Biên dịch: Nguyễn Lư Trần Gia Anh
Chương 4
Nghiện Cải Trang Và Tệ Đồng Cô Đồng Cậu

Chứng nghiện cải trang và đồng cô đồng cậu là hai loại biến tướng tình dục có liên hệ với nhau và phân biệt khác nhau. Nghiện cải trang không phải là những người thỉnh thoảng lại ăn mặc giả như người khác giới hoặc ăn mặc giả khác giới trong khi diễn kịch, vui chơi giải trí mà là những người đã thành thói quen ăn mặc khác giới và từ đó cảm thấy hưng phấn tình dục. Người thực sự nghiện cải trang chỉ là nam giới.
Người đồng cô đồng cậu đôi khi cũng ăn mặc khác giới nhưng tính chất biến tướng tâm lý của họ khác với người nghiện cải trang. Người nghiện cải trang tuy thích mặc quần áo nữ nhưng vẫn nhận thức mình là nam giới, quần áo nữ chỉ là đối tượng để họ được thỏa mãn tình dục. Còn đồng cô (nam) thì lại cứ cho mình là nữ nên họ phải ăn mặc như nữ. Có đồng cô (nam làm như nữ) và đồng cậu (nữ làm như nam), phát dục của họ bình thường nhưng họ lại cứ coi mình là người khác giới bất kể bộ phận sinh dục của họ không phải như vậy. Họ mô phỏng cách ăn mặc, cử chỉ, hành vi của người khác giới và cảm thấy được thoả mãn tình dục. Về mặt này họ khác với đồng tính luyến ái. Một số người đồng tính luyến ái cũng có một phần khí chất khác giới (ví dụ nam đồng tính luyến ái có một chút nữ tính) nhưng họ vẫn nhận thức rõ mình là nam giới, có hứng thú tình dục với nam giới. Còn đồng cô đồng cậu cũng có hứng thú tình dục với người cùng giới nhưng với tiền đề họ đã trở thành người khác giới. Để thực hiện nguyện vọng này có khi họ đã dùng phẫu thuật hoặc kích thích tố giới tính để khiến bản thân có đặc trưng khác giới.
Các đồng cô (vốn là nam) ăn mặc quần áo nữ, đeo nịt vú, tô môi son, uốn tóc đi nghênh ngang ngoài đường không phải là nhiều. Phần lớn bọn họ đều thích ở nhà, ăn mặc khác giới, trang điểm vụng trộm, qua đó được thoả mãn tình dục. Thoả mãn này có thể là về tâm lý như soi gương tự ngắm mình, thương thân tủi phận, mà cũng có thể về sinh lý như nam mặc quần áo nữ (nhất là mặc đồ lót) rồi tự mình làm tình với mình. Phương thức làm thoả mãn tình dục của họ có khi rất kỳ quặc. Đôi khi họ cũng lấy trộm quần áo lót của phụ nữ giống như người nghiện tình dục qua vật thể.
Đồng cô đồng cậu nói chung không đi trộm cắp, không chui lủi lén lút như người nghiện cải trang. Họ tự cho mình là khác giới (nam tự cho mình là nữ, nữ tự cho mình là nam), chẳng có gì phải ngượng ngập không sợ người khác biết chuyện, trái lại họ cảm thấy nhục nhã nếu người khác không coi họ hoặc không công nhận họ là khác giới. Ví dụ, có một đồng cô sau khi tốt nghiệp đại học đã dành dụm vài tháng lương mua quần áo nữ và đồ mỹ phẩm nữ, xe đạp nữ, mỗi sáng ngủ dậy đều mất hơn tiếng đồng hồ trang điểm, mọi cử chỉ đều làm như nữ, từ xa đã ngửi thấy mùi nước hoa ở người anh ta toả ra thơm ngát. Anh ta đi đại tiểu tiện đều vào toa lét nữ. Tối hôm đó anh ta ra ngoài về nhà, bỗng bị một gã trai tráng vồ lấy định cưỡng dâm, nhưng rồi tên lưu manh đó đã thất vọng bỏ chạy. Anh đồng cô này đến đồn canh sát báo, khóc mếu nói trinh tiết của mình đã bị phá hoại. Một thời gian sau anh ta còn nói mình đã thụ thai, trình bày với bác sĩ, nói thấy rõ cái thai đang động đậy trong bụng, xin được phá thai.
