Hồi 6
Gian nhân mang nhãn anh hùng khấp
Tự bất đa tình, hựu đắc tình

Trưa hôm sau, Quí gia trang khai đàn cúng bốn mươi chín ngày cho Hồng Diện Tài Thần. Đích thân Quảng Tâm thiền sư và thập bát la hán sẽ tụng kinh cầu siêu.
Trên bàn vong, ngoài trái cây còn có chiếc đầu của Dương Châu công tử Phó Duy Khang.
Chiều xuống thì cuộc tế lễ viên mãn. Quí Thành Lâm cho bày đại yến chiêu đãi quan khách nhất là mấy trăm cao thủ đã khổ công truy lùng hung thủ.
Thành Lâm cao giọng:
- Tại hạ xin mượn chén rượu nhạt để tỏ lòng tri ân chư vị đã hết lòng vì tiên phụ. Nay Âu Dương công tử đã tìm ra hung thủ, giúp tại hạ trả được mối phụ thù, chư vị có thể yên tâm hồi gia, Quí mỗ và toàn gia tộc chẳng bao giờ dám quên ân nghĩa này.
Mọi người hào hứng cạn chén và hết lời khen ngợi Hồng Nhất Điểm.
Quảng Tâm thiền sư hoan hỉ hỏi:
- Vì sao Âu Dương thí chủ lại đoán ra Phó Duy Khang là hung thủ?
Mọi người cũng thắc mắc như vậy nên im lặng lắng nghe. Chính Lan ngượng ngùng đáp:
- Thực ra tại hạ cũng chỉ gặp may thôi. Năm kia tại hạ đi ngang một cánh rừng trên đất Thiểm Tây, tình cờ phát hiện mười mấy xác chết. Họ đều bị kiếm hạ sát và xương sống bị chẻ làm đôi. Từ đó, tại hạ suy ra con của Thiên Diện đại phu đang điều chế Tứ Bội thần đan. Tiên sư đã qua đời, vì vậy họ Hà sẽ nhằm vào tại hạ mà đòi nợ. Nhưng lão ta lại ngán sợ công phu Nhất Điểm Hồng, tất sẽ tìm người thế mạng. Người này phải có mối thù với tại hạ thì mới chịu hợp tác với lão ta, lại thêm việc Diêm La kiếm pháp đòi hỏi đến bốn mươi năm công lực, khiến tại hạ càng thêm nghi ngờ. Nay Dương Châu công tử xuất hiện ở Nam Kinh, đột nhiên trở nên khoẻ mạnh, vung tay xài đến mấy ngàn lượng vàng, khiến tại hạ chú ý đến.
Đại Đầu Cái mỉm cười gật gù như khen ngợi. Hy Văn Cư Sĩ thì dơ ngón cái tán thưởng:
- Cơ trí của công tử quả là siêu việt.
Bỗng Chính Lan nghe tiếng truyền âm vo ve bên tai:
- Lão phu là Lô Chính Ngôn có vài lời cảnh báo, không hiểu thiếu hiệp có chịu nghe chăng?
Chính Lan vội đáp:
- Tại hạ xin rửa tai lĩnh giáo, mời bang chủ cứ nói.
- Thiên Diện đại phu là người cực kỳ ác độc và gian xảo. Lão luôn luôn tìm cách hành hạ kẻ thù, đưa họ vào cảnh tan nhà, nát cửa, sống dở, chết dở rồi mới chịu xuống tay kết liễu. Nam tử của lão là Hà Đăng Long, tuy không lộ diện nhưng mười năm nay lại âm thầm chỉ huy một tổ chức hắc đạo rất thần bí, có tên là Phú Quí hội. Hầu hết các vụ cướp bóc lớn đều do bang hội này thực hiện. Cổ nhân có câu hổ phụ sanh hổ tử, lão phu e rằng Hà Lăng cũng tàn nhẫn chẳng kém gì Thiên Diện đại phu. Vì vậy, thiếu hiệp phải hết sức thận trọng khi đối phó với lão, chỉ sơ hở là ôm hận suốt đời.
Chính Lan lo lắng nói:
- Bang chủ là bậc đại trí, xin chỉ giáo lương sách cự địch.
Đại Đầu Cái thở dài:
- Trước mắt, thiếu hiệp cứ tiết lộ thân phận Phú Quí hội chủ của Hà Lăng, rồi công khai khiêu chiến với lão. Đó là cách trói tay, ngăn những thủ đoạn hạ lưu của Hà Lăng. Nhưng dẫu sao cũng phải hết sức cảnh giác vì chưa chắc lão ta đã chịu tuân theo qui củ giang hồ.
Chính Lan hiểu ý, hắng giọng rồi đứng lên vòng tay nói lớn:
- Kính cáo chư vị đồng đạo! Nhân dịp này tại hạ cũng xin tiết lộ một bí mật kinh người.
Quần hào phấn khởi lắng nghe, Chính Lan cao giọng:
- Mấy năm nay, có một tổ chức khủng bố tên là Phú Quí hội âm thầm hiện hữu. Họ thực hiện những vụ giết người, cướp của rất tàn nhẫn và êm thắm. Hà Lăng, nam tử của Thiên Diện Đại Phu, chính là Hội Chủ của Phú Quí hội!
Mọi người ồ lên kinh ngạc. Giang Tây Thần Bộ Trịnh Thiều ứng tiếng:
- Âu Dương công tử nói không sai, ngày còn ở nha môn, tại hạ đã từng điều tra những vụ án do Phú Quí hội gây ra! Thủ đoạn của họ vô cùng ác độc và chẳng hề để lại manh mối nào!
Chính Lan nói tiếp:
- Vì chính nghĩa võ lâm, không thể để Phú Quí hội hoành hành, tại hạ chính thức khiêu chiến với Phú Quí hội chủ Hà Lăng tại chân núi Thiếu Thất, vào sáng ngày rằm tháng hai sang năm. Mong chư vị đồng đạo loan báo tin này ra khắp bốn phương.
Quần hào hoan hỉ hứa sẽ truyền bá lời khiêu chiến, trên đường họ trở về cố quận. Đạo Huệ sư thái chưởng môn phái Nga Mi mỉm cười hỏi:
- Vì sao Âu Dương thí chủ lại biết được lai lịch của Phú Quí hội chủ?
Mặt bà lúc nào cũng nghiêm lạnh nhưng nụ cười lại rất hiền lành và giọng nói dịu dàng. Chính Lan gượng cười đáp cho qua:
- Tại hạ dốc sức điều tra tung tích kẻ gia thù, nào ngờ vô tình khám phá ra bí mật của Phú Quí hội.
Hy Văn Cư Sĩ dơ ngón cái khen ngợi:
- Xem ra cái danh vạn bác của lão phu phải nhường cho công tử mất rồi.
Lúc tiệc sắp tàn, Quí Thành Lâm trao tặng cho quan khách mỗi người một gói bạc để làm lộ phí. Chẳng ai từ chối vì sợ làm buồn lòng họ Quí.
Chính Lan về đến phòng, đưa món quà ấy cho Chu Thục Nghi cất giữ. Nàng mở ra xem, ồ lên cảm động. Mọi người xúm lại xem thì thấy năm món nữ trang bằng vàng cẩn minh châu và mười tấm ngân phiếu ngàn lượng vàng. Thục Nghi cầm phong thư đưa cho Chính Lan:
- Tướng công, Quí công tử có thư cho chàng.
