Chương 7
Chế độ gia đình trị

  Khi đề cập đến thân thế và sự nghiệp của chí sĩ Phan Đình Phùng, người đã trải bao khốn khổ cay đắng kháng Pháp trước khi tử tiết để được vinh danh trên bảng vàng bia đá của lịch sử nước nhà, học giả Đào Trinh Nhất đã được gợi ý từ một tư tưởng của Mạnh Tử để nhận định rằng: “Nhưng mà lẽ thường xưa nay, Trời muốn sắp giao phó một việc lớn lao hệ trọng cho ai, bao giờ trước hết cũng hành hạ người ấy phải đói khát khổ sở, gặp toàn những bước khốn đốn nguy hiểm, điên đầu rối trí thật não nề chê chán đã sẽ hay. Thân thế cụ Phan ở trong cảnh đó”. [1]
Chân lý đó phát xuất từ nhân sinh quan Đông Phương về Định Mệnh và đã được đối chiếu chặt chẽ với quá trình lịch sử của nước ta, mà anh hùng liệt nữ tuyệt đại đa số là những vị xả thân nằm gai nếm mật để bảo vệ sơn hà xã tắc. Trường hợp ông Diệm từ ngày cởi áo từ quan vào tuổi trung niên, cũng trải qua một số hoạn nạn. Khi thì phải trốn trong sở hiến binh Nhật Bản, khi thì bị Việt Minh quản thúc ở núi rừng Thái Nguyên, và trước khi làm Thủ tướng lãnh đạo chính quyền ở miền Nam còn phải lánh ra nước người gần năm năm trời. Nhưng tất cả những gian truân đó chỉ vừa đủ để xây dựng cho ông cái uy tín và huyền thoại để cho chính quyền Mỹ quyết định yểm trợ ông trong chín năm bèo bọt mà thôi nếu ta so sánh với những gian truân của các anh hùng liệt nữ khác của dân tộc mà tên tuổi và hình bóng mãi mãi là những ngọn lửa oai hùng đã vượt không gian và thời gia soi sáng dòng sử Việt, mà máu xương đã thẩm thấu vào quê hương sơn hà gấm vóc.
Các sử gia xem thành công của ông Diệm là hệ quả chính trị tất yếu của mâu thuẫn quyền lợi Pháp-Mỹ. Người dân Việt bình thường thì cho rằng ông Diệm bước vào vận số tốt như hết cơn bĩ cực đến thời thái lai. Riêng ông Diệm và một thiểu số cộng sự viên Công giáo lúc bấy giờ (nhất là sau vụ mưu sát tại Ban Mê Thuột năm 1957) thì lại tin rằng Trời (dù được gọi là Chúa hay Thượng Đế như ông vẫn thường dùng câu “xin Thượng Đế ban phước lành cho chúng ta” ở cuối mỗi bài diễn văn) đã ban phép lành cho ông và đã trao lại cho ông và gia đình ông cái sứ mạng to lớn và thiêng liêng lãnh đạo miền Nam Việt Nam. Niềm tin vừa có tính cách huyền bí tôn giáo vừa chứa đầy quan niệm Thiên Mệnh quân chủ đó đã chỉ đạo mọi suy tư và quyết định chính trị của ông suốt thời kỳ ông làm Tổng thống. Và cũng chính niềm tin thần bí chắc nịch đó đã xây dựng nên những đặc tính tâm lý nơi ông và gia đình ông đã khiến cho chế độ sau đó bị nhân dân gán cho hai chữ “Ngô triều” xấu xa.
Niềm tin đó, ngay từ những ngày tháng đầu tiên ông nắm chính quyền đã được hun đúc bằng một sự kiện thiêng liêng có liên hệ đến gia đình ông. Đó là việc gia tộc Ngô Đình tìm được xác của cha con ông Ngô Đình Khôi mà sau hơn mười năm trời tốn nhiều công của tìm kiếm vẫn không đạt được kết quả. Nguyên năm 1944, sau khi ông Diệm bị Pháp bắt hụt trốn vào Sài Gòn thì người anh ruột của ông đang làm Tổng đốc Quảng Nam là ông Ngô Đình Khôi bị người Pháp và Thượng thư Phạm Quỳnh bắt phải về hưu. Khi Việt Minh cướp chính quyền, họ kết tội cả ông Ngô Đình Khôi lẫn ông Phạm Quỳnh vào hàng đại Việt gian phản quốc và bắt đem đi mất tích. Cùng bị bắt với ông Khôi còn có người con trai độc nhất là Ngô Đình Huân từng giữ chức Thanh tra Lao động của chế độ bảo hộ Pháp. Ngô Đình Huân bị bắt vì tội vừa làm tay sai cho Pháp vừa là cộng tác viên đắc lực cho Hiến binh Nhật Bản thời quân đội Thiên Hoàng chiếm đóng Việt Nam. Có người đã từng thấy Việt Minh áp giải cha con ông Khôi và ông Quỳnh rồi giết đi nhưng không biết chôn ở nơi nào. Năm 1955, nhờ có chính quyền trong tay, ông Ngô Đình Cẩn bèn thiết lập một hệ thống cán bộ rộng lớn đặc trách đi tìm kiếm xác người thân và cuối cùng thì tìm được tại địa phận huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên trong một cái hố chôn chung với nhiều người, trong đó có cả xác ông Phạm Quỳnh. Thật là trớ trêu: ông Quỳnh và ông Khôi khi còn sống là hai kẻ thù không đội trời chung mà khi chết thì thân xác lại cùng vùi chung một hố. Xác ông Quỳnh được nhà chức trách quận Phong Điền trao lại cho thân nhân và được chôn cất một cách khiêm tốn như đám tang hàng dân dã. Trong lúc đó xác ông Ngô Đình Khôi, nhờ có em đang làm Thủ tướng nên tang lễ được cử hành vô cùng trọng thể đầy đủ nghi thức quốc táng: có toàn bộ nhân viên cao cấp chính phủ tham dự, có quân nhân dàn chào từ huyện Phong Điền về đến nghĩa trang họ Ngô tại Phú Cam (Huế), có quốc kỳ phủ quan tài, có quân đội bồng súng theo hộ tống đi hai bên linh cữu, và có quân nhạc trổi bài quốc ca và Hồn Tử Sĩ. Ông Võ Như Nguyện, một cộng sự viên của ông Ngô Đình Diệm và cũng là một đồng chí của kẻ viết, được cử giữ chức trưởng nam của ông Ngô Đình Khôi, cũng đội mũ rơm, mặc áo sổ gấu, cầm gậy tre đi theo linh cữu. (Ông Võ Như Nguyện hiện ở Mỹ)
Đối với dân tộc và lịch sử thì ông Ngô Đình Khôi chỉ là một cựu quan lại của chế độ bảo hộ và triều đình mục nát, nhưng anh em ông Diệm lại bắt nhân dân coi anh ruột mình như một nhà ái quốc đã hy sinh cho đất nước nên đã cử hành tang lễ cho ông Khôi như lễ quốc táng của một vị anh hùng. Cá nhân Tổng thống và gia tộc Tổng thống bỗng trở thành một trong quan niệm phong kiến “một người làm quan, cả họ được nhờ”, và gia tộc Tổng thống và quốc gia dân tộc bỗng trở thành một trong quan niệm phản dân chủ “lãnh đạo là do Thiên Mệnh trao quyền”.
Ông Ngô Đình Khôi tuy chỉ là một quan lại thời thực dân phong kiến bị Việt Minh lên án phản quốc và đã được ông Diệm làm lễ quốc táng, thế mà anh em ông Diệm vẫn chưa hài lòng còn muốn tôn vinh anh mình lên hàng danh nhân vĩ đại của lịch sử. Họ lấy tên của ông Khôi đặt cho con đường lớn nối liền thủ đô Sài Gòn với phi trường quốc tế Tân Sơn Nhất. Ngoài ra anh em họ còn muốn đổi tên trường trung học Khải Định Huế thành trường Ngô Đình Khả. Thật ra việc xóa bỏ tên “Khải Định” là một việc làm hữu lý vì ông Khải Định là một vị vua Việt gian, nhưng xóa bỏ tên của vua Khải Định mà lại thay vào tên của ông Ngô Đình Khả, một vị quan lại của Pháp, thì quả là một việc làm khinh thị nhân dân. Trong mục đích tôn vinh cha mình, anh em họ Ngô đã định lừa dối quốc dân bằng cách phao tin rằng chính cha mình là người sáng lập ra ngôi trường trung học đó, nhưng có lẽ vì có nhiều bậc trưởng thượng và trí thức cố đô Huế biết rõ sự thật là không đúng như đã tuyên truyền nên anh em ông Diệm đành phải bỏ ý định đó và rồi đổi tên trường từ Khải Định ra Quốc Học. (Xin lưu ý rằng trong cuộc đàm luận với ký giả Robert Shaplen, ông Diệm đã nói rất nhiều đến sự nghiệp và thân thế của cụ Ngô Đình Khả thế mà ông không hề đề cập đến chuyện cụ Khả là người xây dựng trường Quốc Học Huế được Pháp đặt tên là trường Khải Định. Trái lại theo “Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí” của Chính Đạo (s.đ.d., tr. 304) thì ông Ngô Đình Khả theo ông Nguyễn Thân đi đánh phong trào Văn Thân của cụ Phan Đình Phùng ở vùng Hà Tĩnh-Nghệ An. Năm sau khải hoàn, được cử làm Phó giám đốc trường Quốc Học, trước khi được thăng chức Tổng quản Cấm Thành).
Sau sự vinh danh cho người anh trưởng đã khuất, dĩ nhiên ông Diệm bắt đầu lên ngôi cho những người còn sống trong gia đình.
Ông Ngô Đình Thục, người anh trai thứ nhì, từ khi ông Khôi chết, được gia đình tôn kính theo quan niệm “quyền huynh thế phụ”. Ông Ngô Đình Thục là vị Giám mục thâm niên của hàng giáo phẩm đang giữ chức Tổng giám mục của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Mặc dù không giữ một chức vụ chính thức nào trong chính quyền, nhưng với địa vị anh trưởng trong gia đình, với địa vị Tổng giám mục của Giáo hội, lại được các em, nhất là Tổng thống Diệm cung kính và vâng lời nên ông Thục trở thành một thứ tối cao cố vấn của chế độ. Tòa giám mục Vĩnh Long, và sau này Tòa giám mục Huế, nơi ông Thục cai quản bỗng trở thành một thứ triều đình siêu vương quốc với đầy đủ mọi quyền lực làm cho chính ông Nhu cũng phải than phiền với một linh mục thân tín khi thấy các viên chức cao cấp của cả ba ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp chăm chỉ đến cung kính cầu cạnh Đức Cha. Giám mục Ngô Đình Thục, trong cương vị đó, và với cung cách của những viên chức trong và ngoài chánh quyền như thế, lẽ tất nhiên đã nhiều lần trộn lẫn giáo quyền và thế quyền làm một để dính dự vào những quyết định quan trọng của sinh hoạt quốc gia không khác gì Giáo hoàng Boniface VIII vào ngày 18-11-1302 đã sống sượng tuyên bố “... cả hai quyền lực này đều nằm trong tay vị Giáo chủ La Mã”. [2]
Ngay tại tỉnh Vĩnh Long, ông đặt tên mình cho đại lộ lớn nhất của thị xã này đến nỗi người bạn thân của gia đình là Cụ Huỳnh Minh Ý cũng phải chê trách. [3]
Ông Ngô Đình Nhu là một Dân biểu Quốc hội không bao giờ biết đến dân chúng nơi địa phương mình ra ứng cử, không bao giờ bước chân đến tòa nhà Lập Pháp để tham dự sinh hoạt nghị trường và làm trách nhiệm dân cử, mà chỉ ngồi tại dinh Tổng thống để ra chỉ thị cho Quốc hội làm luật theo ý của anh em ông ta. Thực quyền như thế nhưng ông Ngô Đình Nhu vẫn cần có chức Dân biểu có lẽ là chỉ để điều khiển và kiểm soát Quốc hội cho chính danh, nhưng thật ra chính cái chức vụ “Cố vấn Chính trị” của ông bên cạnh Tổng thống Ngô Đình Diệm mới thật sự là bộ não của chế độ, nơi khai sanh và điều khiển tất cả mọi sách lược của quốc gia. Với cái bề ngoài khôn khéo, tế nhị và kín đáo, ông tỏ ra phục tùng người anh Tổng thống, nhưng quyền hành thực sự lại nằm trong tay Cố vấn Chính trị Ngô Đình Nhu. Điều đặc biệt của chế độ Cộng hòa Ngô Đình Diệm là chức Cố vấn Chính trị của ông Ngô Đình Nhu lại không phải là một chức vụ chính thức của chính quyền như chức cố vấn được công khai hóa và quy chế hóa của các vị lãnh đạo các nước dân chủ trên thế giới. Ông Nhu và gia đình ông ta ở trong dinh Tổng thống, ông có văn phòng riêng, ông giúp việc cho Tổng thống rồi bỗng nhiên người trong dinh gọi ông là “cố vấn”. Lời xưng hô lan rộng ra ngoài để rồi nhân dân, báo chí, người ngoại quốc đều gọi ông là cố vấn, một cố vấn không chánh danh mà lại nắm trọn quyền hành quốc gia trong tay.
