thực dân hơn là một nhà khoa học. Cuộc hành trình vài ngày trên biển đã xóa đi màu trắng bệch của nước da.
Đây là chủ nhà của bọn em. Caroline chỉ tay về phía người trẻ tuổi, da nâu, cô hơi do dự rồi đánh vần từng tiếng - Ê lê phơ tơ ri ốt Sơ mi tờ ra kít (Eleflorios Smytrakis), người trông đèn biển trên đảo Keros. Rất may anh ấy lại biết tiếng Anh. Anh ấy đã kể với chúng em là những lúc rỗi đã đi thăm thú một số hang động nhưng chẳng tìm thấy gì.
Joe bắt tay. Người thợ trẻ tuổi nói tiếng Anh khá sõi.
Rất hân hạnh được làm quen với anh.
Alex quay lại giáo sư Lee.
Rất cám ơn nhã ý của giáo sư đã cho phép tôi tới đây. Nhưng e rằng tôi là người thừa và chẳng được việc gì.
Ồ đừng lo – giáo sư Lee mỉm cười – Chúng tôi không để anh ngồi không đâu. Sáng nay chúng tôi mới tới đây nhưng đã kịp nhận thấy có một số vấn đề tương đối khó giải quyết. Đảo đá này không dễ gì chinh phục được đâu. Anh thấy đấy - ông giơ tay chỉ lên phía núi – Một số cửa hang nằm ngay trên vách đá dựng đứng, còn chúng tôi lại không có phương tiện leo núi, hơn nữa ở đây chả có ai biết leo núi cả. Mọi chỗ đều phải tìm cách tới, kể cả những chỗ khó nhất, mặc dù thực sự mà nói ở đó khó có thể là nơi thờ cúng nữ thần được. Cần phải chú ý là trải qua hàng nghìn năm sườn núi có thể bị biến dạng. Có thể con đường dẫn tới đền thờ đã bị nước xâm thực  và bào mòn không còn dấu vết. Mỗi một người khỏe mạnh và tháo vát ở đây quí như vàng. Ngoài ra, anh còn có khả năng phán đoán sự việc không chỉ trong lĩnh vực trinh thám, có phải không? Chúng ta phải tính toán một chút. Nhưng thôi, các cô gái hìn như đã hứa cho chúng ta ăn cái gì đấy. Bọn tôi vừa ngồi xuống bàn ăn thì nghe tiếng trực thăng. Nào ta đi thôi – ông nắm lấy tay Alex và dẫn anh về phía dãy nhà một tầng.
Ngôi nhà họ vừa bước vào là một trong số hàng nghìn trại lính dã chiến trong thời kỳ chiến tranh. Nhà thấp, dài, nép mình bên vách đá, chắc là để tránh gió nhưng cũng để tránh sự quan sát của máy bay và tầu chiến của kẻ địch. Một hành lang ở giữa chia ngôi nhà làm hai phần, có  các căn buồng nhỏ để ở. Phía cuối hành lang là buồng lơn hơn hình như là nhà ăn và câu lạc bộ của lính. Trong phòng có hai bàn ăn lớn và một loạt ghế băng. Đi dọc theo hành lang, Joe nhận thấy đoàn khảo cổ đã bố trí xong nơi ăn ở. Có bàn tay nào đấy đã dùng bút mầu kẻ tên từng người ghim lên cửa mỗi phòng. Nhìn thấy tên JOE ALEX anh dừng lại.
Nếu anh muốn rửa tay thì đến buồng tắm ngay cạnh cửa ra vào ấy – giáo sư nói – Anh hãy để vali vào phòng rồi lại chỗ chúng tôi.
Caroline từ phía cửa nhà ăn quay trở lại.
Anh được một căn phòng đẹp nhất – cô nói thầm – có hai cửa sổ trông ra biển – cô khẽ nắm tay anh và quay đi. Joe đẩy cửa bước vào phòng.
Căn phòng rộng hơn anh tưởng nếu nhìn từ phía ngoài. Một chiếc giường đóng bằng ván ép có trải một chiếc đệm mút còn mới. Trên giường có hai chăn len dầy, bộ khăn trải giường còn gấp chưa trải ra. Màu trắng của khăn trải giường tương phản với mầu xỉn của tường và sàn nhà. Trong phòng có một chiếc tủ cũng đóng bằng ván ghép. Joe mở tủ và mỉm cưởi. Trong tủ có ghim một mảnh giấy với dòng chữ: “Chào anh yêu quí”, phía dưới có vẽ một trái tim nhỏ mầu đỏ.