Chính Lan mở ra đọc.
“Âu Dương huynh nhã giám!
Đại ân của huynh đài sánh tựa non cao, gia mẫu đã lệnh cho tại hạ dâng số vàng này để tỏ chút lòng thành. Cuộc chiến với Phú Quí hội sẽ vô cùng khó khăn, đòi hỏi nhiều nhân lực và tài lực. Xét ra, Hà Lăng chính là kẻ chủ hung trong cái chết của tiên phụ. Huynh đài mà giết được lão thì hương hồn tiên phụ mới ngậm hờn. Từ nay, Quí gia trang xin tận lực sát cánh với huynh đài.
Thành Lâm bái bút.”
Hỏa chân nhân nghiêm giọng:
- Quí hiền điệt nói không sai đâu, Lan nhi bất tất phải áy náy.
Tây Môn Tử Quỳnh lo lắng hỏi:
- Tướng công! Trong thư, Quí công tử có nhắc đến Phú Quí hội, chẳng hay sự việc thế nào?
Chính Lan bèn kể lại việc mình được Đại Đầu Cái tiết lộ lai lịch kẻ đại cừu. Hà Lăng là hội chủ Phú Quí hội và cũng là người đã giết song thân chàng. Đối phương rất giỏi nghề hóa trang và thủ đoạn vô cùng tàn ác, nên chàng lo ngại cho thân quyến. Tiểu Linh Thố Tây Môn Tố Bình thở dài:
- Tiểu muội học nghề cải sửa dung mạo của Cửu Hoa Bà Bà, từng được nghe kể về bản lãnh dịch dung của Thiên Diện đại phu. Quả thực lão ta có thể biến ra bất cứ người nào để ám hại đối thủ của mình. Phương pháp phòng bị tốt nhất là đặt những mật khẩu để nhận biết nhau, kể cả phu thê, huynh đệ cũng phải đề phòng, không được xao lãng.
Trại Tây Thi góp ý:
- Về mật khẩu, thiếp đề nghị dùng phép cộng tròn số. Ví dụ chúng ta chọn số chín thì một người sẽ nói trước, và người kia nói số thứ hai sao cho đủ chín.
Cả bọn đều tán thành, quyết định sẽ chọn số chín. Sau vài ngày sẽ lấy số khác. Thấy bầu không khí nặng nề, u ám, Chính Lan mỉm cười trấn an:
- Dẫu thuật dịch dung có cao siêu cách mấy cũng phải tìm cho được người có vóc dáng tương đồng với mục tiêu. Chúng ta quá thân thiết với nhau, thuộc lòng phong thái, cử chỉ, lẽ nào lại không phát hiện ra, các nàng cứ yên tâm, đừng quá ưu tư như thế.
Tố Bình vui vẻ xác nhận:
- Tỷ phu nói đúng, việc hóa trang đòi hỏi nhiều điều kiện chứ không phải chỉ ở vẻ mặt? Có những người không thể làm giả được, ví dụ như gia phụ, Hán Trung Tam Nhốc chẳng hạn.
Thục Nghi phì cười:
- Phải rồi! Đầu của ba gã ngốc kia láng bóng, đến chân tóc còn không có, làm sao giả cho giống được?
Tố Bình nói thêm:
- Gia sư từng bảo muốn nhận biết giả chân thì nên chú ý đến hàm răng. Đó là chỗ không thể sửa được, và chẳng ai giống ai.
Kính Hồ Tiên Cơ ngây thơ hỏi:
- Chẳng lẽ gặp ai cũng bắt họ nhe răng ra hay sao?
Cả nhà ôm bụng cười, nỗi lo sợ tan biến cả.
Họ quây quần đến cuối canh hai mới đi nghỉ. Chính Lan giữ lễ với tang gia nên sang nghỉ với Hỏa chân nhân. Chàng xa thê thiếp đã lâu nên rất nhớ, nhưng trong khung cảnh tang tóc này, chẳng thể vui ái ân được. Như vậy, năm mỹ nhân chia nhau ba phòng trong tiểu xá này. Tố Bình riêng một phòng, Tử Quỳnh, Uyển Như phòng thứ hai, Mỹ Kỳ, Thục Nghi phòng thứ ba. Chính Lan trằn trọc, suy nghĩ mãi đến cuối canh ba mới thiếp đi.
Mờ sáng, chàng bỗng giật mình thức giấc bởi tiếng than khóc thất thanh của đám nữ nhân ở tòa tiểu xá bên cạnh. Chính Lan kinh hãi khoác vội áo, chạy như bay ra cửa, lao về phía hướng ấy. Tiếng gầm giận dữ bi thương của Hỏa chân nhân báo hiệu điềm chẳng lành.
Vào đến nơi, thấy cả năm mỹ nhân vẫn còn sống, nhưng đang ôm nhau khóc vùi. Chàng hốt hoảng hỏi:
- Việc gì đã xảy ra vậy?
Nghe tiếng chàng, đám mỹ nhân buông nhau ra, đưa tay quờ quạng bước đi, khóc gọi:
- Tướng công! Tướng công đâu rồi?
Chính Lan chết lặng, nhận ra họ đều đã mất thị giác. Nhưng không phải tất cả, Tố Bình đã chạy đến nắm tay chàng nức nở:
- Tỷ phu ơi, họ đều bị mù cả rồi.
Cảm giác đau đớn và căm hận xâm chiếm tâm hồn chàng. Chính Lan hiểu ngay rằng Phú Quí hội chủ Hà Lăng đã có mặt ở đây và ra tay ám hại đám thê thiếp của mình. Chàng cố nén lòng, bước đến dắt bốn mỹ nhân ngồi xuống giường rồi vỗ về:
- Các nàng yên tâm, để ta xem thử đối phương đã thi thố thủ đoạn gì?
Hỏa chân nhân run giọng:
- Lão phu đã kiểm tra rồi, đây là thủ pháp Kim Châm Bế Mạch của Thiên Diện đại phu. Hung thủ đã xông mê hương rồi dùng kim cắm vào ba huyệt Mục Sang, Dương Bạch, Suất Cốc trên đầu để phong tỏa nhãn mạch. Sau nửa năm, nếu không tìm ra cách chữa trị, họ sẽ mù suốt đời. Ngươi hãy xem lá thư này sẽ rõ.
Chân nhân đưa cho Chính Lan một tờ hoa tiên.
“Âu Dương tiểu tử. Lão phu rất thích có được một đối thủ lợi hại như ngươi. Kể từ nay, mỗi bước chân của ngươi đều có thể sa vào cạm bẫy. Việc làm mù mắt bốn mỹ nhân chỉ là động tác khởi đầu. Lão phu sẽ giết từng người một để ngươi phát điên mà chết.”
Thư không thủ danh nhưng cũng đủ hiểu ai là tác giả. Chính Lan hít một hơi chân khí, cố trấn tĩnh nói với các nàng:
- Ta vẫn thường bảo các nàng rằng lần này có kẻ đại cừu rất lợi hại, nay sự thực đã chứng minh điều ấy. Lão Hà Lăng kia muốn ta phải chết vì đau khổ nên mới ra tay ám hại thê thiếp. Thủ pháp Kim Châm Bế Mạch thực ra vẫn còn có người giải được, xin bốn nàng hãy bình tâm để ta lo liệu.