Bà Ngô Đình Nhu, nhũ danh là Trần thị Lệ Xuân, cũng là một Dân biểu Quốc hội, bà còn được người ta xưng tụng là “Đệ nhất phu nhân”. Không biết danh từ “Đệ nhất phu nhân” xuất hiện từ đâu và từ khi nào, mà rồi báo chí, đài phát thanh, phim thời sự của các rạp chớp bóng đều gọi bà Nhu là “Đệ nhất phu nhân”. Do đó cả nước phải gọi bà là Đệ nhất phu nhân, dù danh từ đó trong truyền thống sử dụng ngôn ngữ Việt Nam không được chính xác vì ông Tổng thống là người độc thân. Tuy đã hài lòng với tước hiệu này vì bà chưa bao giờ tỏ ý bất mãn hay ra lệnh cấm đoán, nhưng bà Nhu vẫn chưa lấy thế làm thỏa mãn. Danh xưng “Đệ nhất Phu nhân” còn bị trói buộc trong một chế độ và, trong tương lai xa xăm, còn có thể có nhiều Đệ nhất phu nhân khác, cho nên bà Nhu còn muốn đi xa hơn và cao hơn để được gọi là “Bà Ngô”, như lịch sử đã từng vinh danh các Bà Trưng, Bà Triệu.
Theo ông Nguyễn Thái, cựu Tổng giám đốc Việt Tấn Xã, đã có lần bà Nhu ra lệnh cho ông phải ghi danh xưng “Bà Ngô” trên các bản thông tin của cơ quan Việt Tấn Xã nhưng ông Thái từ chối vì làm như thế trên mặt luân lý sẽ có sự hiểu lầm vô cùng tai hại. Vào tháng Sáu năm 1961, khi ông bà Ngô Đình Nhu đi viếng thăm Maroc, thông cáo chính thức của Bộ Ngoại giao gọi bà Nhu là “Bà Ngô” [4]. Cũng theo ông Nguyễn Thái thì bà Nhu là bộ mặt then chốt của chính quyền (a key figure in the Diem regime). Không cần phải dài dòng, cứ nhìn việc bà ta đưa ra Luật Gia Đình bị dư luận và ngay cả nhiều Dân biểu phản đối quyết liệt mà Tổng thống Diệm cũng như ông Ngô Đình Nhu đều tận tình bênh vực, cũng đủ nói lên uy quyền to lớn của Bà. Lại hãy nhìn hai lần đi dự hội nghị Liên hiệp Nghị sĩ Quốc tế ở Rome và Rio de Janeiro, mặc dù không phải là trưởng phái đoàn, bà ta vẫn giành lấy quyền ăn nói. Ông Phạm văn Nhu vừa là Chủ tịch Quốc hội vừa là Trưởng phái đoàn đành chỉ biết ngồi nghe [5]. Uy quyền to lớn của bà Nhu còn được biểu lộ rõ rệt hơn vào dịp lễ Hai Bà Trưng hàng năm. Đây cũng là ngày lễ Phụ nữ Việt Nam và được tổ chức vô cùng long trọng tại công trường Mê Linh bến Bạch Đằng, do bà Ngô Đình Nhu chủ tọa. Chủ tọa lễ này, bà Nhu có đủ mọi nghi thức trọng thể nhất dành cho một vị nguyên thủ quốc gia trong buổi lễ quốc khánh do Tổng thống Diệm chủ tọa, trừ 21 phát đại bác, cũng vì thế mà dân chúng mới mỉa mai rằng Việt Nam có hai ngày Quốc Khánh. [6]
Ông Ngô Đình Cẩn, tự xưng là “Cố vấn Lãnh đạo các Đoàn thể Chính trị miền Trung và miền Cao Nguyên”. Trên thực tế, ông là vị chúa tể ở cả hai miền đó vì ông nắm hết mọi quyền hành nhất là quyền bổ nhiệm nhân sự, còn các đại biểu chính phủ và Tỉnh trưởng chỉ là những viên chức thừa hành mệnh lệnh của ông mà thôi. Ông Ngô Đình Cẩn được nhân dân Việt Nam và sách sử, báo chí quốc tế tặng cho hỗn danh là “Lãnh chúa miền Trung”, điều đó cũng đủ nói lên cái uy quyền sinh sát của ông ta rồi.
Ông Ngô Đình Luyện là người em trai chót, vào năm 1955, làm Đại sứ lưu động tại Âu Châu. Thật ra lúc bấy giờ ông Luyện ở Việt Nam nhiều hơn ở Âu Châu vì ông Diệm cần ông ta ở bên cạnh để cùng lo đối phó với những khó khăn của thời cuộc, những chống đối quốc nội của tướng Nguyễn văn Hinh, Bình Xuyên... Sau khi truất phế Bảo Đại xong, phần vì sự bất đồng chính kiến giữa hai ông Nhu và Luyện, phần thì Tổng thống Diệm muốn có một người ruột thịt ở Âu Châu nên ông Luyện được cử giữ chức Đại sứ Việt Nam  tại Anh Quốc. Vì vậy, trước khi lấy một quyết định ngoại giao quan trọng đối với bất kỳ một quốc gia nào ở Âu Châu và Bắc Phi, ông Diệm cũng thường tham khảo ý kiến trước với ông Luyện. Từ đó ông Luyện trở thành một thứ siêu Đại sứ mà các vị đại sứ Việt Nam tại Âu Châu và Bắc Phi phải nể sợ và vâng lời.
Về trường hợp của ông Ngô Đình Luyện, Hillaire du Berrier đã đưa ra ánh sáng một bí ẩn lịch sử vào năm 1955 như sau đây:
Thật ra chức Đại sứ lưu động tại Âu Châu không cần thiết khi mà Việt Nam đã có một ông Đại sứ đặt văn phòng tại số 47 bis đường Kleber ở Paris, nơi mà Đại sứ lưu động Ngô Đình Luyện cũng đặt văn phòng. Nhưng ông Diệm phải đặt ra chức Đại sứ lưu động Âu Châu, đặt ra trong lúc tình hình Sài Gòn vô cùng căng thẳng, là cốt để kịp thời phái ông Luyện đến yết kiến Bảo Đại để xin Bảo Đại một lời tuyên bố tín nhiệm ông Diệm trước khi sự bất tín nhiệm của cả Bảo Đại lẫn Đại sứ Collins tại Sài Gòn đến được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. [7]
Quả đúng với lời trình bày của Berrier vì sau khi vua Bảo Đại bị truất phế, Đại sứ Collins bị triệu hồi về Mỹ, chức Đại sứ lưu động tại Âu Châu cũng được bãi bỏ, ông Luyện được cử giữ chức Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Anh Quốc như tôi đã trình bày trong đoạn trên.
Bà Ngô thị Hoàng tức là bà Cả Lễ, em gái của Tổng thống Diệm chỉ là một nhà thầu khoán nhưng lại là một thứ Trùm thầu khoán. Nhờ ảnh hưởng và uy quyền của anh em, tất cả những vụ đấu thầu lớn đều về tay bà ta. Những nhà thầu đối thủ muốn cạnh tranh các dịch vụ đấu thầu tại miền Trung đều bị ông Ngô Đình Cẩn khủng bố giam cầm hoặc áp lực nên tự động ngưng đấu, do đó bà Cả Lễ coi như độc quyền trong mọi dịch vụ đấu thầu lớn. Bà Cả Lễ chỉ có một người con gái tên là Kim Anh được gả cho ông Trần Trung Dung, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, vì thế mặc dầu bà Cả Lễ không có một chức tước nào cả cũng vẫn được lên ngôi vừa là em Tổng thống, vừa là nhạc mẫu của một Bộ trưởng quyền thế.
Ông Nguyễn Hữu Châu là chồng bà Trần thị Lệ Chi, chị ruột của bà Ngô Đình Nhu. Ông Nguyễn Hữu Châu giữ chức Bộ trưởng Bộ Phủ tổng thống kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
Ông Trần văn Chương, luật sư, là nhạc phụ của ông Ngô Đình Nhu giữ chức Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ mà vì lý do liên hệ chặt chẽ và sinh tử của hai quốc gia, chức vụ Đại sứ Việt Nam tại Mỹ là một chức vụ quan trọng vào hàng siêu đại sứ. Còn bà Trần văn Chương thì giữ chức “Quan sát viên” của Việt Nam Cộng Hòa tại Liên Hiệp Quốc.
Ngoài những nhân vật bà con nội ngoại của gia đình họ Ngô trên đây giữ những địa vị then chốt trong guồng máy lãnh đạo quốc gia đối nội cũng như đối ngoại, còn có những nhân vật tuy báo chí, sách sử không mấy đề cập đến tên tuổi, và tuy họ không mang một chức tước nào nhưng họ vẫn có quyền sinh sát làm run sợ nhiều người, kể cả những viên chức cao cấp trong chính quyền và quân đội. Tại Sài Gòn và Nam Phần thì có luật sư Trần văn Khiêm, em ruột bà Nhu, một công tử chơi bời đàng điếm chuyên dựa thế chị ruột để làm tiền những thương gia giàu có [8]. Giới trí thức miền Nam gọi ông Trần văn Khiêm là “luật sư khùng” vì tính tình bất thường và lối hành xử nửa khôn nửa dại cũng như tính khoe khoang phách lối quá độ của ông ta. Tổng thống Diệm rất ghét ông Trần văn Khiêm nhưng vào mùa Thu năm 1963, Khiêm được anh chị là vợ chồng Ngô Đình Nhu cử giữ chức Giám đốc Nha Nghiên cứu Chính trị thay thế Bác sĩ Trần Kim Tuyến bị hạ tầng công tác, đổi đi làm Tổng lãnh sự tại Ai Cập để tê liệt khả năng chống đối của Bác sĩ Tuyến có thể nguy hiểm cho chế độ.
Tại Huế và miền Trung có mụ Luyến, một người bà con trong họ Ngô Đình, làm gia nhân hầu hạ thân mẫu Tổng thống Diệm từ thời còn trẻ. Mặc dầu có chồng và ba, bốn người con, nhưng mụ Luyến không ở riêng lại cùng chồng và con ở chung với ông Ngô Đình Cẩn trong nhà tại Phú Cam. Từ ngày ông Diệm cầm quyền, người ta không còn dám gọi Mụ Luyến là Mụ nữa mà gọi là Bà. Dù không có một chức vụ nào ngoài nhiệm vụ quản gia nhưng nhờ sống cận kề lãnh chúa Ngô Đình Cẩn mà “Bà” ta có quyền sinh sát, một tiếng nói của “Bà” Luyến với ông Cẩn cũng đủ làm cho nhiều người lên voi xuống chó. Viên chức chính quyền cũng như quân đội ở miền Trung phải cung kính, sợ hãi, nịnh hót, bợ đỡ “Bà” Luyến cũng cùng mức độ như đối với ông Ngô Đình Cẩn. Dư luận dân chúng Huế đã mỉa mai gọi mụ Luyến bằng cái hỗn danh “Đệ nhất phu nhân” của miền Trung.
Nói tóm lại Việt Nam là một nước Cộng hòa nhưng qua Hiến pháp (sẽ được phân tích ở một chương sau) và qua thực tế, người ta thấy ông Diệm không phải là một Tổng thống do dân bầu để cầm đầu ngành hành pháp mà là một vị vua của thời phong kiến và bà con anh em ông ta đều là “Hoàng thân Quốc thích”, thứ Hoàng thân Quốc thích có quyền hành nắm hết rường mối quốc gia. Vì thế nhân dân Việt Nam và báo chí quốc tế đã nặng lời chỉ trích chế độ Ngô Đình Diệm và gọi chế độ ấy là chế độ “gia đình trị”, một thứ hình dung từ sâu sắc và ám ảnh tâm trí mọi người đến độ chỉ cần nói ba tiếng ấy là người ta biết ngay nói đến chế độ nào.
Nhưng chế độ “gia đình trị” Ngô Đình Diệm không phải chỉ ngừng lại ở sự việc toàn thể bà con, anh em, dâu rể, nội ngoại (và cả mụ Luyến, một người giúp việc nhà) nắm toàn quyền lãnh đạo đất nước, nắm trọn quyền sinh sát nhân dân, nắm trọn tài nguyên quốc gia mà chế độ đó đang còn tự biến dần để trở thành một triều đại vua chúa như các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn... Bởi vì ngoài chuyện quốc gia hóa lễ Bổn Mạng Tổng thống Diệm mà ông Đoàn Thêm (trong “Hai Mươi Năm Qua”) đã tự hỏi ai đã đề nghị như vậy, chế độ đi dần đến việc tổ chức “Ủy ban Nhân dân lễ khánh thọ lục tuần” của Tổng thống Diệm, lễ đầu tiên được tổ chức vào ngày 28-12-1960 (8 ngày sau khi Mặt trận Giải phóng miền Nam ra đời). Hơn nữa, thứ nghi lễ vua chúa đó cũng không ngừng lại chỉ để dành riêng cho ông Tổng thống mà người ta còn đi xa hơn bằng cách tổ chức lễ “Cửu Tuần Khánh Thọ” cho bà Ngô Đình Khả, mẹ của Tổng thống (ngày 18-9-1961). Nhiều đại diện các đoàn thể, nhiều nhân vật cao cấp của chính quyền phải về Huế để dâng lời chúc mừng lên “Thái Từ” trong lúc Bộ Nội vụ chính thức tổ chức Lễ Tạ Ơn tại Vương Cung Thánh Đường tại Sài Gòn.
Còn nghi ngờ gì nữa: anh em ông Diệm đang sửa soạn một số nghi thức, một số danh từ, sửa soạn dư luận để hoán chuyển từ chế độ Cộng hòa trở thành chế độ quân chủ và chỉ đợi ngày ông Diệm tức vị đăng quang lên ngôi Hoàng Đế. Mà nếu không thì ít nhất ông Diệm cũng đã trở thành một thứ “Tổng Đế” như ông Đoàn Thêm đã mỉa mai.
