Dịch giả: Vũ Trấn Thủ
Trần Phú Thuyết
Chương 9

Đavưđốp đi thong thả, nhưng dài bước. Lên tới đỉnh đồi anh dừng lại, ngắm nhìn dãy lán của đội vào giờ này vắng tanh vắng ngắt, nhìn cánh đồng đã cày thoải ra trên sườn bên kia hầu như tới tận chân trời. Những ngày qua anh đã làm tận lực, khỏi nói, và mong rằng cả cô Varia lẫn cặp bò của Kônđrát không giận vì anh đã bắt làm chí chết… Đến tháng Mười ra nhìn cánh đồng này thì vui mắt phải biết: những bụi lúa mì đông xanh rờn sẽ ken dày đặc khắp cả, sương giá ban mai sẽ rắc vẩy bạc lên chúng, và đến giữa trưa, khi mặt trời lơ lửng chênh chếch trên bầu trời xanh nhạt đã toả nắng ấm, cánh đồng sẽ long lanh đủ ngũ sắc cầu vồng, tưởng đâu như vừa sau một trận mưa rào, và mỗi giọt sương sẽ phản chiếu trong nó cả cái bầu trời thu lạnh lẽo, cả những đám mây trắng mịn như lông tơ và cả vầng mặt trời mờ dịu…
Đứng đây, nhìn từ xa, cánh đồng với một đường viền cỏ xanh nom như một tấm thảm nhung đen trải rộng. Duy chỉ ở rìa phía bác, nơi đất á sét dâng lên sát mặt ruộng, là có một vệt nâu nhấp nhô điểm những mảng xém hung hung đỏ. Dọc các luống, loang loáng những tảng đất đen bị lưỡi cày lật lên và miết nhẵn; trên trời mấy con quạ đang chao lượn; và trên nền đen của cánh ruộng hiện ra một vệt xanh xanh, nom như một bông hoa điểm tuyết lẻ loi, đó là Varia Kharlamôva, đầu rũ xuống, đang lững thững lê bước về lán, quẳng lại đó một công việc lúc này đối với cô không còn tí lý thú gì nữa. Và trên một luống cày, Maiđanhikốp ngồi lẳng lặng hút thuốc. Không có người dắt bò thì anh còn việc gì để làm nữa, bó tay bất lực trước đôi bò đang bị một đám ruồi trâu lăn xả vào tấn công.
Trông thấy Đavưđốp dừng chân lưng đồi, Varia cũng dừng lại, nhanh nhẹn tháo tấm khăn vuông ra khẽ vẫy anh. Cái vẫy gọi ấy lặng lẽ và rụt rè đó làm anh phải mỉm cười. Anh cầm mũ kêpi vẫy đáp, rồi bước đi không ngoái lại. Anh vừa đi vừa nghĩ lan man:
“Con bé ngang quá! Xinh thì xinh thật, nhưng được nuông quen thân rồi, và ngang như cua. Nhưng trên đời này có đứa con gái nào mà lại không được nuông nhỉ? Đến cái mức không sinh ra điệu tí tỉnh? Những loại như thế cả đời mình chưa hề gặp, cũng như chưa hề nằm mơ thấy bao giờ… Các cô nàng xinh đẹp ấy, hễ cứ ngấp nghé mười sáu mười bảy là y như rằng bắt đầu làm đỏm làm dáng đủ trò, đem anh em ta ra sẽ sàng thử sức mạnh quyến rũ của họ, ối giào ơi, thực tế thế! Đấy như cô ả Varia hẩm hiu kia đang định cưa ta đấy, để trổ tài mà! Nhưng em ơi, đừng hòng, lính thuỷ Bantích đây, đâu phải bỡn! Nhưng cô ả đi về xe lều làm gì thế nhỉ? Thủng thà thủng thỉnh thế kia có nghĩa không phải Kônđrát sai về có việc, mà là tự tiện bỏ về, cái kiểu con gái chơi chướng. Hay là vì không có mặt mình ở đội nữa chăng? À, nếu như thế thì bậy quá đấy và là một sự trắng trợn vi phạm kỷ luật lao động! Nếu như cô ả đi có lý do chính đáng thì được thôi, xin mời, còn nếu là hứng lên mà đi thì đến cuộc họp đội, phải cạo ngay cho một trận, trẻ cũng mặc, xinh cũng mặc! Việc cày bừa đồng áng đâu phải trò chơi đu và xin cô em hãy làm ăn tử tế cho tôi nhờ”, - Đavưđốp nghĩ đến đó đã cảm thấy nóng gáy.