Giọng chàng vô cùng tha thiết và bi thương nên đã trấn an được các nạn nhân. Kính Hồ Tiên Cơ dịu dàng nói:
- Chỉ cần tướng công tỉnh táo để đối phó với kẻ thù, sống sót mà sum họp cùng nhau, dẫu phải mù lòa bọn thiếp cũng cam tâm.
Lời nàng đã nhắc nhở cho ba nữ lang kia hiểu rằng sự tình còn có thể tồi tệ hơn nữa nếu Chính Lan chết đi. Sự tuyệt vọng của họ sẽ khiến chàng chìm đắm trong đau khổ và dễ dàng bị cừu nhân tiêu diệt.
Trại Tây Thi Du Mĩ Kỳ là người cương cường hơn cả. Nàng gạt lệ nói:
- Đúng vậy! Bọn ta là giang hồ nhi nữ chứ nào phải tiểu thư khuê các? Sao lại khóc lóc, bi ai để trúng kế đối phương?
Hai nàng kia cũng gượng cười. Thục Nghi cố nói thêm:
- Tướng công! Thiếp cũng đồng ý với họ, nhưng chỉ sợ không được thấy mặt con thơ.
Chính Lan mừng rỡ hôn lên trán nàng:
- Té ra nương tử đã có hỉ tín rồi ư?
Thục Nghi bẽn lẽn gật đầu.
Lúc này các chưởng môn và Quí công tử đã xuống đến. Họ hỏi han cớ sự và hết lời nguyền rủa Hà lão tặc. Quí Thành Lâm đau đớn nói:
- Vì chuyện của Quí gia trang mà huynh đài mang họa, Lâm tôi vô cùng hổ thẹn.
Chính Lan định nói cho gã biết Hà Lăng cũng là kẻ đại cừu của mình, nhưng lại sợ đối phương đoán ra việc Nhu Diện Phán Quan dùng công phu Qui Tức Bảo Tâm đại pháp giả chết, bí mật này là một lợi thế của Chính Lan.
Cha chàng bị bất ngờ nên thọ thương rồi mới bế mạch. Nếu ông đoán trước được nguy cơ, thi triển thần công sớm hơn thì chẳng thể nào chết nổi. Lúc ấy, huyệt đạo toàn thân đóng kín, dời đổi vị trí, dẫu trúng kiếm thương cũng không đến nỗi trừ khi bị đâm vào tim hay óc.
Hy Văn Cư Sĩ buồn rầu hỏi:
- Nay Hà Lăng đã tàn độc như vậy, công tử tính sao?
Chính Lan điềm đạm đáp:
- Tại hạ chưa có chủ ý gì, trước mắt phải lo việc chữa trị cho chuyết thê.
Quảng Tâm thiền sư nghiêm trang nói:
- Thủ đoạn ám hại đàn bà con trẻ thế này thực là đáng giận, chẳng phải là hành vi của người võ lâm. Nếu thí chủ thấy cần, lão nạp sẽ phát võ lâm thiếp, huy động cả giang hồ tiêu diệt bọn Phú Quí hội.
Chính Lan kính cẩn từ chối:
- Cảm tạ thịnh tình của thiền sư, nhưng tại hạ cho rằng chưa đến lúc. Khi nào Phú Quí hội ra tay khuynh đảo võ lâm sẽ tính sau.
Các chưởng môn nói lời chia buồn rồi cáo từ. Chính Lan đã tranh thủ truyền âm với Đại Đầu Cái:
- Mong bang chủ mau chóng đưa tin đến Trường An, Tô Châu, Từ Châu báo cho ba vị nhạc phụ của tại hạ biết tình hình. Tốt nhất là bảo họ tìm nơi lánh nạn ngay.
Lô Chính Ngôn an ủi:
- Lão phu đảm bảo sẽ dấu họ vào chỗ an toàn.
Khách ra cả, Quí Thành Lâm mới hỏi:
- Vì sao công tử không tra xét hung thủ?
Chính Lan lắc đầu:
- Vô ích thôi, Hà Lăng đích thân ra tay thì không bao giờ để lại dấu vết.
Họ Quí suy nghĩ một lúc rồi bảo:
- Nay tứ vị phu nhân đều đã mất thị giác, trở thành người cần được bảo vệ. Tại hạ e rằng Phú Quí hội sẽ cho người phục kích chư vị trở về Nam Dương. Lúc ấy, vướng tay vướng chân làm sao đối phó được? Hay là chư vị cứ ở lại đây và tìm danh y điều trị?
Hỏa chân nhân cười nhạt:
- Chắc chắn đối phương cũng nghĩ như vậy. Bọn ta ở lại sẽ là mục tiêu cho Phú Quí hội thi thố thủ đoạn. Vì vậy, ngay đêm nay sẽ phải âm thầm rời Quí gia trang. Sau khi an trí xong bốn con bé tội nghiệp này, lão phu và Chính Lan sẽ có kế hoạch tấn công.
Quí Thành Lâm đề nghị:
- Trước lúc gia phụ qua đời, tại hạ có mua ba trăm mẫu rừng ở cửa tây thành nằm cạnh bờ sông, trong ấy có tòa biệt viện rất xinh đẹp, tiện nghi, trừ tại hạ và gia mẫu ra, không ai biết đấy là tài sản của Quí gia trang. Hay là chư vị đến đấy mà ẩn mặt?
Chính Lan hỏi sơ địa thế, đường ra vào rồi chấp thuận:
- Tại hạ xin tuân mệnh.
Quí Thành Lâm mỉm cười:
- Tại hạ xin tặng cơ ngơi ấy cho công tử.
Chính Lan chưa kịp từ chối thì gã đã bỏ đi.
Ngay đêm hôm ấy, Chính Lan cõng Uyển Như trên lưng, tay bồng Thục Nghi. Tây Môn Nhỉ và Tố Bình thì ẵm Mỹ Kỳ và Tử Quỳnh. Họ âm thầm rời Quí gia trang đi về nơi ở mới.
Giang Tây Thần Bộ Trịnh Thiều và bốn tỳ nữ thân tín đã chờ sẵn. Sáng ra, một cỗ xe tứ mã, mui kín do Hỏa chân nhân cầm cương và Chính Lan hộ tống chậm rãi rời thành Nam Kinh.
Lúc đi ngang cửa bắc, có một hán tử đang đứng dựa gốc cây nhìn theo cỗ xe, mỉm cười bí ẩn rồi rảo bước.
Ra khỏi thành, Tây Môn Nhỉ vung roi quất cho bốn con ngựa phi nước đại. Đoạn đường quan đạo này rộng rãi và bằng phẳng, nhưng chỉ được hai chục dặm đã hẹp lại và ghồ ghề. Hai bên đường là gò đống ngổn ngang và bụi rậm cao hơn đầu người.