Anh gỡ tờ giấy, cẩn thận gấp làm tư cất vào ví. Ở Luân đôn anh có riêng một ngăn kéo chứa đầy những kỷ niệm loại này. Anh thu thập tất cả - mặc dù anh không phải loại người dễ xúc cảm, nhưng quả thực Caroline chiếm một vị trí quan trọng đặc biệt trong đời anh.
Anh bước lại phía cửa sổ. Trước mặt anh là một sân cỏ bằng phẳng chạy dài vài trăm bước chân, sau đó đất dường như tụt xuống và phía xa là biển màu lam xẫm đang gợn sóng lăn tăn.
Anh quay lại, ngẩng đầu lên. Trên trần lơ lửng một ngọn đèn điện bằng một đoạn dây chạy ra phía công tắc ở cạnh cửa. Ở đây có điện? Anh hơi ngạc nhiên nhưng chợt nghĩ ra ở đây phải có máy phát điện dùng cho cây đèn biển. Nhưng cây đèn ở đâu anh chưa rõ, lúc ở trên máy bay anh không nhìn thấy.
Không quan tâm nhiều đến điều này nữa, anh bật đèn, lấy xà phòng và khăn mặt đi về phía buồng tắm. Dọc hành lang trên các cửa đều có đề tên: Mary Sanders…, giáo sư Lee…, John Mellow…, Robert và Pamela Gordon…, Mr Eleflorios Smytrakis. Phòng phía trái ngay cạnh lối vào đề tên: Simon Caruthers, phía phải đề: buông tắm.
Buồng tắm kiểu đơn giản, có một rãnh dài chạy dưới chân tường thông ra ngoài. Cạnh tường có một hàng xô đầy nước. Trên tường có dán tờ giấy với dòng chữ bằng tiếng Anh: “Sau khi dùng nước xong, nhớ múc đầy nước trả lại ”. Bên cạnh đó cò một chồng chậu nhựa xanh đỏ, chắc do đoàn khảo cổ mới mang đến. Anh rửa tay và quyết định lần này sẽ không thực hiện lời thỉnh cầu về chuyện múc đầy nước trở lại, sau đó bước về phía nhà ăn.
Anh bước và0 nhẹ nhàng hầu như không ai để ý thấy anh. Phía cuối bàn Simon Caruthers đang nói với chàng thanh niên Hy lạp.
Có thật thế không? Ngay cạnh bờ à? Tuyệt!
Thật mà – Smytrakis gật đầu trả lởi, đặt đĩa ăn xuống và giang tay ra – Hôm qua tôi mới câu được một con cá to bằng ngần này này! Cá thường bơi gần bờ nhưng không phải chỗ sóng vỗ vào vách đá đâu. Cạnh bờ cá con đến kiếm ăn những loài giáp xác nhỏ, cá lớn lại tìm đến để ăn cá con. Nhưng phải hết sức chú ý vì ở đó cực kỳ nguy hiểm – anh ta ngừng lại để chọn từ thích hợp  - có thể ngã xuống biển và thế là hết đời. Tôi sẽ chỉ cho anh nơi câu cá. Chỗ đó vách đá dựng đứng nhưng có thể xuống sát dưới chân vách được và có đủ chỗ để đứng câu cá.
Sau bữa ăn anh có thể đi với tôi được không? – Caruthers hỏi giọng hy vọng.
Smytrakis nhìn ra cửa sổ rồi nhìn đồng hồ:
Tôi không có thời gian đi câu cá với anh đâu. Lát nữa sẽ có gió mạnh, tôi phải trực điện đài. Có thể có tín hiệu cấp cứu SOS. Nhưng phải năm, sáu giờ nữa mới có gió. Sắp sửa có triều xuống, đó là lúc tốt nhất để câu cá vì cá đến gần bờ hơn. Cá thích lúc triều xuống vì lúc đó có nhiều thức ăn ở dưới nước. Đáng tiếc là tôi phải trực điện đài, cứ cách một giờ lại phải nhận tin và phát tín hiệu một lần. Nếu biển động tôi phải ngồi liên tục canh điện đài suốt ngày đêm. Lúc nào anh ăn xong tôi sẽ chỉ chỗ xuống nơi câu cá.
