Dịch giả: Hà Trung Khâm
- 2 -

Người quản quầy rượu lại đóng vai trò mình.
- Tôi mừng là ông cụ không nhận chai bia ông mời. Vào khoảng giờ này buổi tối, tôi bắt buộc không bán cho cụ nữa. Vì có lần cụ đã tính bỏ rượu.
Tallant đặt chai bia đã hết của mình tới trước:
- Hy vọng là tôi đã không làm cụ sợ.
- Sợ! Thôi được đúng là ông đã làm ông cụ sợ đấy. Làm sao mà cụ dám nhận mời uống bia của người đến từ 'Nhà xưa Carker’ kia chứ. Theo mấy cụ đã ở đây lâu, uống như vậy là một trò cười.
Tallant cũng cười:
- Có phải nhà đó bị ma ám không?
- Không có chuyện ông mới nhắc là bị ma ám. Chẳng có con ma nào ở đó cả.
Ông ta lau mặt quầy bằng một nùi giẻ, như thể muốn bỏ đề tài này đi.
Ông trung sĩ phi hành bỏ chai cô ca xuống, lục túi tìm vài đồng bạc cắc. Ông bước sang chiếc máy bắn banh.
Cậu thanh niên trẻ nhoài lên cái ghế trống.
- Hy vọng già Jake không làm ông buồn.
Tallant cười vui:
- Tôi nghĩ rằng thành phố nào mà chẳng có những căn nhà hoang, được thêu dệt chuyện ma quái. Nhưng căn nhà ở đây lại hơi khác: không có ma, chúng lại đớp nữa. Anh có biết chuyện gì về nó không?
Cậu thanh niên nói ra vẻ quan trọng:
- Biết chút ít. Đủ để…
Tallant cố làm ra vẻ háo hức tò mò:
- Mời anh một chai và nói cho tôi nghe những gì anh biết.
Ông trung sĩ phi hành rủa cái máy đánh bạc một cách cay đắng.
Cậu thành niên nốc vài ngụm bia qua chòm râu, rồi bắt đầu:
- Sa mạc ở đây quá lớn, ông không thể ở đó một mình được đâu. Có bao giờ ông nhận thấy vậy không. Sa mạc trống lốc, trong tầm mắt chẳng có cái gì. Nhưng ở đó luôn có cái gì đó di động mà ta không thể thấy. Đó là một vật khô, tong teo và nâu, khi ông chú ý đi tìm lại không thấy. Ông đã thoáng thấy nó bao giờ chưa?
- Có thể là do thị giác mệt mỏi.
- Tôi biết là ông sẽ nói vậy. Mỗi người có cách giải thích cái chuyện hoang đường riêng. Chẳng có bộ lạc da đỏ nào không có những vật kỳ bí. Ông có nghe nói 'Ma xó' chưa? Vào thế kỷ hai mươi, người da trắng đến và cho là do mệt mỏi thần kinh thị giác, trông gà hóa cuốc. Nhưng vào thế kỷ mười chín thì có 'ma xó' thật. Còn có lũ Carkers nữa.
- Anh nói chuyện ma quái đó ở một địa phương nhất định.
- Cứ coi là vậy đi. Ông thoáng thấy vật nào đó trong trí óc giống như ông thoáng thấy những vật tong teo, khô đét qua khóe mắt. Ông đóng khung chúng vào một tình huống nhất định. Như vậy có gì tệ hại đâu. Điều đó người ta gọi là sự Mọc Lên Chuyện Truyền Thuyết, là ý thức Dân Gian Tác Động. Ông lấy chuyện lũ Carkers gắn vào với những sự vật ông không thấy rõ. Và chúng đớp.
Tallant không biết bộ râu của thanh niên này đã hút bia bao lâu rồi. Anh gợi chuyện:
- Và lũ Carkers là cái gì?
- Ông có nghe chuyện Sawney Bean ở Scotland chưa? Dưới trào James I hay James VI, tôi nghĩ tác giả truyện cổ Roughead lần này đã lầm. Hay lấy một ví dụ cận đại nhất. Ông có nghe chuyện Benders ở Kansas, thập niên 1870 chưa? Chưa phải không? Vậy thì có nghe chuyện Procrustes? Hay Polyphemus? Hay Freefifofum?