Vừa nghe tiếng dây cung bật, Chân Nhân và Chính Lan đã rải ngay bốn trái Đảo Thiên thần đạn. Hỏa khí nổ vang trời, khói bụi mù mịt, che phủ nhãn tuyến bọn phục binh. Cỗ xe tiếp tục lao như tên bắn, vượt qua đoạn mai phục. Trường tiễn bắn đuổi theo như mưa, cắm chi chít vào thùng xe.
Toán hắc y không dám đuổi theo ngay vì e dè thần đạn. Bốn trái lúc nãy đã sát hại hơn hai chục cung thủ.
Cỗ xe tứ mã chạy thêm vài dặm, rẽ vào đường mòn bên hữu và không thấy trở ra. Khi toán hắc y đến nơi thì cỗ xe trống không, ngựa bị tháo khỏi càng xe. Dấu vó ngựa tỏa ra nhiều hướng khiến chúng phân vân chẳng biết đuổi theo phương nào.
Ít ngày sau, cả giang hồ xôn xao về việc Phú Quí hội chủ Hà Lăng dở trò đê tiện ám hãi võ lâm tứ đại mỹ nhân sa cảnh mù loà. Lão còn đặt phục binh chặn đường, nhưng may mà bọn Chính Lan đã thoát được.

*

Gần cuối tháng mười một, trời trở rét đậm, tuyết rơi dày và gió đông thổi mạnh. Dẫu đang buổi trưa mà không gian u ám như chiều tối, vậy mà trên đường quan đạo có một người kỵ sĩ vẫn dong ruổi. Phải nhìn kỹ mới thấy vì gã mặc áo lông và mũ màu trắng, hòa lẫn trong màn mưa tuyết.
Hán tử ngước mặt nhìn rặng Cửu Hoa sơn ở phía trước, ước lượng còn xa đến sáu chục dặm, nên dừng cương trước tửu quán ven đường.
Gã cột ngựa vào thanh gỗ trước sân, phủi tuyết rồi vén màn da bước vào trong. Tiểu nhị ân cần mời mọc khách lạ. Hán tử gọi mâm rượu thịt, ngồi xuống ghế và lột nón lông ra.
Lúc này chúng ta mới có thể nhìn rõ gương mặt xương xương phủ kín bởi bộ râu rậm. Tuy vậy, trông gã không có vẻ dữ tợn vì cặp mắt sâu kia phảng phất nỗi buồn mênh mang. Chỉ có người mang tâm sự nặng nề như Chính Lan mới có ánh mắt đấy. Chàng không hề sợ hãi kẻ thù nhưng lại đau lòng cho bốn người vợ trẻ tội nghiệp. Họ đang sống trong tăm tối, chờ đợi chàng tìm được danh y.
Chính Lan kiêm trình không nghỉ, cố đến núi Cửu Hoa sơn thật sớm để tìm Cửu Hoa Bà Bà sư phụ của Tây Môn Tố Bình. Bà là người duy nhất giải phá được thủ pháp Kim Châm Bế Mạch của Thiên Diện đại phu. Chàng phải gặp bà bà trước khi đám sát thủ Phú Quí hội thủ tiêu bà.
Chính Lan ăn nhiều nhưng uống rất ít. Chàng phải đề dành khí lực đối phó với mọi bất trắc. Xong bữa, chàng gọi tiểu nhị tính tiền và định lên đường. Nhưng bất ngờ ngoài sân vang lên tiếng ai rất quen thuộc:
- Chủ quán đâu, mau mở rộng cửa cung nginh ngọc giá Xà Nữ Vương.
Giọng nói của tam ngốc Hồ Phùng Tường thì chẳng lẫn vào đâu được.
Chính Lan ngồi lại để xem sự thể. Tiếng mãnh hổ gầm vang khiến thực khách run bần bật. Tất nhiên chẳng gã tiêu nhị nào dám ra đón khách.
Và rồi bức màn da ngựa che gió tuyết bị lợi đao cắt đứt, rơi xuống đất. Một cảnh tượng lạ lùng hiện ra trước mắt mọi người. Đó là một toán gồm bảy người, ba nam bốn nữ. Nam là ba gã đầu trọc trơn bóng không một cọng tóc, thân khoác chéo tấm da báo, lưng cài đơn đao trông rất dữ tợn còn bốn nữ thì một cưỡi bạch hổ, ba cưỡi ngựa, mặc Miêu phục, tóc buông xõa.
Tuy trông oai phong, kỳ dị như thế nhưng giờ đây họ đang run lên vì lạnh. Da báo chỉ che được lưng, ngực và hạ thể, còn chân tay trỏ cả ra dưới ngọn gió đông. Miêu phục mỏng manh lại càng chẳng thể giữ ấm cơ thể. Vì vậy, cả bọn kéo tất vào quán, xúm lại chậu than hồng mà sưởi ấm. Lúc này Chính Lan mới nhận ra trên cổ Hán Trung Tam Ngốc Hiệp có quấn một con kim xà chỉ nhỏ bằng ngón tay út. Chàng từng ở Vân Nam nên biết kim xà này cực độc. Có lẽ ba gã ngốc kia đã bị Xà Nữ Vương khống chế bằng cách ấy.
Nhị ngốc Hồ Giả hùng hổ đập bàn quát tháo:
- Các ngươi có mau dọn ra một mâm thượng hạng hay là muốn làm mồi cho bạch hổ?
Tất nhiên chủ quán và tiểu nhị mau mắn bưng rượu thịt lên.
Tam ngốc Hồ Phùng Tường kính cẩn mời Miêu nữ trẻ đẹp vào bàn trước. Nàng quay lại nên Chính Lan mới biết vòng dây vàng chói quấn quanh đầu cũng là một con rắn, nhưng da nó óng ánh như hoàng kim và có màu đỏ rực trên cái đầu hình tam giác.
Bạch hổ đang nằm chắn ngang cửa cũng gầm lên đòi ăn. Đại ngốc Hồ Đạo Tịnh vội bảo chủ quán lấy cho nó mười cân thịt sống.
Tấm da chắn cửa đã không còn nên gió lồng lộng đưa tuyết vào trong quán. Thực khách lạnh run lên nhưng chẳng dám than phiền.
Xà Nữ Vương cũng thấy lạnh, nàng buông đũa giận dữ nói:
- Ba ngươi đã được phong chức Điện Tiền tướng quân thế mà không kiếm nổi cho bổn nữ vương và ba tỳ nữ tấm áo choàng lông, thật là đáng trách.
Nhị ngốc nhăn nhó đáp:
- Mong nữ vương lượng thứ cho, bọn hạ thần cũng đâu ấm áp gì. Nhưng muốn mua áo lông thì phải có ngân lượng, nay chúng ta chẳng có xu nào, chẳng lẽ đi ăn cướp?
Xà Nữ Vương trợn mắt quát:
- Ta không cần biết, bọn ngươi làm sao có thì thôil Lạnh thế này làm sao đến được Hoàng Cúc lâu?
Chính Lan giật mình, không hiểu tam ngốc đưa đám Miêu nữ này đến đấy làm gì?
Nhị ngốc Hồ Giả nhìn quanh, thấy chỉ mình áo lông của Chính Lan là tốt nhất, gã mừng rỡ đứng lên, chỉ mặt chàng quát:
- Tên râu rậm kia, muốn sống thì mau dâng áo lông cừu cho nữ vương.