Dù sao thì Ngô triều đang làm sống lại những lễ nghi của Nguyễn triều chẳng hạn như “Lễ Khánh Thọ Tứ Tuần” của vua Khải Định, đang làm sống lại hai tiếng “Đức Từ” dành cho mẹ vua Bảo Đại mà thời gian chưa đủ lâu để xóa nhòa tâm trí nhân gian. Điều đáng nói là mẹ vua Bảo Đại tuy được xưng tụng là “Đức Từ” nhưng Bà lại không được con bà (một vị Quốc trưởng) và chính phủ của con Bà dành cho những vinh dự quá lớn lao như “Thái Từ” mẹ của anh em nhà họ Ngô Đình.

*

Tuy nhiên trong những năm đầu tiên của chế độ, khi mà thời cuộc vừa chuyển đổi qua một giai đoạn mới với niềm tin vào tương lai mà động lực là hy vọng để toàn dân cùng với chính quyền bắt tay vào việc xây dựng đất nước, thì những cảm nhận của quần chúng về chính sách “gia đình trị” dễ dàng được tha thứ nhờ những thành quả ngoạn mục mà chế độ đã thực hiện được:
Trước hết là việc chuyên chở và định cư cho hơn 860.000 người di cư trong đó có gần 700.000 người Công giáo. Việc chuyên chở người di cư từ Bắc vào Nam được kế hoạch và sử dụng phương tiện chuyên chở của Pháp và Mỹ, còn việc định cư thì hoàn toàn chỉ do tiền viện trợ của Mỹ đài thọ. Công cuộc định cư sở dĩ hoàn thành mau chóng và tốt đẹp là một phần nhờ ông Diệm dành những vùng đất màu mỡ rộng lớn cho dân di cư. Ví dụ như ông Diệm đã lấy đất Cái Sắn màu mỡ cấp phát cho 45.000 nông dân; lấy bờ biển Bình Tuy và đảo Phú Quốc, những nơi nổi tiếng nhiều hải sản cho dân chài lưới; lấy Long Khánh, Định Quán, Gia Kiệm, Hố Nai cho dân khai thác lâm sản và làm đồ mộc, lấy Ban Mê Thuột và Cao Nguyên vùng đất đỏ phì nhiêu cho dân trồng trọt hoa mầu để xuất cảng; lấy vùng Ngã Ba Ông Tạ, Tân Bình, Gò Vấp chung quanh Sài Gòn cho dân thương mãi và kỹ nghệ... Nhờ tiền bạc dồi dào của Mỹ, nhờ chính quyền dành cho mọi sự dễ dàng, nhờ Tổng thống Diệm chú tâm nâng đỡ, chẳng bao lâu người dân di cư miền Bắc đã hội nhập dễ dàng vào cuộc sống của dân miền Nam mà trước đó họ coi là vùng đất xa lạ. Và cũng chẳng bao lâu, đời sống dân di cư đã đi từ ổn định đến trù phú còn hơn cả dân địa phương. Công cuộc định cư mau chóng và tốt đẹp cho hơn 700.000 người Công giáo di cư đã làm cho các quốc gia trên thế giới nhất là Hoa Kỳ phải khâm phục. Một bác sĩ trẻ của Hải quân Mỹ, ông Tom Dooley, một nhân vật rất mộ đạo Thiên Chúa từng tham gia vào việc chuyên chở người Bắc di cư vào Nam, nhận thấy tinh thần chống Cộng cao độ của người Thiên Chúa giáo Việt Nam đã tình nguyện ở lại miền Nam để thực hiện nhiều công cuộc nhân đạo, viết sách ca ngợi công trình di cư và định cư làm cho nhân dân Mỹ càng thêm kính phục Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Đây là một thành công lớn về mặt xã hội của chính quyền chỉ trừ một điều là trên mặt chính trị, và ở một khía cạnh nào đó, sự chọn lựa vào Nam của gần một triệu người miền Bắc đáng lẽ phải được coi như là một sự chọn lựa chính trị của quần chúng giữa tự do và Cộng sản thì, vì sự vụng về trong chính sách, đã trở thành một sự lựa chọn chỉ của một khối lượng Thiên Chúa giáo, nghĩa là giữa hữu thần và vô thần. Do đó, đáng lẽ biến cố đó có thể tạo nên nhiều uy thế dũng mãnh cho chính nghĩa của miền Nam, thì nó lại bị giới hạn rất nhiều vào một bộ phận thiểu số của cộng đồng dân tộc. Đó là chưa nói đến những tác hại chính trị và nhân văn gây ra do sự vụng về này.
Trong những năm 1955-56, ngoài công cuộc định cư cho dân Công giáo miền Bắc, nhiều cải cách xã hội cũng như những biến cố chính trị tốt đẹp khác càng làm tăng thêm uy tín của ông Diệm:
- Ngày 15 tháng 2 năm 1955, ông Diệm ra lệnh đóng cửa sòng bạc Kim Chung Đại Thế Giới của Bảy Viễn.
- Ngày 23 tháng 10 năm 1955, ông Diệm tổ chức Trưng cầu Dân ý, truất phế vua Bảo Đại.
- Ngày 1 tháng 12 năm 1955, ông Diệm ra lệnh đóng cửa xóm Bình Khang, nơi buôn bán mãi dâm công khai do ông Bảy Viễn để lại, đồng thời ra lệnh cấm hút và cấm buôn bán thuốc phiện để lành mạnh hóa nhân dân miền Nam. Một chiến dịch đốt bàn đèn hấp dẫn vừa để làm gương cho dân chúng vừa để làm cho người ngoại quốc kính nể chế độ.
- Ngày 4 tháng 4 năm 1956, chính phủ bắt ông Ưng Bảo Toàn, Tổng giám đốc Thương mãi ở Bộ Kinh tế vì tội bán gạo chợ đen (nhưng sau này mới biết đây là một vụ do ông Ngô Đình Cẩn bắt ông Toàn làm vật tế thần).
- Ngày 28 tháng 4 năm 1956, quân đội viễn chinh Pháp xuống tàu về nước.
- Ngày 13 tháng 7 năm 1956, xử tử tướng Ba Cụt, một vị lãnh tụ nghĩa quân Hòa Hảo, chấm dứt tình trạng mất ổn định tại miền Tây Nam phần.
- Ngày 20 tháng 7 năm 1956, do sự khuyến khích và hỗ trợ của Hoa Kỳ, Tổng thống Diệm bác bỏ việc tổng tuyển cử hai miền theo quy định của Hiệp ước Genève.
- Ngày 21 tháng 8 năm 1956, chính phủ bắt ông Vũ Đình Đa và đồng bọn về tội biển thủ mấy triệu bạc của Ngân hàng Quốc gia.
- Ngày 26 tháng 10 năm 1956, ông Diệm tuyên bố thành lập nền Cộng hòa.
Tất cả những thành công trong hai năm đầu của chế độ được xem như là kết quả của những nỗ lực của một chính quyền tuy còn yếu kém về mặt quản trị nhưng lại được một sự quyết tâm cộng tác của toàn dân. Tuy nhiên những nỗ lực này, tự nó và nếu chỉ riêng nó, cũng chưa đủ để hoàn thành việc củng cố miền Nam nếu không có sự yểm trợ tối đa và vô điều kiện của Hoa Kỳ mà đặc biệt là của ba người Mỹ đã từng liên hệ chặt chẽ với ông Diệm từ trước. Đó là một vị Hồng y, một giáo sư có đầu óc xã hội gốc người Áo và một nhân vật cao cấp CIA, ba nhân vật (từ đầu) đã hoán cải được quan niệm của Tổng thống Eisenhower vốn đã muốn bỏ rơi Việt Nam [9]. Vị Hồng y là ông Spellman, vị giáo sư là ông Buttinger và nhân viên CIA, ai cũng biết, là ông Lansdale.
Trong ba nhân vật đó thì Đại tá Lansdale đóng vai trò cố vấn trực tiếp bên cạnh Tổng thống Diệm. Ông ta nổi tiếng đến độ không một nhà viết sử nào khi nói đến sự nghiệp của ông Diệm mà không nhắc đến thân thế và hoạt động của ông ta. Đại tá Lansdale đến Đông Dương từ năm 1954, làm cố vấn phản du kích cho quân đội viễn chinh Pháp. Vào tháng Sáu năm 1954, trước tình hình khẩn trương của Việt Nam, Lansdale được Ngoại trưởng Foster Dulles phái đến Bắc Việt để điều nghiên tình hình và từ công tác đó đã đẩy đưa Lansdale trở thành bạn thân và cố vấn của ông Diệm, giúp ông Diệm trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa. Do đó nhiều sách sử, báo chí Mỹ gọi Lansdale là “Kẻ tạo nên những ông vua” (The Kingsmaker).
Lịch sử dân tộc Việt có hai thời kỳ mà nhà lãnh đạo Việt Nam có người Âu-Mỹ trực tiếp và công khai làm cố vấn, làm quân sư đặc biệt, đó là thời kỳ chúa Nguyễn Ánh Đàng Trong và thời kỳ miền Nam với Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Thật vậy, Giám mục Pigneau de Béhaine người Pháp trong suốt mười năm ở với chúa Nguyễn Ánh thực sự đã là một Thượng thư Bộ Binh và Bộ Ngoại giao, đêm ngày quên cả đọc kinh, lo dịch binh thư, lo giao thiệp với Pháp và các nước lân bang, lo chủ trì hội nghị các sĩ quan Pháp giải quyết việc quân sự, giúp chúa Nguyễn Ánh giải vây thành Quy Nhơn. Pigneau đã đóng góp cho chúa Nguyễn Ánh phần công lao to lớn trong việc đè bẹp được nhà Nguyễn Tây Sơn để sau này chúa Nguyễn Ánh thống nhất xứ sở. [10]
Miền Nam Việt Nam vào những năm 1954, 55, 56 trước những khó khăn và nguy hiểm mà ông Diệm tưởng là khó lòng vượt qua được (đến nỗi ông Diệm chán nản đã định bỏ nước ra đi vào cuối năm 1954) chính nhờ ông Edward Lansdale làm cố vấn giúp đỡ tận tình, ông Diệm đã chuyển bại thành thắng. Không có vấn đề chính trị, quân sự, xã hội nào mà không có ý kiến của ông Lansdale. Hàng ngày, ông Lansdale vào dinh Độc Lập gặp gỡ ông Diệm để thảo luận và đề nghị kế hoạch, ông cũng đã từng gọi ông Diệm là “Papa”, sự kiện này nói lên mối thâm tình thắm thiết giữa ông Lansdale và ông Diệm cũng như xác định vai trò tối cần thiết và tối quan trọng của ông Lansdale đối với ông Diệm.
Không những chỉ cần thiết và quan trọng mà uy thế của Đại tá Lansdale còn to lớn đến độ đã có lần công khai to tiếng chỉ trích ông Diệm (là một hành động “phạm thượng” nặng nề nếu đó là một người Việt Nam khác) khi ông Diệm đã có những lời lẽ khinh thường tướng cách mạng Trình Minh Thế. [11]
Đã rất nhiều lần ông Diệm tỏ ra lo âu trước những quyết định của Hoa Thịnh Đốn có vẻ muốn chấm dứt sự ủng hộ của Hoa Kỳ thì chính Lansdale đã đánh điện về Bộ Ngoại giao để trực tiếp thăm dò và can thiệp với Ngoại trưởng Foster Dulles. Khi đã nắm được mọi dữ kiện tích cực trong tay, Lansdale lại đến gặp ông Diệm để bảo đảm rằng chính sách của Hoa Kỳ không thay đổi và khích lệ ông Diệm hãy can đảm mà tiếp tục cầm quyền.
Trong thời gian ông Diệm bị các giáo phái, Bình Xuyên, và tướng Nguyễn văn Hinh chống đối, Lansdale và tiền bạc của Mỹ đã lôi kéo được một số tướng tá giáo phái về với ông Diệm và đã gây được sự chia rẽ trong hàng ngũ chống đối ông Diệm, củng cố địa vị cho ông ta và đưa ông ta đến thắng lợi cuối cùng. Đồng thời với việc ổn định tình hình miền Nam, Lansdale đã thiết định cho ông Diệm những kế hoạch trong việc tiếp thu các vùng Bình Định và Cà Mâu do Việt Minh để lại. Lansdale giúp ông Diệm thành lập cơ quan Công dân vụ gồm thanh niên áo đen về thôn quê giúp đỡ đồng bào tái tạo đời sống mới. Ông ta còn khám phá ra và giới thiệu với ông Diệm vị trưởng cơ quan Đặc ủy Công dân vụ là ông Kiều Công Cung. Lansdale cũng đã giúp cho ông Diệm tổ chức hội Cựu Chiến Binh và nhà phát hành Thống Nhất để ông Diệm có một hậu thuẫn vững chắc gồm những người đã từng cầm súng chống lại Cộng sản. Lansdale lại còn đưa một phái đoàn Phi Luật Tân qua Việt Nam trong chương trình y tế gọi là “chiến dịch huynh đệ” (Operation Brotherhood)... để giúp dân quê Việt Nam hướng về một đời sống tiến bộ hơn.
Ngoài Lansdale ra còn có giáo sư Buttinger, giáo sư Fishel và một số người Mỹ khác giúp ông Diệm về những phương tiện kinh tế, giáo dục tạo sự phồn thịnh cho miền Nam. Họ đã giúp ông Diệm bành trướng Viện Đại học Sài Gòn, thiết lập Viện Đại học Huế, mở trường Quốc gia Hành chánh, trường Nông Lâm Súc, trường Kỹ Thuật Phú Thọ... mở các nhà máy than Nông Sơn, nhà máy xi măng Hà Tiên, nhà máy đường Hiệp Hòa, các cơ sở kỹ nghệ bông vải, ve chai... tạo công ăn việc làm cho dân lao động để mở mang kinh tế cho miền Nam...