Nhưng tất cả chúng ta sau bữa ăn sẽ đi quan sát núi cơ mà… - Caroline nói.
Trời ơi….- Caruthers thất vọng.
Chúng ta có thể cho Simon tự do buổi chiều nay cũng được – giáo sư nháy mắt với Caruthers – Anh ta bị mất kỳ nghỉ hè ở Scotland, vậy thì hôm nay hãy nghỉ bù đi. Bắt đầu từ ngày mai chúng ta sẽ làm việc. Hôm nay chúng ta đi xem một số hang động có lối vào ít trở ngại – ông quay lại nói với Mellow – Này John, có lẽ chúng ta cần đến đèn pin và một ít dây chão ni-lông, đề phòng trường hợp chỗ leo quá dốc hoặc trơn.
Vâng, thưa giáo sư – Mellow đẩy chiếc dĩa đã vét sạch và đứng dậy – Nhưng nếu tất cả chúng ta đều đi thì ai sẽ chuẩn bị bữa tối?
Tất nhiên là Caruthers rồi – Mary Sanders nói to – Anh ta sẽ đãi chúng ta món cá và rượu vang trắng.
Nhưng rượu lại không có – Pamela Gordon nói rành mạch – Simon, anh cẩn thận nhé. Tôi đã đi thuyền vòng quanh đảo và tôi thấy rằng có các vàng tôi cũng không đi xuống mép nước để câu cá đâu. Cứ như là đi trên mép mái nhà ấy.
Anh Smytrakis hứa là sẽ đưa tôi đi.
Chàng trai người Hy lạp gật đầu.
Chỗ ấy có thể xuống được chị ạ - anh ta nói vẻ chắc chắn – Mà chẳng nguy hiểm đâu mặc dù nhìn từ trên xuống cũng hơi sợ. Chỉ cần nhẩy hai bước vào chỗ các mỏm đá sau đó là tới một khe dốc dẫn xuống phía dưới.
Chúng ta đi thôi – Caruthers đứng dậy – Tôi chỉ mang theo cần câu là đủ, ta đi chứ!
Tất cả mọi người đều đứng dậy.
Đèn pin còn để trên thuyền – Mellow nói – Chúng ta đã chuyển các hòm đồ lên chưa?
Chưa đâu – Caroline nhìn quanh – Tôi cũng chưa biết để những thứ đó vào đâu. Để ở chỗ này được không ạ, thưa giáo sư? – cô chỉ tay vào một góc của nhà ăn – Sau này nếu cần sẽ sắp xếp lại.
Được – giáo sư gật đầu đồng ý – Tạm thời hãy cứ để ở đấy. Các dụng cụ chính xác và tinh vi hãy để lên cái bàn kia. Hơn nữa nếu chẳng tìm thấy cái gì thì một nửa số hòm sẽ không mở ra mà chở thẳng về Luân đôn – ông cười khi nhìn thấy nét mặt của Caroline.
Tôi đi chuyển hòm đây – Robert Gordon nói – Tôi cần một người tình nguyện.
Tôi đi với anh, - Alex nói và di cùng anh ta ra cửa – Từ lúc tới nơi đến giờ tôi vẫn chưa được động chân động tay.
Gordon lặng im ra khỏi nhà. Ngoài trời thời tiết vẫn bình thường, nắng chói chang đến nỗi Joe lập tức phải xắn tay áo cho đỡ nóng. Sau đó anh lấy thuốc ra hút nhưng lại để quên diêm trong áo com-lê trong phòng. Anh quay lại.
Caruthers và Smytrakis đang đứng trước nhà kiểm tra cần câu.
Anh có diêm không? - Alex hỏi – tôi để quên trong phòng bao diêm của tôi rồi.
Đáng tiếc là tôi không hút thuốc – Caruthers cười và quay sang thử trục cuộn cước.
Smytrakis cho ngay tay vào túi lấy ra bao diêm.
Anh cầm lấy mà dùng. Tôi còn bao nữa.
Cám ơn – Joe chạy vội theo Gordon, anh ta đang đi dọc theo con đường mòn dẫn từ nhà ra tới bờ biển dựng đứng.