Chính Lan mỉm cười:
- Bảy người mà chỉ có một tấm áo e không đủ. Để tại hạ tặng chư vị bảy chiếc áo choàng lông.
Chàng móc ra nén vàng mười lượng, bảo chủ quán:
- Lão cho người đi mua ngay bảy chiếc áo lông tốt nhất, còn dư ta thưởng luôn.
Lão mừng rỡ mở cửa sau, lên lưng con ngựa già, chạy như bay đến trấn gần đấy. Xà Nữ Vương thấy vậy cảm kích bước sang ngồi đối diện chàng:
- Từ ngày rời Miêu Lĩnh, bổn nữ vương mới thấy có một người tốt bụng như các hạ. Hay là các hạ theo hầu ta và nhận chức thừa tướng?
Chính Lan không đáp mà hỏi lại:
- Vì sao nữ vương lại phải rời quê hương, lặn lội ngàn dặm đến Hoàng Cúc lâu?
Miêu nữ buồn rầu đáp:
- Ta nhận di mệnh của tiên sư là Kim Xà phu nhân đi tìm đồ đệ của Hoàng Hạc sư bá. Ân sư bảo rằng ta và chàng có mối lương duyên thiên định. Khi vượt Hoàng hà, tình cờ gặp ba gã ngốc này, được biết họ là em của chàng nên bắt dẫn đi. Họ xấu xí, ngu ngốc như vậy chắc Âu Dương Chính Lan cũng chẳng ra gì. Thực lòng ta chẳng muốn lấy chàng ta chút nào cả.
Chính Lan sửng sốt nhớ lại lời tâm sự của ân sư. Thời trai trẻ, ông từng lưu lạc đến Quảng Tây và kết nghĩa huynh muội với một nữ cao thủ Miêu tộc. Không ngờ giờ đây lại nảy sinh mối lương duyên lạ lùng này giữa chàng và Miêu nữ.
Chính Lan đang mang nặng mối ưu tư về bệnh tình của thê thiếp nên chẳng muốn đa mang thêm. Chàng nghiêm giọng:
- Nữ vương nhận xét không sai, gã Chính Lan kia cũng xấu xí, khờ khạo như ba gã này. Và giờ đây, gã đang bị cường địch truy sát nên bỏ Hoàng Cúc lâu trốn mất rồi. Tại hạ sẽ tặng lộ phí để cô nương trở về cố quận.
Vừa lúc lão chủ quán về đến, đem theo bảy chiếc áo choàng lông thượng hạng. Tam ngốc và bốn Miêu nữ mau mắn mặc vào, nhìn Chính Lan với cặp mắt biết ơn. Chàng mở tay nải lấy ra mười đỉnh vàng hai chục lượng, trao cho Xà Nữ Vương:
- Số vàng này đủ để cô nương trở lại Quảng Tây.
Ánh hoàng kim lấp lánh khiến mắt ba gã ngốc sáng lên. Nhị ngốc bước đến hỏi ngay:
- Nữ vương làm thế nào mà gã này lại dâng nạp nhiều vàng như vậy?
Miêu nữ hân hoan nói:
- Y bảo Chính Lan là một thằng ngốc giống như các ngươi, và hiện đã bị cường địch truy đuổi chạy khỏi Hoàng Cúc lâu. Vì vậy, y tặng lộ phí cho ta trở về Miêu Lĩnh.
Ba gã này tôn kính Chính Lan như thần nhân nên không chịu được lời xúc phạm. Đại ngốc gầm lên:
- Tên khốn kiếp kia. Ngươi dám đặt điều bôi nhọ đại ca của bọn ta phải không? Hồng Nhất Điểm oai trấn võ lâm, tài trí song toàn cả giang hồ đều biết.
Trong đám thực khách cũng có vài hào kiệt trẻ. Họ lập tức lên tiếng tán thành:
- Đúng vậy, Âu Dương công tử là thiên hạ đệ nhất kỳ nam tử, chẳng ai không biết.
Xà Nữ Vương ngơ ngác hỏi Chính Lan:
- Cả những người kia cũng tán dương Chính Lan, sao các hạ lại nói khác đi?
Chính Lan mỉm cười:
- Cô nương thử hỏi họ xem có phải Chính Lan đã bị Phú Quí hội chủ hãm hại cho đến tan nhà, nát cửa hay không?
Một chàng trai trẻ vai mang kiếm bi phẫn nói ngay:
- Đúng vậy, nhưng lão Hà Lăng kia chỉ nhờ quỉ kế và thủ đoạn hạ lưu mà đắc chí, chứ đâu phải nhờ võ nghệ? Âu Dương công tử muốn tránh trò ám toán đê tiện nên mới tạm ẩn mặt, chờ đến kỳ phó ước ngày rằm tháng hai mới hạ sát lão ác ma.
Bỗng từ bên ngoài có tiếng cười ghê rợn vọng vào:
- Không ngờ Hồng Nhất Điểm lại được nhiều người ái mộ đến thế.
Mọi người biến sắc nhìn ra thì thấy một toán nhân mã, đông đến hai chục người, đang đứng xếp hàng trước tửu quán. Tam ngốc điên tiết bước ra quát hỏi:
- Bọn ngươi là chó phương nào mà dám đến đây sủa vậy?
Lão già râu đen đứng hàng đầu cười nhạt:
- Phú Quí hội đây gã ngốc ạ.
Bất ngờ Xà Nữ Vương rú lên lảnh lót. Bạch hổ đang nằm chồm dậy, phóng ngay vào đoàn người kia. Đồng thời, ba Miêu nữ hầu cận cũng mở túi vải xua đàn ong độc ra. Hán Trung Tam Ngốc không bỏ lỡ cơ hội rút đao tham chiến ngay. Phe đối phương tuy đông nhưng bị bầy ong đốt cho tối tăm mặt mũi nên hỗn loạn cả lên.
Chính Lan đoán rằng bọn này đến giết Cửu Hoa Bà Bà, nên lửa giận bừng bừng, quyết không để chúng tẩu thoát. Chàng rút kiếm nhảy qua cửa sổ, vòng ra phía sau, đánh vào lưng chúng. Thanh trường kiếm của Chính Lan hóa thành đạo hào quang lạnh lẽo chặt phăng chiếc thủ cấp và đâm thủng ngực bọn sát thủ. Chưa bao giờ sát khí lại xâm chiếm con người chàng đến thế.
Chính Lan tận dụng pho Hoàng Hạc Khinh Vân, di chuyển như ánh chớp, không để tên nào chạy thoát. Và từ tay tả chàng, những đạo Huyết Tuyến Điểm Hồng bay ra xói thủng trán đối phương.
Ba gã ngốc kia đã nhận ra chàng, đồng thanh gọi vang:
- Đại ca!
Chúng phấn khởi múa tít loan đao giết liền ba tên sát thủ. Hơn khắc sau, chỉ còn lại lão già áo đen đứng vững, cố chống đỡ những chiêu kiếm mãnh liệt của Chính Lan. Chàng vừa đánh vừa nói:
- Nếu các hạ chịu qui phục, ta hứa sẽ hậu đãi.
Lão nhân nhảy lùi lại, ngửa cổ cười bi thiết:
- Tiếc rằng người của Phú Quí hội không hề biết sợ chết.