Người Mỹ cũng giúp ông Diệm tái tạo lại hệ thống đường sá, bài trừ nạn mù chữ, thiết lập chương trình y tế nông thôn, đào giếng cho dân quê, và thành lập những đội xịt thuốc DDT để bài trừ nạn sốt rét.
Nếu chúng ta đã không phủ nhận được quyết tâm của toàn dân và của chính quyền nhằm mau chóng và vững vàng xây dựng một miền Nam hồi sinh thì chúng ta cũng không thể phủ nhận được chính người Mỹ, trên tất cả mọi mặt, đã yểm trợ cho chúng ta hoàn thành ước nguyện đó. Nhân, tài, vật, lực chảy vào miền Nam không ngơi nghỉ. Chính sách, kế hoạch, phương tiện, tài chánh đổ vào miền Nam không giới hạn.
Và sau 10 năm trời chiến tranh ly loạn (1945-1955) trong khung cảnh hòa bình an lành và với một viễn tưởng phồn vinh trước mắt, dân miền Nam đã cảm thấy cuộc đời ấm no hơn và tương lai tươi sáng hơn.
Cũng trong những năm đầu của chế độ, về mặt đối ngoại, ông Diệm đã gây được nhiều uy thế to lớn. Nhiều quốc gia thuộc khối phi liên kết công nhận Việt Nam Cộng Hòa, mà chuyến viếng thăm của ông U Nu (Thủ tướng Miến Điện) ngày 11 tháng 11 năm 1956 là một bông hồng vô cùng quý giá cho chế độ ông Diệm. Cao Miên vốn coi Việt Nam là kẻ thù truyền kiếp thế mà nay phải kiêng nể Việt Nam Cộng Hòa, còn Lào thì kết thân với Việt Nam làm anh em dựa vào nhau theo cái thế môi hở răng lạnh.
Trong ba năm đầu, tên tuổi ông Diệm vang lừng trên trường quốc tế nhờ những cuộc công du thăm viếng các quốc gia như Ấn Độ, Thái Lan, Trung Hoa Dân Quốc, Đại Hàn. Đặc biệt ông được tòa Bạch Ốc mời viếng thăm chính thức nước Mỹ ngày 4 tháng 4 năm 1957. Ngược lại nhiều chánh khách và lãnh tụ quốc tế tên tuổi như Ngoại trưởng Dulles nước Mỹ, Ngoại trưởng Couve de Murville của Pháp, ông Pinay cựu Thủ tướng Pháp, Tổng thống Lý Thừa Vãn của Đại Hàn, Phó tổng thống Trần Thành của Trung Hoa Dân Quốc cũng đã đến viếng thăm Việt Nam.
Cho đến mùa Xuân năm 1959, mặc dù Việt cộng đã hoạt động mạnh khiến tình hình an ninh nông thôn bắt đầu đáng lo ngại nhưng danh tiếng của Tổng thống Ngô Đình Diệm vẫn còn sáng chói nhờ những quan hệ đặc biệt với Tòa thánh La Mã Vatican và quốc gia Ấn Độ, một nước đang có nhân viên làm Chủ tịch Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến tại Việt Nam. Ngày 16 tháng 2 năm 1959, Đức Hồng y Agagianian, đại diện Đức Giáo hoàng đến Sài Gòn chủ tọa lễ 300 năm thành lập Giáo hội Công giáo Việt Nam và tôn vinh nhà thờ Đức Bà Sài Gòn lên hàng Vương Cung Thánh Đường. Trong những ngày Đức Hồng y có mặt tại Việt Nam với những buổi lễ ngoài trời, cờ của Tòa thánh chen lẫn với cờ quốc gia tung bay trước công viên dinh Độc Lập và khắp mọi tỉnh thị tạo nên một khung cảnh náo nhiệt rộn rã khắp miền Nam. Ngày 18 tháng 3 năm 1959, Tổng thống Ấn Độ là ông Prasad viếng thăm Việt Nam mà lại đến Sài Gòn trước rồi mới đến Hà Nội sau, gây thêm vinh dự và tự hào cho chế độ Ngô Đình Diệm. Ngày 7 tháng 8, con đường xe lửa xuyên Việt nối liền Đông Hà với Sài Gòn được khánh thành trọng thể càng tạo nên cảnh thanh bình cho đất nước.
Như vậy, kể từ khi hiệp định Genève ra đời chia đôi đất nước rồi ông Diệm về chấp chánh, ít ai nghĩ rằng ông Diệm có thể vượt thắng được những khó khăn, ít ai nghĩ rằng chế độ có thể tồn tại lâu dài. Nhưng miền Nam đã đứng vững, đã hồi sinh. Và ông Diệm đã duy trì được chế độ để bước lên đài vinh quang. Báo chí trong và ngoài nước ca tụng ông Diệm là người hùng của vùng Đông Nam Á và Tổng thống Eisenhower đã gọi ông Diệm là “người của phép lạ” (the miracle man).
Nhưng bất hạnh thay cho dân tộc Việt Nam! Bức tranh màu sắc rực rỡ trên đây chỉ như cái ráng hồng của một chiều trời nắng quái trong buổi tàn thu, vì chung quanh ráng hồng đó, mây đen đã bắt đầu vần vũ báo hiệu một cơn giông tố hãi hùng sắp xảy ra. Chính Đại tá Lansdale, người lạc quan nhất và nắm vững tình hình khá rõ, cũng đã bắt đầu nhận thấy nhiều hiện tượng bất ổn cho chế độ. Ông đã thấy sự ra đời của đảng Cần Lao, ông đã thấy cung cách lãnh đạo độc tôn, độc tài của anh em ông Diệm, ông đã nghe nói đến những cuộc đi bắt người ban đêm của cán bộ đảng Cần Lao, đã chứng kiến việc bắt bớ thủ tiêu những người quốc gia đối lập... Trước khi từ giã Việt Nam để về Mỹ vào cuối năm 1956, ông Lansdale đem tâm tình khuyên bảo Tổng thống Diệm nên noi gương Tổng thống Washington đứng trên và đứng ngoài mọi tranh chấp tôn giáo và đảng phái để cứu nước và trở thành “vị cha già dân tộc”. Nhưng than ôi! Những lời khuyên chí tình của ông Lansdale đã theo gió mà bay về Mỹ, để lại sau lưng một chế độ ngày càng đi sâu vào tội lỗi mà chính ông cũng bị anh em ông Diệm phũ phàng quên hết công ơn... Cuối năm 1955, khi mối đe dọa và mối hiểm nghèo đã qua rồi, Thiếu tướng Trần văn Đôn không thấy ông Lansdale ngày ngày bên cạnh Tổng thống Diệm nữa, bèn hỏi lý do thì được ông Diệm trả lời: “Lansdale CIA quá, ồn ào quá. Trong chính trị, không có chỗ cho tình cảm” [12]. Thế là sau tướng Trình Minh Thế đến Đại tá Lansdale bị quên ơn.
Chính vì quan niệm “trong chính trị không có chỗ cho tình cảm” này, nghĩa là không đếm xỉa đến bản vị con người trong một triết lý hành động nhân trị, mà sau này, kể từ những năm 60, chế độ gia đình trị của ông Diệm đi vào con đường bạo trị bạo quản. Nhưng đó là chuyện về sau, vì trong những năm đầu chấp chánh, khi mà men quyền lực còn chưa làm say sưa cấp lãnh đạo... thì quả thật lòng dân đều đặt hết vào ông Diệm niềm tin trọn vẹn. Thể hiện rõ ràng nhất là chuyến viếng thăm lần thứ nhì 4 tỉnh miền Nam Trung Việt, nơi địa phương Duyên Hải mà tôi đang là Tư lệnh vào tháng 9 năm 1955.

*

Trước khi ông Diệm rời Sài Gòn, ông Võ văn Hải gởi công điện cho tôi thông báo lộ trình kinh lý gồm trước hết là tỉnh Phú Yên để khánh thành đập Đồng Cam, sau đó ông sẽ thăm ba tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, và Bình Thuận. Ngoài ra Hải còn gởi một lá thư riêng đề nghị tôi tổ chức thật trọng thể và thật có ý nghĩa chuyến kinh lý này vì “kỳ này ông Cụ đi thăm dân còn có Ngoại giao đoàn và một số đông báo chí quốc tế tháp tùng”.
Muốn buổi lễ trở nên “trọng thể và có ý nghĩa” thì theo tôi không có cách nào hay hơn là biểu dương được niềm tin mạnh mẽ của quần chúng về vị lãnh tụ của mình. Vì vậy tôi bèn nhờ Phong trào Cách mạng Quốc gia huy động thêm nhân dân ở hai quận ngoại biên của thành phố Nha Trang là Diên Khánh và Vĩnh Xương tham dự vào cuộc nghênh đón vị nguyên thủ quốc gia. Chương trình thăm viếng Nha Trang dự định bắt đầu vào lúc 4 giờ chiều, không ngờ cuộc lễ khánh thành đập Đồng Cam bị chậm trễ thành ra hơn 8 giờ tối ông Diệm mới tới phi trường Nha Trang. Dù bất ngờ, anh em quân dân cũng kịp thời mua nứa làm trên mười ngàn cái đuốc phát cho dân chúng để thắp sáng thêm thành phố.
Khi ông Diệm đến nơi, cả một rừng người đứng chật dọc theo các đại lộ từ phi trường về đến trung tâm thành phố, nơi có “chợ phiên triển lãm kinh tế” do ông Tỉnh trưởng Nguyễn Trân (hiện ở Mỹ) tổ chức để đón mừng vị nguyên thủ quốc gia. Tiếng hoan hô vang dội và đèn đuốc sáng choang tưng bừng rộn rã một góc trời. Tôi đứng chung với ông Diệm trên chiếc xe Jeep đi giữa hai hàng dân chúng, thỉnh thoảng ông quay nhìn tôi với vẻ mặt vô cùng hoan hỉ, miệng luôn luôn nở nụ cười và hai tay dơ cao đáp lại lời tung hô của dân chúng. Trong cuộc kinh lý này còn có cả ông Ngô Đình Luyện đi theo.
Đêm đó tôi mời ông Diệm và các vị Bộ trưởng lên sân thượng khách sạn “Beau Rivage” để xem đoàn xe hoa 140 chiếc của quân đội diễn hành mừng quan khách. Trên bầu trời đen tối lấp lánh ánh sao, phi cơ L19 và phi cơ Dakota của Không quân (do Thiếu tá Oánh - hiện ở Mỹ - chỉ huy) bay theo đội hình và thả hỏa châu muôn màu biến trời cao biển rộng của Nha Trang thành một tấm thảm nạm kim cương lóng lánh. Cuộc trình diễn của quân đội kéo dài từ 10 giờ đêm đến 2 giờ sáng, các Bộ trưởng dần dần tỏ dấu mệt mỏi, riêng ông Diệm vẫn vui tươi ngồi nhìn đoàn xe hoa đi qua, thỉnh thoảng ông đứng thẳng dậy dơ hai tay cao vẫy chào tỏ ý khen ngợi và để đáp lại tiếng hoan hô của quân đội. Tôi nghĩ rằng từ ngày thành phố Nha Trang được thành lập có lẽ chưa bao giờ dân chúng được chứng kiến một đêm hoa đăng tưng bừng rộn rịp như đêm ông Diệm đến viếng thăm vào mùa Hè năm 1955 đó. Tôi cố gắng tạo một cuộc nghênh đón thật đông đảo, huy hoàng để chứng tỏ quân đội và nhân dân đang ngưỡng mộ nhà lãnh đạo mà có thể còn nhiều nhân vật quốc tế còn nghi ngờ là uy tín vẫn chưa thật sự ăn sâu trong lòng người Việt Nam.
Cuộc kinh lý của ông Diệm kéo dài trong niềm hân hoan của mọi người và trong sự đắc ý của ông Diệm cho đến khi ông lên phi cơ ở phi trường Phan Thiết để trở về Sài Gòn. Trước khi phi cơ cất cánh, ông Diệm đã bắt tay tôi thật chặt và nói thật thiết tha: “Mậu gắng làm việc nghe”. Tôi biết đó không phải là một lời chào tạm biệt, lại càng không phải là lời cám ơn của một cấp chỉ huy với một cán bộ trung kiên đã chứng tỏ qua nhiều lần quyết tâm phục vụ cho đất nước và cho cá nhân ông từ gần 15 năm nay, mà rõ ràng đó là một lời kết ước sâu sắc mà ông thề nguyền. Vì cũng câu nói đó, tôi đã từng nghe dặn dò nhiều lần trong những giai đoạn gian nan của ông Diệm và tôi, trong những giờ phút vinh nhục của thời kỳ đấu tranh nguy hiểm.