Có ba-bị, ông biết đó. Ba-bị không phải là hoang đường, chúng có thật. Một cãi lữ quán, cứ mười người khách vào thì chỉ có chín người ra. Một cái lán bằng gỗ trên núi để khách qua đường tránh tuyết; mùa xuân đến, tuyết tan, mới phát hiện xương của họ; một khúc đường vắng nhiều khách bộ hành chỉ đi được nữa đường... ông có thể tìm thấy những chuyện tương tự ở khắp nơi, ở khắp châu âu và rất nhiều trên đất nước này, trước khi có nhiều phương tiện đi lại, liên lạc như ngày nay. Một công việc đem lại rất nhiều lợi lộc. Nhưng không chỉ có lợi lộc đâu. Quán của bọn Benders kiếm được nhiều tiền thì hẳn rồi, nhưng tại sao chúng phải giết người cẩn thận tỉ mỉ như tên đồ tể (kosher) giết thịt theo đạo Do thái qui định. Sawney Bean cũng giết người, nhưng không để ý đến tiền, hắn chỉ cần có thêm thịt trong mùa Đông. Và ông thử nghĩ tới dịp may của ông có được trong một sa mạc.
- Vậy thì lũ Carkers mà anh nói tới là những ba-bị?
- Carkers, ba-bị... có lẽ họ giống như bọn Benders. Ông biết đó, chưa ai thấy bọn Benders sống bao giờ. Sau khi dân thành phố ở Kansas phát hiện các xác chết bị lóc thịt một cách khác thường, có tin đồn là chúng đã di chuyển sang miền viễn Tây này. Người ta đã kiểm tra từng thời điểm rất kỹ. Không có thành phố viễn Tây nào ở trong tình trạng của bang Kansas hồi thập niên 80. Chỉ còn vài gia đình cuối cùng, của một bộ tộc da đỏ, sống ở ốc đảo này. Rồi những gia đình này cũng biến mất, khi lũ Carkers vào ốc đảo. Điều này thì còn gì nữa mà ngạc nhiên. Giống dân da trắng dẫu sao cũng là siêu-ba-bị mà. Chuyện dân da đỏ chết thì chẳng ai bận tâm, nhưng họ lại thắc mắc tại sao nhiều khách lữ hành không vượt qua khỏi dải sa mạc này. Các lữ khách thường nghĩ trọ ở lữ quán Carkers. Ông biết không, vì lý do nào đó họ không còn đi xa hơn được (không đến được địa chỉ định đến). Xe bò của họ, xe hơi của họ có thể tìm thấy cách đây mười lăm dặm trong sa mạc. Đôi khi còn tìm thấy nắm xương trắng của họ, hầu như bị gặm nhấm nham nhở.
- Vậy mà chẳng có ai làm một việc gì với lũ Carkers à?
- Ồ, có chứ. Không có vua James VI - tôi vẫn nghĩ là James I - cưỡi trên một con ngựa trắng lớn, đến đây cho qua chuyện đâu. Mà đã hai lần quân đội được phái đến quét sạch bọn họ.
Tallant mỉm cười:
- Hai lần cơ à? Chỉ quét một lần thôi cũng đã giúp cho nhiều gia đình.
- Vâng. Không phải chỉ nói mép. Họ đã quét lũ Carkers hai lần. Như ông thấy đấy, một lần chẳng ăn thua gì. Lính đã quét sạch họ, nhưng vẫn còn lữ khách biến mất, vẫn còn xương người bị nhai, nên quân đội lại phải tảo thanh lần nữa. Sau đó thì bộ đội lại bỏ mặc. Lữ khách tránh ốc đảo này, tuy hành trình xa hơn, vất vả hơn, nhưng dẫu sao...
Tallant cười lớn:
- Nói như anh thì lũ Carkers này bất tử?
- Tôi không biết có gì bất tử không, nhưng lũ ấy không chết dễ dàng. Nếu chúng là bọn Benders - tôi vẫn nghĩ chính là chúng - có lẽ càng ngày chúng càng rút được nhiều kinh nghiệm về việc chúng làm ở sa mạc này. Có thể chúng phối hợp những hiểu biết của người da đỏ và những điều chúng biết, và chúng thành công. Không biết chúng phải hiến tế những gì và xem ra chúng hiểu cái hình nhân linh vật ấy hơn ở Kansas.
- Và những linh vật ấy làm những gì, ngoài việc ta chỉ thoáng thấy chúng ở khóe mắt?