Dứt lời, lão trở kiếm đâm thủng ngực trái tự sát.
Hán Trung Tam Ngốc phục xuống tuyết nói:
- Đại ca, bọn tiểu đệ xui xẻo gặp đám Miêu nữ này nên không về kịp thời hạn.
Xà Nữ Vương cũng bước ra ngơ ngác hỏi:
- Vậy phải chăng các hạ là Âu Dương Chính Lan?
Chàng mỉm cười gật đầu. Miêu nữ mừng rỡ nắm tay chàng kể lể:
- Tướng công, thiếp là Liễu Thi Mạn, mừng được gặp chàn.! Ân sư đã di mệnh gả thiếp cho chàng đấy.
Lòng Chính Lan bối rối như tơ vò, chẳng biết nói sao. Ba gã ngốc lại không hiểu ý, bước đến chúc mừng:
- Đại ca quả là tốt phúc, lại lấy thêm được vợ đẹp.
Ba nữ tỳ người Miêu cũng cúi chào:
- Chúng nô tỳ bái kiến thiếu gia.
Đám hào kiệt trẻ trong quán chạy ra bái kiến. Một người đại diện nói:
- Bọn tiểu đệ ngưỡng mộ đại hiệp từ lâu, nay được diện kiến mới thỏa chí bình sinh.
Chính Lan hòa nhã nói:
- Cảm tạ chư vị đã có lòng sủng ái. Nay tại hạ phải đối phó với thủ đoạn đê tiện của Phú Quí hội nên thất thế. Những mong chư vị hỗ trợ bằng cách thủ tiêu đám tử thi và giữ kín chuyện hôm nay.
Chàng trai mập mạp vui vẻ nhận lời:
- Đại hiệp yên tâm, sẽ không một ai biết đại hiệp và bọn Phú Quí hội xuất hiện nơi này.
Chính Lan nói lời cảm tạ rồi hối thúc ba gã ngốc và các Miêu nữ lên đường. Dọc đường, chàng kể lại mối thù với Phú Quí hội cho tam ngốc nghe. Chúng giận dữ gầm lên, chửi mắng Hà Lăng không tiếc lời.
Hơn canh giờ sau, đoàn người đã đi được vài chục dặm. Chính Lan rẽ vào đường mòn xuyên qua rừng mé tả, đưa cả bọn đến một tòa trang viện nhỏ.
Nghe tiếng vó ngựa, một người áo trắng, râu đen, tuổi ngũ tuần chạy ra ngay. Chính Lan lột mũ lông cao giọng:
- Hai năm cách biệt, chẳng hiểu Trân huynh có còn nhận ra Chính Lan này không?
Lão nhân vui mừng khôn xiết, cười vang:
- Ta có thể quên cả tên mình nhưng đối với lão đệ thì chẳng bao giờ, xin mời vào.
Chính Lan lắc đầu:
- Tiểu đệ phải đi ngay Cửu Hoa sơn để tìm Cửu Hoa Bà Bà. Xin cho gởi những người này ở đây, xong việc, tiểu đệ sẽ quay lại.
Liễu Thi Mạn vội nói:
- Tướng công cho thiếp theo với.
Chính Lan nhăn mặt:
- Ta chỉ đi rước người chứ đâu đánh nhau mà nàng đòi theo.
Chàng quay ngựa đi ngay. Trân lão tủm tỉm cười:
- Tức muội yên tâm, trên đời chẳng có ai làm hại nổi Chính Lan đâu.
Đại ngốc ngập ngừng nói:
- Phải chăng các hạ là Thiên Thủ Thư Sinh Trân Dật?
Họ Trân gật gù:
- Chính là lão phu đây.

*

Âu Dương Chính Lan rạp mình trên lưng ngựa, phi nước đại trong làn tuyết về hướng núi Cửu Hoa. Chưa gặp mặt Cửu Hoa Bà Bà, chàng chẳng thể yên tâm được.
Chính Lan suy nghĩ đến nàng Miêu nữ ngây thơ Liễu Thi Mạn, lòng càng thêm bối rối. Dù nàng rất xinh đẹp nhưng chàng chẳng còn lòng dạ nào mà đón nhận mối lương duyên. Chính Lan quyết định phủ nhận và bảo nàng trở về Miêu Lĩnh.
Cuối giờ thân, Chính Lan mới đến chân rặng Cửu Hoa. Trong màn tuyết lất phất, chín ngọn núi diễm lệ như chín anh em đứng kề vai nhau. Vì vậy, núi này trước đây được gọi là Cửu Tử sơn hay Lãng Dương sơn. Có lẽ chính nhà thơ Lý Bạch đã đổi tên cho núi này. Ông đã ba lần đặt chân đến đây và từng đề thơ ca ngợi phong cảnh kỳ lạ:
“Tích tại Cửu Giang sơn
Dao vọng Cửu Hoa sơn
Thiên hà quái lục thượng
Tú xuất Cửu Phù Dung.”
Từ đó Lãng Dương Sơn được gọi là Cửu Hoa sơn. Oanh liệt thay lời thơ của bậc đại thi hào, đổi được cả tên của núi non. Cửu Hoa sơn là một trong tứ đại phật sơn của Trung Hoa. Từ thời Đông Hán, chùa chiền đã được xây dựng rất nhiều. Tổng cộng bảy mươi chín ngôi cổ tự, chia nhau hai mươi vạn bậc đá sơn đạo.
Nhưng hôm nay Chính Lan đến đây chẳng phải để viếng chùa chiền, chàng xuống ngựa, phi thân lên ngọn núi thấp nhất, tìm đạo am của Cửu Hoa Bà Bà. Chỉ vài trục trượng, Chính Lan đã lên khu rừng trúc trên sườn núi, bên trong thấp thoáng mái ngói rêu phong. Không nghe động tĩnh gì, Chính Lan yên dạ lướt vào, đứng trước cánh cửa gỗ khép kín, cao giọng:
- Vãn bối là Âu Dương Chính Lan, điệt tế của Hỏa chân nhân, xin bái kiến bà bà.
Cửa am mở rộng, một bà lão tóc đen, mặt phúc hậu, mặc đạo bào xanh xuất hiện. Bà ta tươi cười bảo:
- Té ra thí chủ là tỷ phu của con nha đầu Tố Bình đấy ư? Hãy vào đây!
Bà quay lưng đi vào. Chính Lan kính cẩn theo sau. Tình cờ chàng nhìn xuống đất, nhận ra gót giầy bà bà có màu đỏ tươi. Tố Bình từng kể rằng sư phụ nàng rất ghét màu đỏ. Chính Lan chợt nảy sinh cảm giác bất an, vội dồn chân khí ra song thủ, toàn thân căng lên, sẵn sàng đối phó.
Nhờ vậy, chàng thoát chết vì Cửu Hoa Bà Bà đã quay lại miệng mỉm cười nhưng song chưởng giáng mạnh vào ngực chàng. Khoảng cách quá gần, nếu không đề phòng trước, chẳng cách nào phản ứng kịp.
Nhưng Chính Lan đã cử song thủ đỡ đòn. Bốn bàn tay chạm nhau, chưởng kình nổ vang rền và đối phương văng ngược ra phía sau, máu miệng phun thành vòi, chết không kịp ngáp.