Tổ chức cuộc nghênh đón vô cùng long trọng sau ngày ông Diệm đã lật đổ một chế độ phong kiến, sau ngày ông Diệm đã bước lên đài vinh quang tột đỉnh, tôi tự cho đã chấm dứt giai đoạn mở đầu của chế độ, giai đoạn giới thiệu nhà lãnh đạo với quốc dân đồng bào. Từ nay tôi chú tâm vào công việc đóng góp phần nhỏ mọn của mình vào công cuộc kiến thiết và bảo vệ chế độ để phục vụ quốc gia. Tôi trở về với nhiệm vụ của người quân nhân, lo tảo thanh vùng rừng núi nghi ngờ còn Việt cộng ẩn nấp và lo việc huấn luyện binh sĩ. Một trong những cuộc hành quân quy mô được mở ra tại vùng rừng núi giáp giới ba tỉnh Bình Định, Phú Yên và Pleiku. Bộ Tổng tham mưu biệt phái Thiếu tá Nguyễn Huy Lợi làm Tham mưu trưởng cho cuộc hành quân đó. Nguyễn Huy Lợi (hiện nay ở Mỹ) là một sĩ quan trẻ tuổi, có tài, có kinh nghiệm, giỏi cả về tham mưu lẫn tác chiến. Tôi đã biết Lợi từ ngày còn chiến đấu ở Bắc Việt. Mấy tháng Lợi làm việc ở Nha Trang đã giúp tôi khám phá thấy Lợi là viên sĩ quan trẻ tuổi thông minh, có thể trở thành một tướng lãnh ưu tú của quân đội sau này. Tiếc thay, cuối năm 1960, Lợi tham gia tích cực cuộc lật đổ chế độ nhà Ngô nhưng không thành nên phải mai một, cơ cực mấy năm trời lưu vong tại Cao Miên.
Về phương diện huấn luyện binh sĩ thì dưới quyền tôi có trường Bộ binh Đồng Đế, cách Nha Trang 3 cây số là trung tâm đào tạo hạ sĩ quan lớn nhất của quân đội. Một hôm, Thiếu tá Lê Cầm (do Thiếu tá Huỳnh văn Cao, Tham mưu trưởng Biệt bộ Phủ tổng thống, đặt để) chỉ huy trường Hạ sĩ quan, mời tôi và ông Tỉnh trưởng Nguyễn Trân cùng phái đoàn nhân sĩ và hành chánh Nha Trang đến thăm trường.
Sau khi thăm xong các cơ sở doanh trại, Cầm mời chúng tôi đến chiêm ngưỡng một ngôi “giáo đường” to lớn và khang trang. Tôi khen ngợi Cầm có sáng kiến tốt, đồng thời cũng hỏi xem Cầm có thiết lập một ngôi chùa nào không. Cầm trả lời “chưa”. Tôi nổi nóng ngay và la Cầm: “Ở đây chỉ có vài trăm binh sĩ theo Công giáo thì anh lo làm nhà thờ ngay, trong lúc đó đến trên 3.000 quân nhân theo đạo Phật thì anh không chịu để ý lo phần thiêng liêng của họ, anh làm vậy binh sĩ sẽ ngờ rằng Tổng thống Diệm chủ trương kỳ thị tôn giáo, hơn nữa anh là cấp chỉ huy có đạo Thiên Chúa, anh sẽ mang tiếng bất công. Lại nữa việc làm của anh tỏ ra anh đã không tuân lệnh tôi. Rất nhiều lần trong các buổi học tập, tôi đã tuyên bố Tổng thống Diệm là nhà lãnh đạo đặt tổ quốc lên trên tôn giáo... không bao giờ ông có thái độ kỳ thị, thiên vị, hẹp hòi...”. Không ngờ những lời tôi la mắng Thiếu tá Lê Cầm đã đem lại hậu quả tai hại cho tôi liền ngay sau đó.
Vào khoảng tháng 7 năm 1956, thình lình tôi nhận được lệnh bàn giao lại Phân khu Duyên Hải cho Trung tá Nguyễn Vĩnh (thường được binh sĩ gọi là Vĩnh Hèo vì ông hay cầm hèo đánh vào đầu binh sĩ mỗi khi có lầm lỗi). Tôi được thuyên chuyển về đơn vị quản trị Sài Gòn đợi lệnh mới. Nhận được lệnh, tôi liền bí mật vào Sài Gòn gặp Bộ trưởng Trần Trung Dung vốn quen biết với tôi từ năm 1953 tại Hà Nội, để hỏi duyên cớ vì sao tôi bị mất chức một cách vô lý và bị thuyên chuyển như một hình phạt. Ông Trần Trung Dung cho biết việc đó là do lệnh trực tiếp của ông cố vấn Ngô Đình Nhu, vì theo ông Nhu thì tôi mang đầu óc công thần và có lời lẽ thất lễ đối với Tổng thống. Mấy ngày sau Trung tá “Vĩnh Hèo” cho tôi biết ông được lệnh mở cuộc điều tra về ngân quỹ của Bộ tham mưu Phân khu Duyên Hải do tôi sử dụng. Nhưng vì Phân khu Duyên Hải không có ngân quỹ riêng nên cuộc điều tra không đưa đến kết quả nào. Tiếp đến là một phái đoàn đảng Cần Lao gồm có Thiếu tá Công giáo Vũ Hùng Phi và một cán bộ của Tổng Liên đoàn Lao công (mà tôi quên tên) đến Nha Trang để tiếp xúc với các cơ quan quân dân chính để điều tra tôi về tội “phá Công giáo”. Những hiện tượng trên cho tôi thấy mình bắt đầu trở thành đối tượng chống phá của nhóm Công giáo và Cần Lao mà nguyên do chỉ vì sự mâu thuẫn giữa tôi và ông Tỉnh trưởng Nguyễn Trân, người thuộc phe Công giáo Nha Trang.
Ông Nguyễn Trân khởi nghiệp là một vị quan lại Nam triều, còn tôi xuất thân từ một quân nhân trong một quân đội bảo hộ. Nếu thế nước lòng dân mà cứ êm đềm như dòng sông Hương thì có lẽ tôi và ông Nguyễn Trân không có cơ hội gặp gỡ như lời của chí sĩ Phan Sào Nam: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai!”. Nhưng cuộc đời lại không bẳng phẳng mãi cho nên tôi mới gặp ông Nguyễn Trân để bị đố kỵ, kéo bè, kết đảng cố tình làm hại tôi.
Tôi biết ông Nguyễn Trân lần đầu tiên vào năm 1949-1950 khi tôi còn làm việc tại Bộ Tham mưu Việt binh đoàn ở Huế. Ông Trân đến nhà tôi để nhờ tôi vận động với Trung tá Nguyễn Ngọc Lễ cho ông ta được gia nhập Việt binh đoàn với cấp bậc “Chuẩn úy”. Nhưng ông Lễ từ chối vì biết ông Trân đang bí mật làm việc cho công an Pháp tại Huế (Sureté Féderale). Tôi cũng có gặp ông Trân vài lần tại nhà ông Ngô Đình Cẩn ở Phú Cam. Nhưng như tôi đã nói ở chương trước, ông Trân đến với ông Cẩn chỉ để dò la tình hình. Thật ra ông Trân khinh ông Cẩn dốt nát, còn ông Cẩn thì chê ông Trân là một cựu quan lại tham nhũng; thế mà tôi không hiểu vì lý do nào ông Trân lại được cử làm Tỉnh trưởng Khánh Hòa khi ông Diệm vừa được Bảo Đại cử làm Thủ tướng. Mấy tháng sau, ông Tôn Thất Toại còn cho tôi biết dĩ vãng không đẹp của ông Trân vì ông Trân đã có thời làm Tri huyện dưới quyền ông Toại khi ông Toại còn làm Tuần vũ Phú Yên. Lúc còn làm Tri phủ Tỉnh Gia (Thanh Hóa) ông Trân bị liên hệ vào một vụ bông vải thời kỳ Nhật chiếm đóng. Nhiều người còn ví ông Nguyễn Trân là một thứ Trần Mậu Trinh thứ nhì, vì ông này làm Tri huyện Hương Khê (Hà Tĩnh), nhân khi ông Khâm sứ Pháp đi xe hỏa ra Hà Nội, ông Trần Mậu Trinh bèn cho trồng chuối dọc hai bên đường rầy suốt dọc huyện Hương Khê vì biết viên Khâm sứ đó thích trồng chuối. Ông Nguyễn Trân không trồng chuối nhưng lại thích mở chợ phiên. Đến Nha Trang hai năm, ông mở hai chợ phiên: chợ phiên Kinh tế năm 1955 và chợ phiên Trung thu năm 1956. Vào Mỹ Tho, ông ta lại mở chợ phiên luôn mấy tháng và bày trò đấu lý với những cán bộ Cộng sản đang bị giam.
Thời gian ở Nha Trang, cứ mỗi lần tôi tổ chức biểu tình chống Pháp, chống Cộng thì ông Trân cùng với cò Dần lẩn tránh vào Phan Rang hay “đi công tác trong Phủ tổng thống” vì lúc bấy giờ vẫn còn người Pháp, Nha Trang vẫn còn tòa Đại diện Pháp (Délégation Francaise). Nhưng hễ cuộc biểu tình đưa đến kết quả mỹ mãn thì ông ta lại khoe khoang với dinh Độc Lập là mặc dù đi vắng nhưng ở nhà, dân chúng Nha Trang vẫn tự động biểu tình chống Pháp, chống Cộng, để khoe “dân của ông” có tinh thần rất cao.
Tôi biết rõ sở dĩ ông Trân đố kỵ và muốn tôi rời khỏi địa phương của ông vì cái tình cảm ghen tức và vị kỷ rất thường bám rễ chặt trong một số cấp quan lại thời phong kiến. Tôi là cán bộ tiền phong của chế độ mà ông Trân thì không; tôi là người đứng đầu sóng gió mà đấu tranh còn ông thì vào Dinh mà kể công, cho nên, đối với ông, tôi là một thứ gươm Damocles trên đầu. Ngoài ra, và trực tiếp hơn, tôi là một Phật tử chỉ biết ông Diệm là cấp chỉ huy duy nhất của mình, còn ông Trân lại là một tín đồ Công giáo đang góp phần xây dựng một pháo đài Công giáo chung quanh những người anh em ông Diệm. Tôi nghĩ rằng chính điểm này, điểm then chốt này, đã là lý do cuối cùng và mạnh mẽ nhất làm cho ông Trân tìm cách và đã thành công trong việc thuyên chuyển tôi ra khỏi địa phương mà tôi đã xây dựng.
Từ đầu, tôi không muốn có mâu thuẫn với ông ta vì dù sao chúng tôi đều là cấp lãnh đạo địa phương, nếu trầm trọng hóa và công khai hóa thì có thể mất uy tín của chế độ và làm buồn lòng ông Diệm. Gặp ông Trân tôi chỉ than phiền một số cử chỉ thiếu thành thực của ông ta, không ngờ ông ta vẫn ôm chặt mối hận thù đối với tôi. Ông dùng nhóm Cần Lao Công giáo địa phương, cầm đầu bởi linh mục Nguyễn Sồ và ông Võ Sĩ, báo cáo về ông Nhu để xuyên tạc tôi.
Ngày tôi chính thức từ giã Phân khu Duyên Hải lên đường vào Sài Gòn, quân dân chính Nha Trang tổ chức một cuộc tiễn đưa vô cùng cảm động và trọng thể. Quân nhân và đoàn viên Phong trào Cách mạng Quốc gia tập trung đầy cả sân ga và đầy cả công trường Trình Minh Thế với vô số cờ của Phong trào và biểu ngữ mang khẩu hiệu biểu lộ nỗi mến tiếc sự ra đi của một người anh đầu đàn. Nhiều binh sĩ đã ôm lấy tôi mà khóc vì ái mộ một cấp chỉ huy đã thực hiện tình “huynh đệ chi binh” bằng những chính sách cụ thể. Trước hôm tôi ra đi, quân dân chính Nha Trang mở một bữa tiệc tiễn hành, nhiều người đã thay phiên nhau lên máy vi âm ngỏ lời chào tiễn biệt. Vẫn chưa đủ khoái trá với thành công, ông Trân bắn phát đạn cuối cùng: Ông mượn một câu thơ của Thế Lữ để mỉa mai tôi “Đi là chết trong lòng một ít”. Một nhân viên của tôi là Trung úy Nguyễn Thiện thuộc Đại đội Truyền tin, không thể im lặng được bèn đứng dậy xin phát biểu ý kiến. Thiện mượn tích Liêm Pha và Lạn Tương Như để mỉa mai ông Trân là không có tinh thần đoàn kết, chỉ biết dùng thủ đoạn để hại người hiền.
Ngày nay, ông Trân và tôi đều làm thân kẻ lưu vong biệt xứ, ăn nhờ ở đậu nơi xứ người, còn có sung sướng hãnh diện gì mà kể lại chuyện tranh chấp xa xưa, hơn nữa ông Trân và tôi đều là người lão giả, đều đã gần đất xa trời, chẳng qua vì không những tôi muốn kể lại một ít chuyện của đời mình, mà quan trọng hơn thế nữa, tôi còn muốn trang trải kinh nghiệm đời cho thế hệ tương lai nên mới phải trung thực đề cập đến chuyện của ông Nguyễn Trân. Huống chi tư cách ông Nguyễn Trân như thế nào thì những cựu quan lại và công chức miền Trung, những đồng hương nơi vùng ông Trân ở đều biết rõ (tạp chí Thức Tỉnh tại Los Angeles của ký giả Tô Văn cũng đã có hai kỳ nêu lên một ít tình tiết không đẹp về ông Trân rồi). Thành thực mà nói thì khi bị thuyên chuyển khỏi Nha Trang, tôi không oán hờn ông Trân lắm mà chỉ ngạc nhiên và thầm trách ông Ngô Đình Nhu, làm một nhà lãnh đạo cao cấp mà lại chủ quan, thiếu sáng suốt.