Lúc này anh có một cảm giác hay đáo để, trong lòng như xẻ làm đôi: một mặt anh bực mình với cái lối tự tiện vô kỷ luật của Varia, nhưng mặt khác anh cũng thấy khoan khoái vì có người con gái đã bỏ công bỏ việc vì anh…
Anh nhớ đến một anh bạn ở Lêningrát của mình, cũng là dân lính thuỷ cũ, cứ mỗi lần bắt đầu tán cô nào là lại kéo anh ra một chỗ, bí mật thì thà thì thào vào tai anh, cố ra vẻ nói như thật: “Xêmiôn ơi, mình tiến vào tiếp cận địch đây. Trong trường hợp mình gặp khó khăn, cậu hãy bắn tạt sườn chi viện cho mình, còn nếu như mình địch không nổi thì cậu chịu khó yểm trợ cho cuộc rút lui nhục nhã của mình”. Nhớ lại chuyện cũ xa xôi ấy anh mỉm cười, và liền theo đó nghĩ bụng: “Không, cái “quân địch” Varia kia thì mình “tiếp cận” làm quái gì cho mệt. Tuổi tác khác nhau, quân chủng khác nhau… Vả lại, mình mà bám nó thì thế nào bà con nông trang viên cũng sẽ kháo nhau ngay rằng mình có thiên hướng đặc biệt với giới phụ nữ. Thiên hướng cái con khỉ gì khi có độc một ả Luska kia mà mình cũng cóc biết làm cách nào rũ ra được. Không, một con bé dễ thương như Varia thì chỉ có thể yêu một cách nghiêm chỉnh, chứ đùa với nó thôi thì lương tâm mình không cho phép. Nó là một đứa thật là trong sáng, cứ như buổi bình minh một ngày đẹp trời, nó nhìn mình với đôi mắt thật là thanh khiết… Mà yêu một cách nghiêm chỉnh thì mình có được học tập gì đâu, có biết mô tê gì đâu, vậy thì lung lạc con bé ấy làm gì cho khổ thân nó. Thôi, anh lính thuỷ Đavưđốp ơi, nhổ neo đi, cao chạy xa bay đi thôi!... Và nói chung, mình nên xa nó đi. Cần lựa lời giải thích cho nó, để nó khỏi tự ái, rồi.. phăng teo”, - Đavưđốp quyết định như vậy và bất giác thở dài.
Nghĩ làn man về cuộc sống khá khắc khổ của mình ở Grêmiatsi Lốc, về những nhiệm vụ mà đồng chí bí thư mới của huyện uỷ đã đặt ra cho anh, đầu óc anh lại quay trở lại chuyện Luska: “Cái nút ấy làm thế nào gỡ cho khỏi đau được nhỉ? Cái cậu Maka nhà ta nói thế mà chí lý: tay không cởi được, răng không cởi được, thì phải chặt! Mả mẹ nó, cái chuyện rắc rối thật! Cắt đứt với cô ả thì sẽ gay cho mình lắm đó. Nhưng sao lại thế nhỉ? Tại sao Maka coi cứ nhẹ như lông hồng, mà mình thì lại gay? Mình thiếu nghị lực chăng? Chẳng có lẽ! Và biết đâu đối với Maka cũng chẳng phải là dễ dàng, chỉ là vì anh ấy không để lộ ra mà thôi. Chắc thế, lòng vả cũng như lòng sung, nhưng Maka biết giấu nỗi đau khổ của mình, còn mình thì không, mình chịu. Đó, tất cả vấn đề là ở chỗ ấy đó”.