- Từ sau hai vụ càn quét lũ Carkers, và nhóm cư dân mới ở ốc đảo này, đã bốn mươi năm rồi. Và dân chúng càng ít nói tới lũ Carkers hơn, so với những năm đầu định cư. Có điều họ tránh bén mảng đến ‘ngôi nhà xưa Carker’. Họ chỉ còn nói vài chuyện. Linh mục xứ đạo kể, vào một buổi chiều thứ Bảy sáng bức, ông nghĩ rằng đã có một người quì xưng tội. Cha đợi một lúc lâu,. sau đó vén bức màn che ngăn cách xem có ai không. Có một con gì ở ngoài và nó đã đớp ông. Nó đớp mất ba ngón tay trên bàn tay phải của cha, và trông thật tức cười khi cha giơ tay lên ban phép lành.
Tallant đặt hai vỏ chai bia trước mặt quản quầy,
- Kể chuyện này, bạn thanh niên đáng hưởng một chai nữa. Đồng ý không, chủ quầy? Anh ấy có luôn vui chuyện như vậy không, hay anh ấy mới sáng tác chuyện này để khuyên tôi?
Người phục vụ quầy đặt thêm hai chai mới, ra vẻ trịnh trọng:
- Tôi ấy à, tôi sẽ không kể chuyện này cho ông như vậy. Chính anh này cũng là người mới tới, không cảm nhận sự việc như chúng tôi. Với anh ta, sự việc chỉ còn như một câu chuyện cổ.
Anh thanh niên có râu tu một hơi bia dài.
- Cứ coi như vậy sẽ dễ chịu hơn.
Người phục vụ thêm:
- Ông đã nghe chuyện này, cũng nên nghe thêm vài chuyện ngộ nghĩnh vào mùa Đông. Bầy chó sói vào lán gỗ của người thăm dò địa chất chỉ để sưởi ấm thôi. Cũng như việc làm ăn của tôi không khá vào mùa Đông. Tôi không có giấy phép bán rượu mạnh, các thanh niên lại không thích uống nhiều bia khi trời lạnh. Nhưng dẫu sao họ vẫn cứ tới tụ điểm này vì có cái lò sưởi đốt dầu hôi to đùng kia.
Một đêm nọ, họ tụ tập khá đông ở đây, có cả cụ Jake mà ông đã nói chuyện với đó, cả con chó Jigger của cụ nữa. Lúc đó, tôi cảm thấy như có ai vào quán, cửa hơi hé mở nhưng tôi chẳng thấy ai. Bàn xì phé vẫn tiếp tục chơi, chúng tôi vẫn tán gẫu như chúng ta bây giờ đây. Thình lình tôi nghe một tiếng 'rắc!' ở góc kia, chỗ máy hát, sau lò sưởi.
Tôi bước đến xem chuyện gì, linh vật đã đi ra, tôi không nhìn được rõ. Cái hình nhân bé tẹo, gầy tong teo, không có quần áo. Đêm đó lại lạnh khủng khiếp.
Tallant chộp đúng chỗ để hỏi:
- Nhưng tiếng 'rắc' đó là cái gì?
- Cái đó à, cái xương! Nó đã xiết cổ con Jigger không một tiếng kêu. Nó chỉ là con chó nhỏ, linh vật đã ăn hết một phần thịt. Nếu nó không cắn vỡ xương để hút tủy, nó đã ăn hết rồi. Ông có thể nhìn thấy dấu vết ở bên đó. Cái vết máu không hề phai nhạt đi.
Khi chủ quầy kể chuyện này, quán im lặng như tờ. Nhưng khi hết chuyện, quán ồn ào như địa ngục dấy lên. Ông trung sĩ phi hành thét lên một tiếng ai oán, chỉ trỏ điên loạn cái máy đánh bạc. Đòi nó trả số tiền ông đã thua nhẵn túi. Người công nhân xây dựng đùng đùng đứng dậy khỏi bàn phé, làm đổ ghế cái rầm, to tiếng tố cáo những người cùng chơi thông đồng gian lận.
- Lũ bịp bợm! Các ông coi…
Bầu không khí kinh hoàng do Carker gây ra, bao giờ cũng hoảng loạn, trác táng.
Tallant, miệng huýt sáo, bước qua góc, nhét đồng xu vào máy hát. Anh vờ như vô tình nhìn thấy vết máu dưới sàn để đánh giá tình hình. Anh mỉm cười thích chí, cảm thấy phải cảm ơn lũ Carker. Chúng sẽ giúp anh giải quyết gọn nhẹ vụ bắt bí của Morgan.