Sau cuộc tiễn đưa thắm thiết tình đồng chí của quân dân Nha Trang, dọc chuyến tàu hỏa đưa tôi vào Sài Gòn, đêm đó tôi còn đón nhận bao nhiêu cảm tình nồng hậu của quân dân vùng duyên hải Nam Trung phần. Mỗi lần tàu ngừng lại tại Ba Ngòi, Tháp Chàm, Phan Rí và Phan Thiết, hàng trăm chiếc đuốc, hàng ngàn cánh tay của quân dân chính những vùng đó dơ cao lên hoan hô một người chiến hữu cách mạng đã từng dẫn dắt họ trong cuộc đấu tranh chống Phong-Thực-Cộng qua hơn hai năm trời. Các ông Tỉnh trưởng Nguyễn văn Tích (Ninh Thuận) và Hồ Đắc Khương (Bình Thuận), các Thiếu tá Tiểu khu trưởng như Hồ Nghĩa, Phan Xuân Nhuận và các dân biểu đại diện Phong trào Cách mạng Quốc gia (mà hiện nay còn có bác sĩ Nguyễn Trọng Thiện hiện ở Mỹ) đã thay mặt quân dân chính các tỉnh liên hệ ngỏ lời tiễn đưa tôi. Họ bùi ngùi nhắc lại những thành quả thu hoạch được tại địa phương do sự chỉ đạo chính trị của tôi. Đặc biệt tại Ba Ngòi, Linh mục Nguyễn văn Dũng đã kéo mấy trăm gia đình người Công giáo di cư Quảng Bình đến ga xe lửa để gặp mặt người đồng hương, đồng chí lần chót. Cha Dũng đã ôm lấy tôi mà khóc nức nở và Cha cũng không ngần ngại to tiếng trách móc ông Ngô Đình Nhu “có mắt mà không có ngươi”. Tôi không ngạc nhiên trước thái độ của nhà tu hành khả kính đó. Ông là người hết lòng ủng hộ chế độ Ngô Đình Diệm, nhưng ông không phải là hạng linh mục Cần Lao, hạng linh mục hay lui tới cửa ngõ kẻ có quyền, không bao giờ vào ra dinh Phú Cam hay dinh Độc Lập, không bao giờ khúm núm trước cửa Triều đình Ngô Đình Thục ở Vĩnh Long. Sau khi tôi đi rồi, ông Nguyễn Trân tìm mọi cách làm khó dễ địa phận của Cha Dũng ở Hải Triều, thu lại hết số vũ khí mà tôi đã phát cho xóm đạo của cha. Linh mục Nguyễn văn Dũng là một tu sĩ Công giáo có tinh thần cách mạng, có tính tình cứng rắn, nhưng tôi không ngờ ông quyết liệt đến độ đã cùng với Phan Xứng tham gia vào tổ chức cách mạng chống nhà Ngô của ông Nguyễn văn Lực sau này. Đã đành Cha Dũng và ông Phan Xứng sau này bí mật tham gia vào hoạt động của ông Nguyễn văn Lực là để đạp đổ một chế độ độc tài làm đau khổ nhân dân 8, 9 năm trời, nhưng biết đâu việc tôi bị cất chức khỏi Nha Trang một cách bất công đã là một yếu tố nhỏ đầu tiên đóng góp cho cái quyết định có thể đã làm Cha mất mạng. Sau cuộc lật đổ ông Diệm (năm 1963) nhóm Cần Lao coi tôi như kẻ thù, nhưng có những phần tử Công giáo như ông Phạm Quốc Trị hay như ông Nguyễn văn Dật (hiện ở Los Angeles) chẳng hạn, quen thân với Cha Dũng, hết lòng bênh vực tôi, họ không ngần ngại công khai lên án tập đoàn Cần Lao đã phá hoại chế độ và làm suy sụp miền Nam.
Đến Sài Gòn, tôi tìm cách vào gặp ông Nhu mãi mà không được, bèn đi thăm một số bạn bè trong đó có ông Tôn Thất Trạch (hiện ở Pháp) Tổng giám đốc Bảo an. Ông Trạch nguyên là cựu Tri huyện, theo ông Diệm từ ngày hồi cư khoảng 1949, 1950. Khi ông Diệm mới về nước làm Thủ tướng, nhờ là người liêm chính ông Tôn Thất Trạch được chọn giữ chức vụ tín cẩn là Đổng lý Văn phòng. Nhưng tính tình vốn cứng rắn, nói phô thiếu mềm dẻo, nên ông Trạch không được ông Diệm ưa thích, sau đó ông Trạch bị mất chức Đổng lý Văn phòng và được bổ nhiệm làm Tổng giám đốc Bảo an.
Tôi vào thăm, ông Trạch mừng lắm, và đề nghị với Bộ trưởng Nội vụ là ông Nguyễn Hữu Châu để tôi giữ chức Phó Tổng giám đốc Bảo an, phụ tá cho Trạch về phần quân sự. Nhưng chỉ độ hai tuần lễ sau thì Trạch bị ông Cố vấn Ngô Đình Nhu khiển trách tại sao lại sử dụng tôi, và đồng thời ra lệnh cho tôi sửa soạn đi nhận chức Tùy viên Quân sự tại Tòa đại sứ Việt Nam ở Pháp.
Tôi nghĩ bụng việc chỉ định tôi đi làm Tùy viên Quân sự thật ra chỉ là một biện pháp khai trừ những phần tử “bất hảo” bằng cách cho ra nước ngoài (như trường hợp các ông Bùi văn Thinh, Nguyễn Đôn Duyến, Trần Chánh Thành, Lâm Lễ Trinh, Trần Kim Tuyến sau này...), nhưng điều làm tôi ngạc nhiên là tại sao lại bổ nhiệm tôi đi Pháp vì tôi vốn là phần tử có thành tích chống Pháp mà cả ông Diệm và ông Nhu đều biết rất rõ. Vốn nặng tình quê hương và thích sống đơn giản nên tôi không thích những kinh thành hoa lệ, náo nhiệt và xa xôi như Paris, hơn nữa lại chán nản trước sự bạc đãi của ông Nhu, tôi đã định xin từ chức. Nhưng nghĩ lại thì dù sao còn có ông Diệm biết rõ cuộc đời mình, biết rõ công lao của mình, biết rõ tấm lòng trung cang nghĩa khí của mình, cho nên trước khi quyết định từ chức, tôi muốn biết rõ thái độ của ông Diệm như thế nào đã. Tôi xin yết kiến Tổng thống, trình bày mọi sự việc đã xảy ra ở Nha Trang, rồi xin ông Diệm cho tôi được ở lại quê nhà. Ông Diệm trả lời: “Không lẽ cha Sồ mà cũng nói láo về anh hay sao? Anh cứ đi Pháp đi đã”. Ông Diệm không có vẻ giận dữ tôi lắm nhưng tôi vẫn tự hỏi tại sao ông lại không có một quyết định sáng suốt hơn và đúng đắn hơn để gỡ mối oan cho người cán bộ trung kiên. Một ông linh mục thì thường có thể đúng trong chuyện Đạo, nhưng trong chuyện Đời, nhất là những mâu thuẫn chính trị có tính cách phe phái phức tạp, thì ông Cha có thể nhầm lẫn lắm chứ. Chỉ một ông Cha Sồ ở Nha Trang mà đã có áp lực nặng nề như thế thì sau này những linh mục, nhưng Tổng giám mục, những Hồng y... còn san sẻ quyền lực và chi phối chính sách đến mức độ nào!
Tôi rời quê hương ngày 25 tháng 10 năm 1956, một ngày trước lễ Quốc Khánh đầu tiên của miền Nam Việt Nam. Ngày mai, ông Diệm sẽ tuyên bố thành lập nền Cộng hòa và chính thức ban hành Hiến pháp, sẽ chủ tọa lễ Quốc Khánh trên đại lộ Trần Hưng Đạo huy hoàng cờ quạt. Ngày mai, bạn bè tôi ở đó, đồng chí tôi ở đó, đồng bào tôi ở đó, và lãnh tụ tôi ở đó cũng sẽ được mang chung niềm vinh dự lớn, còn tôi thì sau 15 năm gian truân đấu tranh cho dân tộc và cho tổ chức ông Diệm, lại làm kẻ độc hành giã từ quê hương đi đến một phương trời xa ngái. Dẫn theo đứa con trai trưởng mới 16 tuổi cho đỡ đơn côi tại xứ người, tôi bước lên chiếc phi cơ Constellation 4 động cơ của hãng Air France mà buồn ông Diệm hiểu lầm mình thì ít nhưng giận ông Nhu mới qua sông mà đã chặt cầu thì nhiều.
Trời Paris cuối thu lành lạnh, sương trắng giăng mắc suốt đoạn đường từ phi trường Orly về đến trung tâm thành phố. Hai cha con chúng tôi được nhân viên Tòa đại sứ đón về tạm trú tại một khách sạn ở khu Latin. Đêm đầu tiên trên xứ người thật là dài và sâu.
Mặc dù được đại sứ Phạm Duy Khiêm hết lòng vận động nhưng tôi vẫn không được chính phủ Pháp thừa nhận là nhân viên thuộc ngoại giao đoàn. Tôi không ngạc nhiên và cũng không có ý trách người Pháp vì làm sao họ có thể có thiện cảm với một người có thành tích hung hãn chống lại quyền lợi của quốc gia họ, và đe dọa tính mạng kiều dân của họ tại Việt Nam. Trong bữa tiệc thết đãi Đại sứ Pháp Jean Payart từ Sài Gòn về công cán tại Paris có sự tham dự của hai ông Bùi Xuân Bào và Bửu Kĩnh với mục đích tạo một tiếng dội về Bộ Ngoại giao Pháp, Đại sứ Phạm Duy Khiêm đã giới thiệu tôi không phải là một con cọp hung dữ với Đại sứ Payart, nhưng chính phủ Pháp vẫn coi tôi là phần tử nguy hiểm. Tuy nhiên, lúc bấy giờ, vì chính phủ Pháp chưa muốn tạo ra quan hệ căng thẳng giữa Pháp và Việt Nam nên họ đã để cho tôi ở vào cái thế không ở trong quy chế ngoại giao đoàn mà cũng không coi tôi là một personna non grata để trục xuất về nước. Cuối năm 1956, nhân có các ông Trần Chánh Thành và Nguyễn Hữu Châu đi công cán ở Pháp, tôi nhờ hai ông về trình lại với Tổng thống Diệm cho tôi được hồi hương. Trong lúc chờ đợi sự giải quyết của chánh phủ Sài Gòn, tôi lại phải kéo dài chuỗi ngày vô vị chán nản của một người mang tâm trạng bị vắt chanh bỏ vỏ, một người bị phản bội, sống vất vưởng nơi quê người mà tâm huyết đóng góp cho đất nước thì vẫn sục sôi theo ngày tháng.
Paris vào tiết trọng Đông sương tuyết lạnh lùng càng làm cho niềm cô đơn thêm tê tái, căn phòng trọ ở số 10 đường Claude Terrace gần Porte St. Cloud là một cao ốc ở tầng thứ bẩy hứng chịu cơn gió lốc buốt giá khi đêm về. Tôi thường ngồi độc ẩm với bình trà tàu thâu đêm và tuy không phải là thi sĩ, nhưng cứ mỗi lần tâm sự dạt dào thì tình thơ lại chứa chan lai láng. Nhớ lại cụ Phan Thanh Giản ngày xưa cũng đã có lần đi sứ sang Pháp nên tôi bèn nhại bài thơ Đường của Cụ để ký thác tâm sự mình, tâm sự mà tôi muốn nhắn gởi cho ông Diệm:
Từ lúc quen nhau kết chữ đồng,
Lời thề đã hẹn với non sông.
Trời Tây riêng tớ sầu cô quạnh,
Đất Việt mong ai khéo vẫy vùng.
Chén rượu liên hoan còn chửa cạn,
Con thuyền viễn xứ đã xa trông.
Trùng dương muôn dặm dù xa cách,
Rằng nhớ rằng quên, lòng hỏi lòng.
Tôi gởi bài thơ về nước cho một số bạn bè đọc chơi, không ngờ sau này ông dân biểu Võ văn Trưng, một đồng chí của tôi, lại cho đăng trên tuần báo “Sinh Lực” do ông làm chủ nhiệm và người bạn tri kỷ của tôi là nhà văn Thái văn Kiểm lại gởi cho thi sĩ Đinh Hùng để được ngâm nga trên mục Tao Đàn của đài phát thanh Sài Gòn. Tôi nghĩ rằng bạn hữu tôi đều biết đó là thứ “thơ kaki”, nhưng có lẽ vì họ thương mến và muốn chia sẻ tâm sự của tôi nên mới phổ biến bài thơ để cùng cảm thông với nỗi buồn của một con người bị bạc đãi mà vẫn cố giữ tấm lòng cô trung.
Trong thời gian ở tại Paris, tôi lại tình cờ mà biết thêm về tư cách của vợ chồng Ngô Đình Nhu, sự hiểu biết cần thiết của một cán bộ về cấp lãnh đạo quốc gia đang cầm vận mạng đất nước.