Đavưđốp đi đã được một quãng đường dài từ lúc nào chẳng hay. Anh ngả lưng dưới bóng một bụi sơn trà bên lề đường nằm nghỉ và làm một điếu thuốc. Anh nghẫm nghĩ hồi lâu, cân nhắc xem đứa nào đã bắn Nagunốp, nhưng rồi anh hậm hực gạt phăng đi mọi điều phỏng đoán: “Chả cần có chuyện bắn trộm ấy cũng thừa biết là sau khi đánh đổ bọn kulắc, trong làng vẫn còn một bọn chó chết. Mình sẽ gặp Maka, nghe cậu ấy kể đầu đuôi, lúc ấy vấn đề có lẽ sẽ rõ ra là thế nào, vậy hơi đâu mà nát óc vô ích”.
Anh bỏ đường cái, rẽ tắt đâm thẳng qua đồng cỏ hoang. Nhưng đi chưa được nửa cây số thì bỗng thấy như vừa vượt qua một đường ranh giới vô hình, bước sang một thế giới khác: cỏ dại không xào xạc đập vào ống giày ủng của anh nữa, bốn bề hoa đồng đã biến đâu mất sạch, không còn phô màu nữa, hương nồng của mọi loại hoa thơm cỏ dại đã tan biến, và thảo nguyên trần trụi, xám xịt, ảm đạm trải dài ra trước mắt anh.
Cái mảnh đất hoang dại như vừa trải qua một trận hoả hoạn tàn phá ấy, nom nó tang tóc đến nỗi Đavưđốp cảm thấy trong bụng nao nao. Nhìn quanh một vòng, anh hiểu rằng mình vừa bước ra phía đỉnh “Lũng chó sói”, tới cái giải đất hoang mà một lần Iakốp Lukits có nhắc tới trong một cuộc họp ban quản trị: “Ở vùng Cápcadơ, Chúa đã nặn ra toàn những núi là núi để làm gì chẳng biết, mặt đất chỗ nào cũng lổn nhổn những u bướu thổ tả, người cũng chịu, ngựa cũng chịu, không lèn chân qua được. Và sao Chúa lại chơi khăm chúng ta, nghĩa là bà con kô-dắc Grêmiatsi chúng ta như vậy, tôi thật chẳng hiểu. Gần năm trăm đêxiachin đất tốt đã bị Chúa làm cho chua mặn đến nỗi từ thuở khai thiên lập địa đến nay cấm có cày, cấm có gieo được cái gì. Mùa xuân có thể thả súc vật ra đó được, nhưng chỉ được mấy bữa thôi, rồi sau đó cứ nhổ toẹt vào cái đất khốn khổ khốn nạn ấy, đừng mò ra nữa làm gì mất công, cho đến tận mùa xuân sang năm. Tất cả ích lợi của nó chỉ có thế này đây thôi: nó nuôi đàn cừu Grêmiatsi được nửa tháng với mức vừa đủ để khỏi chết đói, rồi sau đó nó chỉ còn là một ô trên bản đồ địa chính của chúng ta và làm nơi trú ngụ của đủ loại thằn lằn rắn rết”.
Đavưđốp chậm bước lại, vòng tránh những mô đất mặn, bước qua nhưng hố sâu do móng bò, móng cừu đào xuống, những cái hố mà miệng đã bị những cái lưỡi ram ráp của đám cừu, bò liếm nhẵn bóng, và đất ở thành hố xám từa tựa màu xám của viên đá hoa cương.