Dung mạo, cử chỉ và cả tâm lý nữa đều đã triệt để dị tính hoá, đó là điều thường thấy ở đồng cô đồng cậu. Phát triển tới mức cực đoan họ có thể yêu cầu làm thay đổi giới tính. Ở phương Tây loại phẫu thuật này rất thịnh hành, theo thống kê ở liên bang Đức đã có trên 6000 thanh niên xin được làm phẫu thuật thay đổi giới tính. Một nhà sinh lý học kiêm tâm lý học nổi tiếng Đức đã mở phòng khám thay đổi giới tính. Phẫu thuật của ông rất tài tình, khách hàng kéo đến đông như kiến, hàng ngày có tới trên chục thanh niên nam nữ đến yêu cầu quyết liệt xin làm phẫu thuật thay đổi giới tính, sẵn sàng trả thù lao hậu hĩnh. Một chàng trai muốn biến thành cô gái vì anh ta cảm thấy không chịu nổi cuộc cạnh tranh khốc liệt trong xã hội, thà biến thành một phụ nữ để khỏi phải đua chen. Một bác sĩ người Pháp tự làm phẫu thuật 6 tiếng đồng hồ biến mình thành nữ giới. Vì ở Pháp cấm làm phẫu thuật thay đổi giới tính nên anh ta phải sang làm ở ý. Anh ta nói biến thành phụ nữ để tâm tư được cân bằng, con gái anh ta gần đây còn gửi thiếp chúc mừng nhân ngày “các bà mẹ".
Tại học viện X của Trung Quốc cũng đã xảy ra một chuyện quái đản như vậy. Một giáo viên trẻ tuổi đã dùng lưỡi dao cạo râu cắt bỏ luôn tinh hoàn của mình, máu chảy đầm đìa, may có người mang đến bệnh viện cấp cứu tiếp cho 1500 cc máu và 800 cc huyết tương, 10 ngày sau mới ra viện. Sau này anh ta kể lại: "Lúc đó tôi không sợ gì hết, cắt xong thấy được thoả lòng, sinh ra một cảm giác vui sướng kỳ lạ, nhưng khi làm việc này có sơ ý một chút. Hiện nay tôi không có gì phải hối hận, cũng không sợ, không còn tâm trạng bối rối như xưa mà thấy thanh thản, yên lòng lắm”.
Đồng cô đồng cậu chiếm khoảng 1/10. 000 dân số, số nghiện cải trang còn đông hơn. Căn nguyên các chứng bệnh này đến nay vẫn chưa rõ nhưng chắc chắn có liên quan với ba mặt: di truyền sinh vật, tâm lý, hoàn cảnh sống. Có người dùng động vật làm thực nghiệm phát hiện thấy nếu tiêm kích thích tố nam nồng độ cao cho bào thai cái và phá hoại kích thích tố nam của bào thai đực thì sau khi ra khỏi bụng mẹ chúng sẽ có hành vi trái ngược với giới tính của bản thân. Nhà khoa học Kaln đã tiêm kích thích tố tinh hoàn của con đực vào 1 con khỉ đang mang thai, kết quả đã sinh ra một con khỉ cái có tính đực, bộ phận sinh dục của nó có cả hai đặc trưng đực cái. Những con khỉ cái này lớn lên nghịch ngợm hơn các con khỉ cái khác nhiều.
Ở con người cũng có tình hình tương tự. Thời thập kỷ 50 thế kỷ 20 một số phụ nữ mang thai đã điều trị bằng kích thích tố thụ thai đề phòng đẻ non hoặc xảy thai. Họ không ngờ cách điều trị đó đã mang lại một tác dụng phụ làm tăng vọt kích thích tổ nam, gây ảnh hưởng đến sự phát dục của thai nhi nữ. Những bé gái này ra đời có đặc điểm nam giới rõ ràng so với các bé gái bình thường. Chúng không thích chơi búp bê mà lại thích các đồ chơi cửa bé trai như ô tô, súng ống. Chúng còn thích nô đùa với các bé trai. Nếu bào thai nam bị ảnh hưởng mạnh của kích thích tố nữ thì chúng sẽ có đặc điểm nữ tính hóa. Những người có nhân tố di truyền này khi lớn lên sẽ dễ mắc chứng nghiện cải trang hoặc đồng cô đồng cậu.
Đại bộ phận người mắc hai chứng nói trên đều đã hình thành từ thuở nhỏ. Nói chung thân phận giới tính của con người được xác định rõ trước 3 tuổi. Trẻ con đâu có biết giới tính của mình, giới tính do bố mẹ hoặc xã hội chỉ định và sẽ nuôi dạy theo chỉ định đó, nếu nuôi một bé trai từ nhỏ theo cách như bé gái thì bé sẽ cảm thấy mình là nữ, có đặc trưng hành vi và tâm lý rất mạnh của nữ, nói giọng thanh, đi tiểu cũng không chịu đứng mà ngồi xuống. Nhà xã hội học Greem đã điều tra nghiên cứu 50 bé trai tuổi trung bình 7 tuổi phát dục sinh lý bình thường nhưng có hành vi nữ tính rõ và đó cũng là tính cách từ thời thơ ấu của một số người lớn có bệnh đồng cô đồng cậu. Ông kết luận ảnh hưởng của xã hội có tác dụng rất lớn đối với bệnh nghiện cải trang và đồng cô đồng cậu. Ta hãy tham khảo hai ví dụ sau đây của ông.