Khi đến gần mép bờ, Gordon không dừng lại mà vẫn bước tiếp rất tự nhiên. Từ phía sau nhìn lại tưởng như anh ta đã nhảy xuống biển. Joe nhìn thấy vai anh ta rồi đầu đang từ từ chìm xuống. Nhưng lúc anh đến mép bờ mới thấy vách đá được đục thành những bậc rộng, thoai thải dẫn xuống một bến nhỏ nơi chiếc thuyền buồm màu da trời đang đậu.
Chúng ta phải cảm ơn Mu sô li ni đã làm cái bến này – Gordon nói to, át tiếng sóng vỗ vào vách đá chân đảo – Người Ý đã đục bậc thang trên vách đá này để cải tạo ra cái bến này trong thời gian chiến tranh với các nước thuộc địa của Anh ở Địa trung hải. Chắc họ cũng nhìn trước rằng thế nào cũng xung đột với nước Anh, cho nên trong suốt thời gian đó họ để ở đây một trung đội. Smytrakis đã kịp kể cho chúng tôi nghe rằng trung đội này đã đầu hàng ngay sau khi quân Italia thua quân đồng minh. Họ đánh điện cho quân đội Anh đưa tàu đến để bắt họ làm tù binh.
Khi đã xuống mép nước, Joe ngắm nhìn con thuyền đậu giữa hai vách đá dựng đứng hai bên, trông nó như một đồ chơi trẻ con.
Chỉ có hai anh chi thôi mà dám dùng chiếc thuyền này đi trên biển à? Qua cả la Măng sơ, vịnh Biskay và Địa trung hải?
Tất nhiên - Gordon cười rất tự tin – Trông nó cứ như một chiếc cano nhỏ ấy nhỉ. Có phải anh cũng nghĩ như thế không? Nhưng anh hãy nhìn kỹ xem, nó được gắn một động cơ cực mạnh, còn độ bền vững của nó thì hơn hẳn tàu “Santa maria” mà Cô-lông đã vượt Đại tây dương. Nó không sợ sóng to đâu. Khi chúng tôi qua Si sit bị sóng dồi rất mạnh, nhưng nó vẫn chẳng làm sao.
Nói xong, anh ta nhảy xuống thuyền. Joe cũng nhảy theo,.Trong khoang có vẻ rộng rãi hơn là nhìn từ ngoài con thuyền. Đồ đạc trong khoang rất sang trọng.
Đây là phòng khách và phòng ngủ - Gordon mở tiếp cửa sang buồng bên cạnh – Đây là buồng tắm, tiếp nữa là hai buồng nhỏ dành cho khách, rồi bếp và kho chứa thực phẩm. Sáu người có thể du lịch thoải mái trên con thuyền này, nhưng thế thì hơi đông và chuyến đi sẽ mất hay vì quá ồn ào. Anh có thấy như thế không?
Hoàn toàn đồng ý – Joe gật đầu. Trong lúc đi thăm phía bên trong của chiếc thuyền, anh tự nhủ rằng sắp tới anh sẽ cố gắng làm tất cả những gì để có thể trở thành chủ của một chiếc thuyền tương tự.
Ngoài máy ra đa chúng tôi còn có cả một bộ điện đài nhỏ dễ sử dụng. Kia là hòm đồ của đoàn – Gordon đi vào căn buồng nhỏ cuối cùng bê ra hai chiếc hòm nhỏ bằng sắt. Joe bê lấy một chiếc mang lên mặt boong thuyền.
Mãi lúc này, khi nhìn những vách đá trắng phơi mình dưới ánh sáng mặt trời, Joe mới chợt nghĩ tới điều bí mật của hòn đảo. Liệu mọi người có tìm thấy ngôi đên của vị nữ thần kia không? Anh hoàn toàn không tin tưởng chút nào. Nếu ở đây, trong thời gian vài năm đã có mấy chục chàng lính trẻ tới đóng quân, mà họ lại chẳng có nhiều việc để làm thì chắc họ phải thăm thú hết tất cả những hang động ở các hòn đảo tý hon này. Nếu như trong đó có tượng, bình lọ gốm, đồ thờ, chắc hẳn họ đã lấy ra và hẳn đã có tin gì về những thứ đó. Tuy nhiên có thể con mắt của nhà khảo cổ sẽ tinh tường hơn con mắt của mấy cậu lính trẻ đi lang thang.