Giải thảo nguyên ảm đạm ấy kéo dài khoảng năm cây số tới tận “Khe ướt”. Nó bàng bạc màu xám nhờ nhờ của những bụi cỏ dại, màu đất mặn khô cằn và nứt nẻ dưới ánh mặt trời, nó bốc lên những làn hơi rung rinh và nó thở ra cái hơi nóng hầm hập của buổi giữa trưa. Nhưng ngay cả ở đây, trên mảnh đất cằn cỗi này, sự sống vĩnh hằng vẫn ngự trị: dưới bước chân đi của Đavưđốp chốc chốc lại tanh tách bay vù lên những chú cào cào cánh đỏ; những ả thằn lằn xám màu đất lặng lẽ bò đi; chuột đồng kêu chin chít báo động cho nhau; một chú diều hâu lượn là là mặt đất, hoà mình vào những bụi cây vũ mao và tròng trành đôi cánh ở những khúc liệng; những ả sơn ca nhẹ dạ tin người thản nhiên để cho Đavưđốp tới sát mới cất cánh, vẻ như miễn cưỡng, rồi bay vút lên cao, chìm đi trong màn khói màu xanh sữa của bầu trời không gợn bóng mây, và từ trên cao đó rót xuống tiếng hót không bao giờ cạn của chúng, nghe nhỏ đi, nhưng êm ái hơn.
Sắp sang xuân, khi tuyết bắt đầu tan loang lổ từng đám, đàn chim sơn ca lại bay về cái mảnh đất cằn cỗi và không hiểu sao lại được chúng ưa thích này, xây tổ bằng những cọng cỏ mục lứa năm ngoái, sinh con đẻ cái, và từ đó cho đến giữa thu, chúng làm thảo nguyên tươi vui lên bằng tiếng hót của chúng, tiếng hót mộc mạc nhưng đối với con người là thân tình ngay từ những ngày thơ ấu. Đavưđốp suýt xéo phải một trong những tổ chim đan rất khéo trong lòng một hố chân ngựa. Anh giật mình rụt cẳng lại, cúi xuống nhìn. Thì ra là một tổ cũ đã bỏ, xung quanh vương vãi những chiếc lông chim tí xíu dính bết lại vì nước mưa, những mảnh vỏ trứng vỡ nho nhỏ.
“Con mẹ đã tha con đi đâu rồi. Giá được xem mấy chú sơn ca con thì cũng hay đấy chứ nhỉ! Mình chả nhớ, không biết hồi bé mình đã được xem lần nào chưa, - Đavưđốp nghĩ bụng. Và anh buồn rầu nhếch mép cười: - con chim tí tẹo nào cũng xây tổ, sinh con đẻ cái, còn mình thì cứ khấp khểnh cuộc đời độc thân đã gần bốn chục năm trời, và cũng chẳng biết liệu mình có được trông thấy mặt con mặt cái không… Về già mình mới lấy vợ hay sao?”.
Đavưđốp bật cười ra tiếng, thoáng mường tượng cái cảnh mình là một ông chồng khệ nệ đứng đắn, cặp kè một bà vợ phì nộn, kiểu bà cấp dưỡng Đaria Kuprianốpna, với một đàn con lúc nhúc lớn bé đủ các tuổi. Anh đã từng nhìn thấy những tấm ảnh gia đình như vậy bày ở tủ kính các hiệu ảnh tỉnh lẻ. Cái ý nghĩ lấy vợ vừa bất chợt nảy ra trong đầu óc anh, anh thấy nó buồn cười và ngô nghê quá nên anh chỉ khoát tay một cái và rảo bước về làng.

Đavưđốp không đi về nhà mà đi thẳng đến trụ sở nông trang. Anh nóng ruột muốn hỏi cho rõ chuyện đã xảy ra với Nagunốp.