Ông bà Ngô Đình Nhu đến Pháp ở một tuần lễ tại ngôi nhà riêng của ông bà ta tại quận 16 của thủ đô Paris. Ông Bùi Xuân Bào (hiện nay ở Pháp) vừa là Cố vấn của Tòa đại sứ, vừa là Chủ tịch của Phong trào Cách mạng Quốc gia Hải ngoại, đại diện cho ông Đại sứ, thường đến gặp ông Nhu để trình bày công việc. Một hôm tôi cùng đi với ông Bào đến gặp ông Nhu để trình bày trường hợp khó xử của tôi và yêu cầu cho tôi hồi hương. Gặp ông Nhu, ông Bào mới nói được vài lời thì ông Ngô Đình Luyện đến, chúng tôi vẫn tiếp tục nói chuyện với ông Nhu trong khi ông Luyện nói chuyện với bà Nhu trong cùng một phòng khách. Do đó dù không muốn tôi vẫn nghe câu chuyện của họ, trong đó ông Luyện không gọi bà Nhu bằng chị mà chỉ gọi bằng tên “Lệ Xuân” (ví dụ “Lệ Xuân nói vậy là sai” hay là “Lệ Xuân hay cãi bướng”...). Câu chuyện giữa hai người lúc đầu còn êm thắm, dần dần đi đến cãi vã, tuy lời lẽ chưa đến độ thô lỗ nhưng bầu không khí cuộc nói chuyện đã nặng nề lắm rồi. Ông Bào và tôi ra dấu cho nhau để cáo từ ra về.
Ngày ông bà Nhu lên đường về nước, ông Bào và tôi lại đến chào tạm biệt ông Nhu và để tiễn ông lên phi trường Orly. Vào nhà, chúng tôi thấy ông Nhu đang ngồi ủ rũ một mình, trong khi đó thì chuông điện thoại reo vang thúc giục ông bà lên phi trường gấp vì đã gần tới giờ phi cơ cất cánh, nhưng bà Nhu vẫn “biệt vô âm tín”. Một lát lâu sau, thấy bà Nhu về tay xách tay ôm mấy gói đồ. Thấy mặt vợ, ông Nhu đứng bật dậy như chiếc lò xo, miệng lẩm bẩm: “Mình đi đâu để tàu bay hối thúc hoài...”. Ông Nhu nói chưa dứt câu thì bà Nhu đã nổi cơn thịnh nộ, ném mấy gói đồ xuống sàn nhà làm tung tóe mấy chai lọ, toàn là đồ trang sức đàn bà, và to tiếng nạt lại ông Nhu: “Mấy bữa nay bận rộn, hôm nay mới rảnh để mua một ít đồ dùng sao mình ồn ào quá thế, có gấp thì về trước đi, tôi về sau”. Bà Nhu cứ tiếp tục lải nhải như thế ngay cả trước mặt chúng tôi trong khi ông Nhu mặt xìu xuống, đứng im lặng. Ông Bào và tôi lại làm dấu cho nhau bước ra khỏi phòng đứng đợi.
Tôi được nghe kể nhiều giai thoại về chuyện bà Nhu nạt nộ, hỗn láo với chồng và tôi đã chứng kiến hơn một lần cái cung cách “vô hạnh” của bà vào năm 1962 nhân đi họp ở Bộ Quốc phòng Sài Gòn, khi tôi ghé thăm ông Nhu ở số 8 đường Ypres. Đến nơi tôi thấy có ông Tôn Thất Cẩn, một bạn thân của nhà họ Ngô, chủ tiệm “Table des Mandarins” ở Paris, đang ngồi với ông Nhu trong phòng khách. Trong lúc ông Nhu, ông Cẩn và tôi đang nói chuyện thì bỗng nhà trong nổi lên tiếng bà Nhu quát tháo ồn ào. Nghe tiếng vợ, ông Nhu đưa lời khuyên can, nhưng tiếng quát tháo của bà Nhu càng lúc càng lớn hơn, ông Nhu bèn kéo ông Cẩn và tôi ra mái hiên ngồi nói chuyện. Hôm nay, tại Paris, ông Bào và tôi có cơ hội chứng kiến cái tư cách yếu hèn của một nhà đại khoa bảng, của một lãnh tụ quốc gia, chỉ vì quá chiều chuộng người vợ trẻ mà đành phải mất hết sĩ diện trước những người lạ. Từ khi chứng kiến được cảnh ông Nhu bị vợ làm nhục trước mặt khách, sau này tôi không ngạc nhiên về việc bà Nhu trở thành “Nữ Hoàng” tại dinh Tổng thống, dám la mắng cả người anh chồng là một vị nguyên thủ quốc gia.
Đáng lẽ sinh ra sau lũy tre làng nơi đồng khô cỏ cháy, bùn lầy nước đọng, thì dễ bị cuốn hút vào nét kiêu kỳ của kinh đô ánh sáng Paris, nhưng nhờ lớn lên trôi nổi khắp ba miền đất nước và rung động được với cảnh trí xinh đẹp của quê hương mà nét đan thanh lồng vào trong niềm đau khổ của cả người lẫn cảnh nên đối với tôi, dù Paris có dòng sông Seine êm đềm, có đại lộ Champs Elysées diễm ảo, có khu Latin quyến rũ... tôi vẫn cảm thấy lòng vắng lặng, hồn xa xôi. Đúng là người buồn thì cảnh có vui đâu bao giờ! Đã mang cái tâm trạng bị bạc đãi và đang bị lưu đày thì lầu son gác tía của kinh đô hoa lệ, lá vàng trải thảm dưới chân những pho tượng trắng ở vườn Luxembourg... tất cả chỉ là hư ảnh trong niềm nhớ xót xa về quê hương ruột thịt.
Nhiều lần, nhớ đến việc ông Nhu kết tội tôi “phá Công giáo, chống Cần Lao”, tôi thấy giấc mơ ôm ấp từ thuở thiếu thời về một quốc gia dân chủ, một chế độ đoàn kết, một chính sách hòa đồng dân tộc để xây dựng được sức mạnh chống lại Cộng sản miền Bắc bỗng tan thành mây khói. Một cán bộ trung kiên như tôi mà còn bị cấp dưới xuyên tạc rồi lại bị cấp trên tin vào đó mà chế tài về cái tội gọi là “phá Công giáo” thì thử hỏi những thành phần khác, quần chúng cũng như đảng phái, đứng ngoài chế độ hoặc đối lập xây dựng, thì số phận của họ sẽ như thế nào. Niềm hy vọng duy nhất còn sót lại để tôi ấp ủ đóm lửa đấu tranh, để sưởi ấm những ngày dài và lạnh là sự hiểu biết và tình nghĩa của con người nhà nho nơi ông Ngô Đình Diệm.
Đúng một năm trôi qua, vào giữa tháng 10 năm 1957, tôi nhận được thư của Đại tá Đinh Sơn Thung, Giám đốc Nha Nhân viên Bộ Quốc phòng và là một người bạn rất thân với tôi. Thung cho biết ông Diệm đã ra lệnh làm giấy tờ để gọi tôi hồi hương và Đại tá Trần văn Trung (sau này là Trung tướng Cục trưởng Cục Chiến tranh Chính trị vào năm 1975) sẽ qua Pháp thay tôi. Đinh Sơn Thung là một cựu chánh quản khố xanh, thời kháng Pháp tuy Thung làm sĩ quan Việt binh đoàn nhưng vẫn bí mật hoạt động cho Việt Minh trong tổ chức của nhóm trí thức Huế với bác sĩ Lê Khắc Quyến. Thung đã bị sở mật thám Pháp bắt vài lần nhưng nhờ Thủ hiến Phan văn Giáo và ông Nguyễn Ngọc Lễ hết lòng can thiệp nên khỏi bị tội tù. Nguyên tôi với ông Thung là bạn láng giềng tại cửa Đông Ba (Huế) nên ngày ngày thường cùng nhau thảo luận tình hình chiến tranh và tương lai đất nước. Cuối cùng tôi thuyết phục được ông Thung ủng hộ ông Diệm. Khi ông Diệm về nước, tôi giới thiệu ông Thung với ông Ngô Đình Cẩn, nhờ đó ông được cử làm Giám đốc Nha Nhân viên Bộ Quốc phòng. Thung lớn tuổi hơn tôi, có mái tóc bạc như cước, lại cũng đã đỗ được bằng Thành Chung nên ông Diệm có vẻ nể nang. Trong thư ông Thung gửi qua Pháp cho tôi có câu: “Cụ vẫn nhắc đến anh, có vẻ nhớ thương anh lắm”. Đồng thời với thư của ông Thung, tôi lại nhận được thư của ông Võ văn Hải bảo tôi khi về nước nhớ mua cho “ông Cụ” một ít melon, thứ trái cây mà ông Diệm ưa thích. Việc nhắn mua melon, tôi đoán không phải là do sáng kiến của ông Võ văn Hải mà chính là của ông Diệm, nghĩ vậy, tôi rất mừng vì cho rằng trong cái việc nhắn mua melon đã gói ghém rất nhiều sự hồi tâm của ông Diệm.
Trong suốt thời gian một năm ở Paris, tôi chỉ chơi thân với một người bạn học và đồng chí cũ là anh Nguyễn văn Đạt. Ngày rời Paris, tôi chỉ cho một mình Đạt biết và Đạt đã thân hành đến tiễn đưa tôi. Đạt là người Quảng Bình cùng quê hương với ông Diệm và tôi. Đạt vốn là bạn học với các ông Thái văn Kiểm và Trần văn Dĩnh ở trường Khải Định. Vào năm quân Nhật chiếm đóng Đông Dương, Đạt cũng hoạt động thân Nhật như Trần văn Dĩnh và cũng ở trong phong trào ủng hộ Cường Để. Trong việc Nhật Bản cứu thoát ông Diệm năm 1944, Đạt đã tham dự một cách tích cực nhờ Đạt đang là bí thư của Phó tổng lãnh sự Ishida tại Huế. Thời thế đổi thay, Đạt theo Việt Minh, chỉ huy Cục Quân báo Mặt trận Bình Trị Thiên dưới sự điều khiển của cháu tôi là Đỗ Dinh, Chính trị viên của Mặt trận. Năm 1952, khi tôi đang giữ chức Tham mưu trưởng Đệ nhị quân khu, Đạt bí mật liên lạc với vợ (hiện ở Mỹ) nhờ nhắn với tôi là đang bị Dinh nghi ngờ theo Pháp, muốn trở về vùng quốc gia để tránh hậu họa. Tôi liền tổ chức bố trí một tiểu đoàn hành quân ở Dạ Lệ (Thừa Thiên) và phái một tiểu tổ đặc công cứu được Đạt. Năm 1954, khi tướng Navarre mở cuộc hành quân Atlante, do sự giới thiệu của người bạn là ông Nguyễn văn An đang giữ chức chỉ huy Trung Nam trấn, Đạt được ông Phan văn Giáo cử giữ chức Tỉnh trưởng Phú Yên. Nhưng khi ông Diệm mới về làm Thủ tướng được ba, bốn tháng, ông Nguyễn văn An bị anh em ông Diệm ra lệnh sát hại tại Qui Nhơn như tôi sẽ trình bày, còn Nguyễn văn Đạt bị nhóm Công giáo ở Phú Yên do linh mục Tô Đình Sơn cầm đầu tố cáo Đạt là Việt cộng. (Các vị Tỉnh trưởng Phú Yên sau Đạt đều vì ông linh mục này mà kẻ thì xin từ chức, kẻ thì bị thuyên chuyển đi nơi khác như quý cụ Hồng Dũ Châu, Lê Tá và Thiếu tá Dương Thái Đồng hiện có mặt tại hải ngoại). Sở dĩ Đạt bị vu khống là Việt cộng chỉ vì lúc làm Tỉnh trưởng, Đạt đã liên kết với tổ chức Đại Việt Trương Tử Anh ở Phú Yên, một đoàn thể cách mạng chống Cộng, mà tổ chức Đại Việt đó và nhóm Công giáo lúc bấy giờ lại là hai lực lượng thù nghịch nhau. (Theo Đoàn Thêm trong “Hai Mươi Năm Qua” thì ngày 7 tháng 10 năm 1958, nhóm Đại Việt Trương Tử Anh ở Phú Yên bị ra Tòa án quân sự ở Nha Trang với 54 can nhân mà chỉ có một luật sư). Đạt bị thuyên chuyển lên Kontum được độ một tuần lễ thì có lệnh bắt nên Đạt phải đi trốn và lưu vong qua Pháp.
Không ngờ năm 1956, tôi và Đạt gặp lại nhau nơi đất khách quê người, mà tôi là kẻ bị bạc đãi còn Đạt là một tội đồ lưu vong. Vì thế mối tình tha hương ngộ cố tri giữa Đạt và tôi lại càng thắm thiết. Nhưng gặp nhau chưa bao lâu thì tôi được gọi về nước còn Đạt ở lại làm kẻ giang hồ “rũ áo phong sương nơi gác trọ”, gậm nhấm mối oán hận tình đời bạc bẽo. Khi tiễn tôi lên đường, Đạt rưng rưng nước mắt tặng tôi tấm ảnh với mấy vần thơ ghi chút kỷ niệm của đôi bạn tuy khác hoàn cảnh mà cùng tâm sự:
“Gặp nhau nơi xứ lạ
Tôi tâm hồn tơi tả
Anh tơ lòng vấn vương
Gặp lại anh giữa độ đường
Thuyền vừa cập bến trăng buông lạnh lùng”
Mấy năm sau, Đạt về Việt Nam làm chủ nhiệm nhật báo Tin Mới. Ngày Nhảy dù đảo chánh 11-11-1960, Đạt viết bài đả kích chế độ Ngô Đình Diệm nên ngày 13, tòa báo của Đạt bị cảnh sát công an đến đập phá tan tành, may cho Đạt kịp thời trốn thoát, sống lẩn lút ở nhiều nơi khác nhau trong ba năm cho đến ngày chế độ Diệm bị lật đổ. Dưới chế độ Nguyễn văn Thiệu, tuy có nhiều bạn bè có quyền lực mời Đạt tham dự nội các nhưng Đạt từ chối để hoạt động trong Phong trào Quốc gia Cấp tiến của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy với tư cách là Tổng ủy viên Tổ chức.