Biết đã rơi vào bẫy, Chính Lan lộn người bay ra khỏi cửa am, rời khỏi khu vực hiểm nghèo. Nhờ phản ứng thần tốc ấy, chàng vào được khu rừng trúc trước khi tiếng dây cung bật. Mấy trăm mũi trường tiễn bắn đuổi theo chạm vào hàng trúc trở lên vô dụng.
Toán phục binh gồm gần trăm kiếm thủ áo trắng rời chỗ ẩn nấp, bỏ cung tên, xông vào rừng trúc truy sát Chính Lan.
Giờ đây, chàng đã như hổ dữ vào rừng nên chẳng coi bọn kia ra gì. Chính Lan kéo mũ lông che kín đầu, nằm phục sát đất, ẩn trong lớp tuyết. Và bằng những đòn bất ngờ, chàng giết từng tên một. Gió bấc mạnh lên khiến không gian mù mịt, lại là lợi thế của Chính Lan. Nhãn lực của chàng tinh tường hơn nên thấy rõ đối phương khi chúng chưa nhận ra chàng. Chỉ hai khắc Chính Lan đã giết được bốn chục tên, máu hồng nhuộm đỏ mặt tuyết trong rừng.
Bỗng bọn sát thủ Phú Quí hội rút cả ra và có giọng khàn khàn vang lên:
- Chính Lan! Lão phu là Hà Lăng đây, ngươi có dám ra thử vài chiêu không?
Chính Lan còn thủ bốn trái Đảo Thiên thần đạn nên không sợ bị vây. Chàng quyết định đối diện với kẻ thù để kết liễu oan cừu, liền rời rừng trúc, bước ra khoảng sân trước cửa đạo am.
Toán bạch y đã biến mất, chỉ còn một lão nhân áo vàng. Dung mạo của lão xa lạ, chẳng hề giống bức hoạ mà Nhu Diện Phán Quan để lại. Chính Lan cười nhạt:
- Lão sợ không địch lại ta nên luôn bày mưu, tính kế ám hại, chứ chẳng dám chờ đến kỳ phó ước.
Hà Lăng mỉm cười âm hiểm:
- Lão phu suốt đời hành sự rất cẩn thận, chẳng kể gì đến đạo nghĩa hay qui củ võ lâm. Vì vậy, hôm nay lão phu sẽ chặt đứt mười ngón tay của ngươi trước, để xem ngươi còn dám đến phó ước nữa không?
Chính Lan lặng lẽ dồn chân khí vào thân kiếm, miệng cười nói:
- Khoan đã! Ta có điều muốn hỏi?
Chưa dứt lời, chàng đã nhảy xổ vào đối phương. Chính Lan đã áp dụng phương trâm dị độc trị độc để chiếm tiên cơ. Hà Lăng đã quá đê tiện, không trừ một thủ đoạn nào, thì chàng chẳng thể giữ mãi thái độ quân tử. Một người thợ săn rình rập, lén bắn ác thú thì cũng chẳng ai trách cả.
Chính Lan xuất chiêu Khai Liêm Kiến Nguyệt, kiếm quang rực rỡ tỏa rộng như ánh trăng rằm, bao trùm cả thân thể Hà Lăng.
Lão tặc bị bất ngờ nên rơi vào thế hạ phong, múa tít trường kiếm bảo vệ toàn thân. Kiếm kình cuồn cuộn quanh người, kín đáo và liền lạc như mặt nước. Rõ ràng công lực của lão hơn hẳn Chính Lan.
Nhưng chiêu vén rèm thấy trăng là tuyệt học của Hoàng Hạc Tú Sĩ, biến ảo vô song. Mũi kiếm điểm hàng trăm lần vào tấm rèm thép kia, vang lên những tiếng tinh tang nối tiếp nhau thành tiếng ngân dài. Và rồi xuyên qua sơ hở, đâm vào tâm thất Hà Lăng.
Vừa nghe lớp chân khí quanh người chấn động, lão ma vội nghiêng mình né tránh, nhờ vậy lão chỉ bị đâm thủng vai trái. Tuy nhiên, cùng lúc ấy, một đạo Huyến Tuyến Nhất Điểm Hồng từ tay Chính Lan đã xạ thẳng vào bụng dưới họ Hà.
Lão ta vẫn đề phòng tuyệt kỹ này, nhưng không ngờ lại bị tấn công vào bàng quang. Do động tác tránh kiếm, lão cũng đồng thời nhấc cao thân hình lên một chút. Vì thế mũi tên máu kia lệch mục tiêu xuyên qua dương vật và phá nát một bên ngọc hành.
Đấy là chỗ dễ gây cảm giác đau đớn nhất trong cơ thể, Hà Lăng rú lên thảm thiết. Tung mình rời đấu trường, miệng quát vang:
- Xạ tiễn!
Trận mưa tên từ bốn hướng bay vào cơ thể Chính Lan. Chàng múa tít trường kiếm che thân.
Bọn cao thủ nằm rải rác chứ không tập trung, nên có dùng đến Đảo Thiên thần đạn cũng chỉ giết được vài tên. Chính Lan tự lượng công lực mình không bằng đối thủ, nếu lão hồi phục lại thì càng khó thoát nạn. Do đó, Chính Lan móc thần đạn tung về phía Hà lão tặc, hỏa khí nổ vang trời nhưng lão ta đã kịp nhảy ra xa ba trượng, rời khỏi tầm sát thương.
Cú nhảy kia càng chứng tỏ bản lãnh kinh thế hãi tục của họ Hà. Chính Lan thở dài, nương theo kiếm quang lao vút xuống chân núi.
Tất nhiên, bọn Phú Quí hội cũng chẳng dám đuổi theo. Chính Lan phi ngựa chạy một mạch về chỗ cư trú của Trân Dật. Tuyết rơi dày sẽ lấp đầy dấu vó ngựa nên chàng không sợ bị truy tung.
Dù đả thương được kẻ thù nhưng lòng chàng lại nặng trĩu nỗi lo âu. Thứ nhất là bản lĩnh Hà Lăng cao siêu hơn chàng dự đoán. Thứ hai, chắc chắn Cửu Hoa Bà Bà đã ngộ hại, chẳng còn ai cứu được bốn người vợ bạc mệnh của chàng thoát cảnh mù lòa.
Chính Lan đến nơi đã là gần cuối giờ dậu. Thiên Thủ Thư Sinh Trân Dật đã bày sẵn tiệc rượu, và mọi người đang quây quần chờ đợi. Nghe tiếng vó ngựa, Liễu Thi Mạn chạy ra trước tiên. Nàng tíu tít hỏi:
- Tướng công có gặp được Cửu Hoa Bà Bà không? Sao vẻ mặt chàng buồn bã như vậy?
Dẫu đang tuyệt vọng, chàng cũng không nỡ gắt gỏng với người con gái sơn dã thuần phúc này. Đôi mắt to tròn, ngây thơ kia chan chứa mối quan hoài thành thực. Chính Lan lắc đầu dịu giọng:
- Không gặp. Nàng cứ vào trong rồi ta sẽ kể cho nghe.