Sân trụ sở rộng thênh thang cỏ mọc loăn xoăn lúc này vắng tanh vắng ngắt, chỉ có mấy con gà mái nhà hàng xóm đang uể oải bới bới đống phân bên chuồng ngựa, và con dê, không hiểu sao lại được đặt tên là con Tơrôphim, đang đứng lặng dưới mái hiên kho, trâm ngâm như một ông già. Thấy Đavưđốp tới, nó hoạt lên, hiên ngang vểnh bộ râu dê, giậm chân tại chỗ mấy cái rồi nhong nhong lao lên phía trước. Nửa đường nó cúi đầu xuống, ngỏng cái đuôi chổi sể cũn cỡn lên với một thái độ hiếu chiến, và chuyển sang phi nước đại. Ý đồ của nó lộ liễu quá làm cho Đavưđốp phải mỉm cười dừng lại trong tư thế sẵn sàng ứng chiến cái tên gây gổ dài râu ấy.
- Đón ông chủ tịch kiểu thế à? Giày tây ông đá phốc cho một cái bây giờ, con quỷ già! – Đavưđốp cười nói, và nhanh tay tóm lấy cái sừng khía xoáy trôn ốc của con dê. – Nào, bây giờ ta vào trụ sở thanh toán với nhau chuyện này, anh bạn nối khố của bác Suka ạ, anh là dân vô công rồi nghề chuyên môn đi cà khịa!
Con Tơrôphim tỏ ra thái độ hoàn toàn quy phục: nó ngoan ngoãn lon ton chạy bên Đavưđốp, chỉ thỉnh thoảng lúc lắc cái đầu, cố gỡ sừng ra một cách từ tốn. Nhưng tới bậc đầu tiên bước lên thềm, nó kiên quyết đu cả bốn chân kìm lại, và khi Đavưđốp cũng dừng lại, nó tin cậy vươn cổ về phía anh, hít hít đánh hơi túi áo, đôi môi xám ngoét mấp ma mấp máy nom đến ngộ nghĩnh.
Đavưđốp lắc đầu chê và mắng mỏ nó, cố sao cho giọng mình có sức biểu cảm cao nhất:
- Ê, cái con Tơrôphim này! Già nua tuổi tác rồi, lại là nông trang viên về hưu nữa, nói thế không ngoa đâu, thế mà vẫn chứng nào tật nấy, chuyên môn đi gây sự, và gây sự không xong thì xoay ra ăn mày mẩu bánh. Xấu lắm, dơ dáng ấy nữa chứ, thực tế thế! Nào, mày hít hít cái gì?
Đavưđốp móc ra một mẩu bánh mì ỉu nằm trong đáy túi, dưới túi thuốc và bao diêm, phủi sạch những vụn thuốc lá dính vào bánh và không hiểu sao đưa lên mũi ngửi đã rồi mới chìa món quà nhỏ của mình cho con dê. Con dê khúm núm nghiêng đầu cầu khẩn, nhìn Đavưđốp bằng đôi mắt khôn ranh của một con Dương thần già (°), nhưng chỉ vừa mới ngửi qua mẩu bánh nó đã khinh bỉ phì ra một cái, chững chạc bỏ đi ra khỏi thềm.
- Chưa đến lúc đói meo mõm mà, - Đavưđốp tự ái ra mặt, nói: - Mày chưa biết mùi đời lính, đồ quỷ già, chứ nếu không thì mày đã nhai ngấu nhai nghiến nuốt chửng rồi! Bánh bị tí mùi thuốc lá, thế thì đã sao nào! Mày dứt khoát là có máu quý tộc, đồ ăn hại, cho nên mày mới kênh kiệu thế chứ, thực tế thế!
Đavưđốp quẳng mẩu bánh đi, bước vào hành lang mát rượi, múc một ca nước trong thùng, nốc cạn. Chỉ đến bây giờ anh mới cảm thấy thấm mệt vì cuộc đi bộ dưới trời nắng oi.