Joe bước lên các bậc đá theo sau Gordon. Chân anh ta gầy nhỏ, bước đi có vẻ vất vả. Ấy thế mà con người yếu ớt này lại không sợ bơi trên đại dương trong con thuyền mỏng manh với một người đàn bà, mà người đó lại không yêu anh ta, như Caroline đã nói, chỉ yêu có tiền thừa kế của anh ta thôi. Gặp anh ta lần đầu không ai có thể nghĩ đó là đứa con nuôi của giáo sư Lee.
Nhưng rồi anh chợt nghĩ lại. Những việc riêng tư của người khác thì có liên quan gì đến anh? Đó là một nhóm người Anh, họ có học thức và được dạy dỗ cẩn thận. Họ có những nhược điểm của tầng lớp này, cái tầng lớp mà anh biết khá rõ bởi vì chính anh cũng sinh ra từ đấy. Ngay cả trong ý nghĩ, con người cũng không nên xọc mũi vào những chuyện riêng của người khác.
Họ lên đến mặt bằng của đảo và bước về phía nhà nghỉ. Từ xa Joe đã nhìn thấy Smytrakis đang đi một mình.
Tôi đưa anh ấy xuống dưới kia – Smytrakis cười nói – Một lát thủy triều xuống và anh ta có thể câu được cái gì đó. Theo tôi, anh ta là người có gan làm tất cả những gì có thể làm được.
Phải - Gordon vừa đi vừa nói giọng thương hại – Với nó bao giờ cũng rắc rối nhất là khi nó trông thấy nước mà lại có cần câu trong tay. Cần phải cảnh giác những kẻ đam mê – anh ta kết luận một cách triết lý.
Tôi đi đến nhà đèn đây – Smytrakis có lẽ không hiểu ý nghĩa câu nói Gordon. Alex nhìn quanh. Họ đã đến trước cửa tòa nhà. John Mellow và Caroline đang moi những cuộn dây ni lông từ trong bọc ra phơi nắng.
Nhà đèn ở đâu? Joe nhìn ra xung quan, nhưng không thấy bóng dáng của nhà đèn thông thường.
Kia kìa – Smytrakis chỉ tay vào một ngôi nhà nhỏ xây bằng đá đẽo, khó nhận ra vì màu của nó lẫn với màu của vách núi đá. Anh ta cười với mọi người, cúi đầu chào rồi bước nhanh về phía nhà đèn. Gordon đặt chiếc hòm cạnh chân Caroline.
Đây, những thứ mà cô muốn đây. Lạy Chúa! – anh lau mồ hôi trán – vào những ngày thế như thế này không nên bắt ai làm việc cả. Trời cứ mỗi lúc một oi bức dù đã quá trưa rồi. Bầu không khí có vẻ khác lạ đây. Hay áp suất khí quyển hạ?
Cậu chưa quen đấy thôi – Mellow vừa nói vừa đứng dậy – xong, bây giờ có lẽ không cần làm gì thêm.
Mary Sanders và Pamela Gordon mặc quần áo mỏng xuất hiện ở lối ra vào.
Các bạn hãy mở các hòm này ra – Caroline đứng dậy, lộn trái cái túi và rũ mạnh – Hãy lấy đèn pin kiểm tra xem nó có sáng không. Anh Joe, anh thay quần áo đi. Bộ quần áo leo núi, em để trong phòng ấy. Anh có mang theo đôi giầy nào khác không? – Cô nhìn đôi giầy của anh lắc đầu – tí nữa chúng ta sẽ khởi hành đấy.
Anh có mang – Alex gật đầu với vẻ mặt nghiêm trọng. – Anh còn mang theo cả một số mảnh giấy cổ để khi nào tới hang anh sẽ ném vào đấy. Chúng sẽ làm cho em vui thích, thêm phấn khởi tìm kiếm Nữ thần Mê cung.
Anh bước vào phòng, thay quần áo. Lúc ra, mọi người đã sẵn sàng lên đường. Caroline đưa cho anh một chiếc đèn pin to, màu bạc và một cuộn dây ni lông nhỏ mầu xanh.
Mỗi nhà khoa học đáng kính đều phải có một nhóm cộng sự chung quanh – Cô nói và quấn cuộn dây vào vai anh. Sau đó cô quay lại giáo sư Hugh Lee và nói – Chúng tôi đã sẵn sàng, thưa giáo sư.

 

 

Chú thích:
[1] Đô-la