Moris thuở nhỏ được mẹ cưng chiều, ông bố không thích vì thấy cậu hay đùa nghịch với các bé gái, do đó cậu càng quyến luyến mẹ. Từ khi khôn lớn lên một chút, cậu thích nghịch quần áo, giầy dép của mẹ. Cậu còn tự trang điểm theo cách làm của mẹ. Cậu luôn luôn bám theo mẹ, kể cả khi tắm rửa. Khi nhìn thấy mẹ có kết cấu sinh lý khác giới với mình, cậu rất thất vọng. Buổi tối lên giường ngủ, cậu cứ tưởng tượng thấy không còn “chim" ở giữa hai đùi nữa, nó đã biến thành "bướm" của bé gái. Cậu cũng đã chiêm bao thấy như vậy. Sáng sớm ngủ dậy, cậu vội sờ ngay hạ bộ, cảm thấy buồn lắm, từ đó cậu thích mặc quần áo nữ, bà mẹ cũng không ngăn cấm. Ở trường học cậu không bao giờ chơi với bọn con trai mà toàn kết bạn với con gái. Khi lớn lên cậu đã làm phẫu thuật thay đổi giới tính. Cậu nói: "Khi mọi người coi tôi đúng là con gái, tôi vui lắm, rất thích thú. Tôi đã đi bước đầu tiên vào thế giới nữ".
Một ví dụ nữa là nói về cậu bé Rogers. Mẹ cậu mong đẻ con gái nhưng lại sinh ra cậu là con trai. Bà cho cậu ăn mặc như con gái từ thuở thơ ấu, cho đến khi học trung học phổ thông vẫn ăn mặc như vậy. Cậu biết nấu ăn, đan lát, thêu thùa như con gái. Năm 12 tuổi, cậu đang mặc quần áo nữ thì mường tượng đến tình dục và lơ mơ cảm thấy mình là con gái đang làm tình với con trai. Người nghiện cải trang thường có một căn nguyên rõ ràng khiến họ cảm thấy hưng phấn tình dục khi mặc quần áo nữ, không sao kiềm hãm được. Ví dụ có người nghiện cải trang nhìn thấy tranh của cảnh tượng làm tình của các cô gái mặc quần áo tắm nên bị kích thích mạnh và cũng mặc quần áo tắm của nữ rồi thủ dâm, hình thành thói quen. Có người nghiện cải trang đêm nằm mộng rồi di tinh là có liên quan với việc mặc quần áo nữ, dần dà hình thành thói quen.
Nhận thức không đúng về nhân sinh và xã hội cũng có thể gây tác dụng mạnh tới chứng bệnh nghiện cải trang và đồng cô đồng cậu. Ví dụ có cô gái bị kẻ côn đồ làm nhục nên có ý muốn mạnh mẽ trở thành đàn ông, thậm chí lắp bộ phận sinh dục đàn ông vào để trả thù. Về anh giáo viên trẻ tuổi cắt bỏ tinh hoàn của mình nói ở phần trên, bệnh của anh ta cũng có nhân tố về mặt này. Anh ta đã từng luyến ái cô bạn học có tính cách hướng nội, nhưng hai người chưa bao giờ ôm hôn nhau. Sau này không rõ tại sao cô lại bỏ rơi anh ta và kết bạn với một chàng nghiên cứu sinh tuấn tú. Từ đó anh giáo viên tự nhiên sinh ra ác cảm với tấm thân nam giới của mình. Bệnh nghiện cải trang dễ điều trị hơn bệnh đồng cô đồng cậu, dùng biện pháp gây chán ghét phần lớn đều có hiệu quả tốt. Bệnh đồng cô đồng cậu ngoan cố hơn, rất khó chữa, hiện nay vẫn chưa có thuốc đặc hiệu, biến pháp tâm lý cũng không có kết quả rõ, một số chuyên gia ngoài nước cho rằng nếu thực sự không chữa được thì thà làm phẫu thuật thay đổi giới tính sớm còn hơn, như vậy sẽ làm họ giảm bớt đau khổ về tâm lý và tiện cho việc bồi dưỡng nhân cách bình thường của họ.