Trong trụ sở chỉ có độc Radơmiốtnốp và anh kế toán. Thấy Đavưđốp về, Radơmiốtnốp toét miệng ra cười:
- Về đấy hả, ông lính thuỷ? Chà, thật là mình trút được gánh nặng ngàn cân! Ốm xác với cái việc chỉ đạo nông trang này, khổ thấy cha thấy mẹ! Lúc thì lò rèn hết than, lúc thì gầu giếng gãy, lúc thì ông nọ tới mè nheo, lúc thì bà kia tới ám… Cái công việc nhức đầu nhức óc này thật chả hợp với mình tí nào. Mình phải ngồi đây thêm tuần lễ nữa khéo mình sẽ phát rồ phát dại lên mất, nom không ra cái chó gì!
- Cậu Maka thế nào?
- Vẫn sống sờ sờ ra đấy.
- Ai chả biết vẫn sống, nhưng đã bình phục chưa?
Radơmiốtnốp bĩu môi:
- Ô hay, bị có viên đạn mà cậu bảo bình phục? Dễ cậu tưởng chúng nó bắn cậu ấy bằng pháo 76 li chăng? Chậc, hắn có choáng váng tí, lấy rượu vốtka rửa chỗ đạn bắn xước da, rồi chỗ còn lại của nửa lít vốtka hắn dốc tuột vào mồm, thế là hết chuyện.
- Bây giờ hắn đâu?
- Xuống đội.
- Câu chuyện đầu đuôi thế nào?
- Rất chi là đơn giản: đêm hôm ấy cậu Maka ngồi bên cửa sổ mở toang, với nhà học giả là bác Suka ngồi đầu bàn đối diện. Thế rồi có đứa dùng súng trường bắn vào Maka. Đứa nào bắn, cái đó thì chỉ có bóng đêm biết được, duy có một điều là rõ: khẩu súng ở trong tay một thằng cà là mèng.
- Sao kết luận thế?
Radơmiốtnốp tròn xoe mắt ngạc nhiên:
- Lại còn “sao” à? Thế cậu, cách ba mươi bước cậu cầm súng trường có bắn trượt không? Sáng hôm sau chúng mình đã tìm thấy chỗ thằng ông mãnh nấp bắn. Căn cứ vào chỗ đui đạn rơi mà. Chính chân mình đo: đúng hai mươi tám bước, từ hàng rào vào đến thềm.
- Đêm hôm thì ba mươi bước cũng có thể bắn trượt.
- Không, không đời nào, - Radơmiốtnốp gân cổ cãi lại. – Mình thì không thể trượt được! Ông không tin, cứ thử xem: đêm nay ông cứ ngồi đúng chỗ cậu Maka ngồi, và đưa tôi khẩu súng trường. Chỉ cần độc một viên tôi sẽ khoan cho ông một cái lỗ xinh xinh giữa sống mũi. Thành ra rõ rành rành thằng bắn là một dân tò te, chứ không phải lính thực thụ.
- Kể rõ hơn một tí tớ nghe.
- Mình sẽ kể tỉ mỉ đầu đuôi. Gần nửa đêm, mình nghe thấy trong xóm có tiếng súng bắn: một tiếng trường, rồi hai tiếng nhỏ hơn, kiểu như súng lục, rồi lại một tiếng nổ đanh, tức là súng trường, nghe tiếng phân biệt rõ lắm. Mình vớ vội khẩu súng lục dưới gối, đâm bổ ra đường, vừa chạy vừa kéo quần. Mình chạy đến nhà Maka; tiếng súng nổ nghe có vẻ từ phía ấy lại. Thú thực là mình đã nghĩ bụng: thằng cha Maka lại giở trò gì ra đây…
Mình chạy bổ tới nhanh như chớp. Mình đấm cửa: cửa đóng chặt, nhưng nghe bên trong có tiếng người rên rỉ. Thế là mình lấy vai hích hai cái thật lực, bật tung then cửa ra, nhảy xổ vào bên trong nhà, đánh que diêm lên. Trong bếp, dưới gầm giường có hai bàn chân người thò ra. Mình liền túm lấy, và lôi. Ôi cha mẹ ơi, cái của khỉ dưới gậm giường ấy nó rống lên ăng ẳng mới khiếp chứ! Thậm chí mình phát hoảng lên nữa, nhưng mặc, cứ thế mình lôi dần. Mình lôi xềnh xệch cái lão ấy ra giữa gian bếp, lúc ấy mới té ra không phải là một lão, nghĩa là không phải một ông lão, mà là bà lão chủ nhà. Mình hỏi bà lão, Maka đâu, nhưng bà ấy sợ quá không cạy răng thốt ra được một lời.