Nguyễn văn Đạt là người thông minh, mưu trí, có ý thức chính trị, nhiều kinh nghiệm tình báo, từng trải đấu tranh, lại là cán bộ cũ và là ân nhân của ông Diệm, thế mà chỉ vì Cần Lao thù ghét, vì anh em ông Diệm thiếu sáng suốt, thiếu khoan dung, để từ một người có thể hữu ích cho quốc gia, cho chế độ, Nguyễn văn Đạt đã phải trở thành kẻ thù rồi nạn nhân của chế độ.
Trả lại Paris vô duyên cho Đạt, trả lại một năm vô tình dằng dặc cho quá khứ, tôi hân hoan trở về Việt Nam lòng tự nhủ thầm rằng có đứng vững vàng trên đất mẹ mới nói đến chuyện đấu tranh cho quê hương.
Về Sài Gòn, vào yết kiến Tổng thống Diệm sau hơn một năm xa cách, tôi thấy ông bệ vệ và mập mạp ra một cách rõ ràng. Ông vui cười và có thái độ cởi mở, thông cảm với hoàn cảnh của tôi đã không được chính phủ Pháp chấp thuận là nhân viên của ngoại giao đoàn. Tuy nhiên ông trách Đại sứ Phạm Duy Khiêm bất lực và bảo rằng Khiêm là một nhà trí thức thân Pháp, từng làm thông ngôn cho Pháp trong đội lính thợ (Ouvrier Non-Specialisé) thời Đệ nhị thế chiến, mà không vận động nổi cho tôi làm Tùy viên Quân sự.
Ông Diệm bảo tôi về Nha Trang nghỉ ít ngày rồi vào nhận chức “Tổng giám đốc Công binh”. Ông giải thích sẽ hợp nhất ngành “công binh tạo tác” và “công binh chiến đấu” làm một cho dễ chỉ huy và đỡ tốn công quỹ. Tôi rất ngạc nhiên vì hợp nhất hai ngành công binh làm một đã là một sự lạ, và cử tôi chỉ huy ngành công binh lại càng vô lý hơn. Tôi lễ phép từ chối vì tôi có biết gì về chuyên môn công binh đâu. Nhưng ông Diệm bảo tôi đừng ngại vì tôi chỉ lo phần vụ điều hành cho đúng chính sách và ông sẽ cho một số kỹ sư có khả năng chuyên môn về phụ tá cho tôi, rồi ông nói tiếp một cách giận dữ: “Anh sang đó đuổi hết mấy thằng Bắc kỳ đi cho tôi”. (Ông Diệm rất khinh ghét người Bắc, trừ ra thành phần người Bắc Công giáo là ông tin tưởng).
Nói chuyện với ông độ hơn một giờ, tôi xin từ giã để đến trình diện tại Bộ Quốc phòng và trình bày lại cho ông Trần Trung Dung biết quyết định của Tổng thống và quan điểm của tôi. Ông Dung thông cảm ngay và tìm cách “hoãn binh chi kế” để khỏi làm cho ông Tổng thống vốn ghét “Bắc kỳ” nổi giận. Ông Dung bàn với Đổng lý Nguyễn Đình Thuần (hiện ở hải ngoại) cử tôi đi thanh tra công binh để rút kinh nghiệm trước khi nhậm chức Tổng giám đốc công binh. Làm thế độ vài ba tháng thì Tổng thống Diệm sẽ quên đi và khi đó sẽ kiếm một sĩ quan chuyên môn thay vị Đại tá đương kim Giám đốc Công binh người Bắc cho Tổng thống vừa lòng. Cũng may cho tôi, nhờ được đi thanh tra công binh mà tôi có dịp tham quan khắp các nẻo đường đất nước và tiếp xúc với khá nhiều đơn vị nên biết rõ được nỗi lòng quân dân đối với chế độ Ngô Đình Diệm như thế nào sau hơn một năm trời xa xứ.
Độ ba tháng sau, tôi được gọi gấp về trình diện Tổng thống. Đang lo âu vì cái nợ “Tổng giám đốc Công binh” thì được Tổng thống cho biết ông đã quyết định bổ nhiệm tôi giữ chức Giám đốc Nha An ninh Quân đội thay tướng Mai Hữu Xuân đi làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quang Trung.
Từ ngày đi Pháp về, tôi vẫn không muốn gặp lại ông Ngô Đình Nhu, nhưng từ khi được Tổng thống giao cho nhiệm vụ chỉ huy ngành An ninh Quân đội, xét thấy cần phải đến chào ông ta để nhận chỉ thị vì dù sao ngành An ninh Quân đội cũng chịu ít nhiều trách nhiệm về sự tồn vong của chế độ, do đó, của quốc gia. Vẫn cái nhìn cao ngạo và vẻ mặt lạnh như tiền, ông Nhu trình bày một số quan điểm của ông về nhiệm vụ của tôi và cuối cùng chỉ thị cho tôi là phải đuổi hết bọn tay sai của Pháp và tay chân của ông Mai Hữu Xuân mới có thể bảo mật được công tác và hồ sơ.
Nha An ninh Quân đội có bốn nhiệm vụ chính yếu là Phản gián, chống Binh vận, chống Phản loạn và “Bảo vệ tinh thần binh sĩ”. Tất nhiên tất cả nhiệm vụ đều khó khăn, đòi hỏi người chỉ huy trước hết phải có ý thức chính trị, phải am hiểu Cộng sản, phải có ý thức tình báo, nhưng điều khó khăn của tôi lại là điều “bảo vệ tinh thần binh sĩ”. Nhiệm vụ không những đòi hỏi phải có công tâm đối với toàn thể các cấp trong quân đội mà còn thể hiện sự công tâm đó ra bằng hành động cụ thể. Khốn nỗi quân đội Việt Nam Cộng Hòa được khai sinh trong hoàn cảnh ngang trái, phối hợp với và kết hợp bởi rất nhiều thành phần thuộc các giáo phái, đảng phái và hoàng phái vốn có rất nhiều mâu thuẫn chính trị và ân oán lịch sử với chế độ.
Mâu thuẫn đó và ân oán đó lại phát triển và chồng chất thêm kể từ khi chế độ khai sinh thêm một thứ “quân đội” song song có tên gọi là Cần Lao. Một thứ quân đội không nằm trong định chế, không xả thân ngoài chiến trường nhưng có đặc quyền kiểm soát, điều động và khống chế quân lực. Là một lực lượng chìm khi ẩn khi hiện, lại chỉ chịu mệnh lệnh và chịu trách nhiệm với ông Ngô Đình Nhu là trung tâm quyền lực cao hơn cả vị Tổng tư lệnh quân đội (là Tổng thống Diệm) nên tình trạng lạm quyền và bè phái đục khoét tinh thần binh sĩ tạo khó khăn cũng như nguy hiểm không cần thiết cho sự quản trị và điều động quân lực trong đại công tác đối đầu với lực lượng võ trang của kẻ thù Cộng sản. Ba lần quân đội đứng ra phát động và tổ chức binh biến làm lung lay và cuối cùng lật đổ chính quyền đã đủ nói lên sự căm phẫn của thành phần quân nhân đối với chế độ Diệm-Nhu.
Cho nên từ khi về nhậm chức, tôi đã không thay đổi một sĩ quan nào như ý muốn của ông Nhu, tôi chỉ tăng cường thêm nhân viên theo đà cải tổ chung của quân đội. Tôi không muốn có sự thay đổi xáo trộn tạo chia rẽ, bè phái, chỉ gây tai hại cho tinh thần quân đội. Về nhậm chức được hơn một năm tôi chỉ đổi viên chánh văn phòng là Đại úy Tống Tấn Sĩ vì ông ta đã ăn cắp cuốn băng ghi âm cuộc điều tra một vị Trung tướng. Còn số nhân viên được xin thêm hầu hết là người theo Công giáo do các ông Ngô Đình Cẩn, Nguyễn văn Châu, Lê Quang Tung và các đảng viên Cần Lao giới thiệu. Về chính trị, tôi chủ trương đối với Cộng sản, phải coi họ là đối thủ nguy hiểm, đối với các sĩ quan thuộc các giáo phái hay đảng phái thì phải gây tình đoàn kết, còn về nhiệm vụ “bảo vệ tinh thần binh sĩ”, tôi chủ trương chính sách “nặng giáo hóa mà nhẹ trừng phạt”. Tôi không thể đề nghị đưa ra tòa án những binh sĩ chỉ ăn cắp ít tấm tôn, vài chục lít xăng, trong lúc các tướng tá và cả anh em ông Diệm lại hết sức tham nhũng, bóc lột, dĩ công vi tư, hối mại quyền thế.
Chức vụ Giám đốc An ninh Quân đội đối với tôi là một chức vụ bạc bẽo. Tôi vừa bị các sĩ quan tham nhũng, vừa bị các sĩ quan thuộc các đảng phái đối lập với chính phủ coi là kẻ “hung thần”, là “tay sai của chế độ”; trong lúc đó thì nhóm Cần Lao cũng coi tôi như kẻ thù chỉ vì tôi đã khinh bỉ ông Ngô Đình Cẩn ra mặt, tôi bất phục ông Ngô Đình Nhu, và tôi không bao giờ gặp mặt, khúm núm chầu hầu bà Cố vấn và Giám mục Ngô Đình Thục. Ngay các dịp lễ, Tết, cúng kỵ của họ Ngô, hầu hết nhân viên cao cấp của chính phủ và nhiều tướng tá ra Phú Cam để chầu hầu, ngoại trừ tôi. Tôi bị toàn thể anh em ông Diệm coi như cái gai phải nhổ, nhóm Cần Lao xem như kẻ thù nên nhất cử nhất động của tôi đều thường bị Cần Lao báo cáo lại cho ông Nhu. Nếu không có ông Diệm bênh vực và thông cảm thì có lẽ tôi đã vào tù hay bị mưu hại từ lâu rồi.
Cho đến cuối năm 1958 và còn kéo dài thêm một năm nữa, chế độ Ngô Đình Diệm quả thật đã bước vào giai đoạn cực thịnh. Dù riêng cá nhân tôi có một thời gian bị bạc đãi, dù mầm mống độc tài đã bắt đầu xuất hiện, dù lực lượng Cần Lao tàn độc đã manh nha khống chế sinh hoạt chính trị, và cuối cùng, dù nền dân chủ tối cần thiết để xây dựng sinh lực lâu dài cho quốc gia không được thực thi, nhưng những thành quả của chế độ trên mặt ngoại giao, kinh tế và xã hội cũng đã là những khích lệ lớn cho quần chúng tiếp tục tin tưởng ông Diệm, tiếp tục nhắm mắt bỏ qua những tội lỗi mà chế độ đã phạm phải.
Nhưng những căn bệnh ấu trĩ của nền dân chủ này lại có sức tàn phá độc hại khốc liệt sau này vì thành phần lãnh đạo đã không xem đó như những lỗi lầm cần sửa chữa ngay, trái lại anh em ông Diệm lại tin tưởng mãnh liệt rằng đàn áp đối lập, khuynh loát quân đội, áp bức chính trị, trung ương tập quyền vào gia đình và phe nhóm là những sách lược hiệu dụng để chống Cộng và bảo vệ quốc gia. Họ không biết rằng để đối đầu với Cộng sản, sách lược trường kỳ và bảo đảm nhất là phát triển và khai dụng sinh lực của dân tộc, một nguồn sinh lực chỉ được khơi dậy bằng một sinh hoạt dân chủ, bằng đoàn kết dân tộc, nhất là trên mặt chính trị và đặc biệt trong giai đoạn qua phân đó của đất nước.
Mỹ có yểm trợ, Cộng sản Hà Nội có đe dọa, đảng Cần Lao có là bức tường đồng của chế độ thì cũng chưa đủ để bảo vệ chế độ chứ đứng nói đến bảo vệ miền Nam. Nếu không muốn nói rằng chính những yếu tố đó lại phá nát lực lượng quần chúng, tạo mâu thuẫn giữa chính quyền và nhân dân, giữa bộ phận dân tộc này với bộ phận dân tộc khác.
Từ năm 1956 đến 1958, say sưa với những thành công ngoạn mục, lộng hành vì tấm lòng quảng đại của nhân dân, ông Diệm và chế độ gia đình trị của ông đứng trước bờ vực thẳm của lịch sử mà không biết, để từ đó về sau trở thành những kẻ đại tội làm vẫn đục chánh nghĩa dân tộc và làm suy nhược sức mạnh của miền Nam.
Chú thích:
[1] Đào Trinh Nhất, Phan Đình Phùng, trong tạp chí “Việt Nam Hải Ngoại” (số 137), tr. 115
[2] Malachi Martin, The Decline and Fall of The Roman Church, tr. 88.
[3] Thư của cụ Huỳnh Minh Ý gửi cho tác giả.
[4] Nguyễn Thái, Is South Vietnam Viable? Tr. 178.
[5] Nguyễn Thái, Is South Vietnam Viable? Tr. 181.
[6] Nguyễn Thái, Is South Vietnam Viable? Tr. 189.
[7] Hilaire Du Berrier, Background to Betrayal, tr. 92.
[8] Stanley Karnow, Vietnam A History, tr. 267.
[9] Marvin E. Gettleman, Vietnam History, Documents and Opinions, tr. 242.
[10] Tạ Chí Đại Trường, Lịch Sử Nội Chiến Việt Nam, và “Sổ Tay Văn Hóa” - s.đ.d. - tr. 138.
[11]Edward Lansdale, In The Midst of War, tr. 307.
[12] Trần văn Đôn, Our Endless War, tr. 60.