Chính Lan xuống ngựa, bước vào ngồi phịch xuống ghế. Một Miêu nữ lập tức đem khăn sạch đến cho chàng lau mặt. Phát hiện trên áo lông cừu lấm tấm vết máu đen sẫm, Thi Mạn hốt hoảng:
- Phải chẳng tướng công đã chạm trán cường địch? Chàng có sao không?
Chính Lan uống liền ba chén cho ấm bụng rồi kể lại mọi sự. Cuối cùng chàng thở dài thườn thượt, quay sang bảo Liễu Thi Mạn:
- Liễu hiền muội, nay ta lâm vào cảnh hiểm nghèo, chết sống không lường trước được, chẳng thể làm hại lây đến hiền muội. Nàng hãy từ bỏ ý định làm vợ ta và trở về Miêu Lĩnh ngay đi. Trên đời còn biết bao chàng trai tuấn tú, anh hùng, nàng xinh đẹp như vậy, lẽ nào không có được một vị lang quân như ý? Hơn nữa, ta đã có đến bốn vị phu nhân, nàng theo ta chẳng phải là thiệt thòi hay sao?
Liễu Thi Mạn trợn tròn đôi mắt phượng nhìn Chính Lan, sa lệ nói:
- Năm năm trước, ngũ sư bá có đến Miêu Lĩnh thăm gia sư. Người khen tiểu muội xinh đẹp và xin gia sư gả cho đại ca. Ông còn trao lại một mảnh ngọc bội khắc tên Chính Lan để làm tín vật. Đại ca thử nhớ lại xem, lúc qua đời, sư bá đã nói gì?
Thi Mạn tháo sợi dây bạc trên cổ đưa cho Chính Lan. Chàng nhận ra đây là vật mình vẫn mang hồi nhỏ. Khi đã lớn, chàng không đeo nữa, nên dần dần quên mất. Hơn nữa, trước lúc toạ hóa, Tú Sĩ có nói:
- Ta còn một món quà bất ngờ tặng con, sau này sẽ biết.
Bây giờ chàng mới rõ ông đã âm thầm tìm cho chàng một người vợ rất xinh đẹp là Miêu nữ Liễu Thi Mạn.
Liễu cô nương còn giáng thêm một đòn tâm lý nữa. Nàng vui vẻ nói:
- Đại ca biết không, ngày ấy ngũ sư bá còn bảo rằng số đại ca khó có con trai, nên ông chọn tiểu muội vì có tướng sanh quí tửm
Chính Lan ngửa mặt than trời:
- Ta chẳng háo sắc sao cơ tạo cứ đẩy đưa làm kẻ đa mang? Cả đời luôn dính dáng đến tình duyên thì còn đâu khí phách, phong độ của bậc hiệp khách nữa? Sau này chết đi cũng chỉ mang tiếng đa tình mà thôi.
Trân Dật gật gù:
- Đúng vậy, sau này những người chép sử của võ lâm Trung Nguyên sẽ mỉm cười khi thấy quanh lão đệ có quá nhiều bóng hồng nhan.
Nhị ngốc Hồ Giả cười hì hì:
- Ai chê cười mặc kệ họ, bậc đại anh hùng cái thế như đại ca mà không có mỹ nhân bên cạnh, thì sao thành cố sự hay ho được?
Thi Mạn lo lắng hỏi:
- Đại ca nói như thế là có thu nạp tiểu muội hay không?
Chính Lan cười khổ:
- Cả bốn ái thê của ta đang lâm vào cảnh mù lòa, lòng dạ nào mà vui duyên mới?
Thi Mạn giật mình:
- Họ bị đâm mù mắt ư?
- Không. Lão Hà Lăng đã dùng thủ pháp Kim Châm Bế Mạch phong tỏa thị lực của họ, nhưng sau sáu tháng không giải được sẽ mù vĩnh viễn.
Thi Mạn nói liều:
- Phải chăng lão ta đã đâm vào huyệt Mục Sang, Dương Bạch, Suốt Cốc?
Chính Lan giật bắn mình, run giọng hỏi:
- Phải chăng hiền muội cũng biết cách giải phá thủ pháp này?
Thi Mạn mỉm cười tinh quái:
- Chẳng khó gì cả. Nhưng đại ca đã không thu nạp, tiểu muội đành phải về Quảng Tây thôi.
Tam ngốc cười hô hố:
- Đại ca không quì xuống khẩn cầu, còn chờ gì nữa.
Chính Lan nghiêm nghị hỏi Thi Mạn:
- Nàng định chờ ta van xin mới thỏa lòng hay sao?
Miêu nữ nhận ra ánh mắt chàng vừa bi thương, vừa kiên quyết sợ hãi đáp:
- Tiểu muội chỉ nói đùa thôi. Dẫu đại ca không dung nạp, tiểu muội cũng hết lòng cứu chữa cho bốn vị đại tẩu.
Chính Lan dịu giọng:
- Sai rồi, chẳng ai gọi chị em chung thuyền là đại tẩu bao giờ cả, phải gọi là đại thư.
Thi Mạn vui mừng khôn xiết, thỏ thẻ:
- Thiếp đã hiểu!
Trân Dật dơ ngón cái khen ngợi:
- Thủ đoạn của lão đệ quả là cao cường, bảo sao không có nhiều vợ đẹp.
Chính Lan ngượng ngùng biện bạch:
- Thực tâm thì tiểu đệ cũng không dám từ chối di mệnh của tiên sư. Chẳng qua nặng niềm riêng nên chẳng muốn Thi Mạn phải khổ lây đấy thôi.
Thi Mạn cười bảo:
- Hy vọng việc phục hồi thị lực sẽ khiến các đại thư không ghét bỏ thiếp.
Mọi người đều khen phải. Nỗi ưu tư đã biến mất, Chính Lan vui vẻ ăn uống, chuyện trò. Tan tiệc, chàng vào trong tắm rửa, thay áo. Thi Mạn thản nhiên hầu hạ chàng chẳng chút e thẹn. Nàng cầm thanh tiểu kiếm sắc bén, vui vẻ nói:
- Thiếp muốn được thấy rõ dung mạo của tướng công. Bộ râu này đáng ghét quá.
Chính Lan hiểu ý, ngồi xuống ghế cho nàng cạo mặt. Lát sau, dung mạo nhân hậu, dễ mến cố hữu đã hiện ra. Chàng nheo mắt hỏi:
- Nàng có thất vọng không?
Thi Mạn mỉm cười:
- Gia sư từng dạy rằng dáng vẻ con người không quan trọng ở xấu đẹp mà chỉ về thần khí. Tướng công tuy không anh tuấn nhưng thần thái tiêu sái, khí chất tôn qúi, thiếp rất mãn nguyện được nâng khăn sửa túi cho chàng.
Chính Lan kinh ngạc trước kiến thức của nàng sơn nữ. Chàng hiếu kỳ hỏi:
- Nàng tinh thông văn hóa Trung Nguyên cớ sao lại còn xưng là Xà Nữ Vương một cách nực cười như vậy?
Thi Mạn cười khúc khích:
- Thiếp thấy ba gã họ Hồ quá ngốc nghếch nên mới bầy trò cho vui thôi.
Chính Lan đẹp dạ khi thấy nàng vừa kiều diễm vừa thông tuệ, tinh minh như vậy. Chàng kéo nàng vào lòng, hôn lên đôi má mịn màng.