Mình đâm bổ sang phòng Maka, mình vấp phải vật gì nhùn nhũn, ngã dúi xuống, đứng bật dậy, hết cả hồn vía. Mình nghĩ bụng: “Thế nghĩa là Maka bị chúng nó bắn chết rồi, cậu ấy nằm đây đây”. Mình lóng ngóng đánh diêm lên, nhìn: lão Suka đang nằm sóng soài dưới sàn, ti hí một mắt nhìn mình, còn mắt kia nhắm tịt. Trán và một bên má lão có máu. Mình hỏi lão: “Sống đấy chứ? Cậu Maka đâu?”. Nhưng lão lại hỏi lại mình: “Anh Anđrây ơi, vì Chúa, làm ơn nói cho lão biết lão còn sống hay đã chết rồi?”. Nhưng giọng lão nói nghe nhỏ nhẻ yếu đuối quá, tưởng đâu như lão sắp về chầu trời thật vậy… Mình mới động viên lão, bảo: “Bác còn múa lưỡi được nghĩa là tạm thời vẫn còn sống. Nhưng xem ra thì bác sặc mùi người chết rồi…”. Lão oà khóc, bảo: “Thế thì đích thị phần hồn lão đang lìa khỏi phần xác đây, cho nên mới có cái mùi nằng nặng thế. Nhưng nếu tạm thời lão còn đang sống thì lão cũng sắp chết đến nơi rồi: trong sọ lão có một viên đạn mà”.
- Chuyện gì mà lăng nhăng! – Đavưđốp sốt ruột cắt ngang. – Sao mặt lão lại có máu? Chả còn hiểu cái chết tiệt gì cả! Lão cũng bị thương sao?
Radơmiốtnốp mỉm cười kể tiếp:
- Nào có ai bị thương đâu, yên ổn cả. Thế rồi, mình ra đóng cửa sổ lại đề phòng bất trắc, châm đèn lên. Lão Suka vẫn nằm ngửa đó, im như thóc, chỉ khác là con mắt kia lão đã nhắm nốt lại và hai tay chắp lên bụng. Lão nằm như nằm trong sáu tấm, không cựa, y xì người chết rồi! Lão lễ phép đề nghị bằng một giọng lí nhí: “Anh ơi, vì Chúa, anh đi gọi hộ bà nhà lão. Trước khi nhắm mắt, lão muốn giối giăng vài lời!”.
Mình cúi xuống, cầm đèn soi. – Radơmiốtnốp phì cười, cố lắm mới khỏi cười phá lên. – Mình soi, và thấy trên trán, nghĩa là trên trán lão Suka, thò ra một mẩu dằm thông… Thì ra là viên đạn sượt qua khung cửa sổ đã làm bắn tung ra một mẩu dằm gỗ nó cắm phập vào trán lão Suka. Lão dớ dẩn tưởng đó là viên đạn, và thế là lăn kềnh ngay ra đất. Lão đang giả vờ chết, còn mình thì cười một trận gần chết. Đường nhiên là mình rút mẩu dằm ra cho lão, và bảo: “Tôi trích viên đạn ra cho bác rồi đấy, bây giờ dậy thôi, không việc gì phải nằm ườn ra nữa, nhưng bố nói đi cho con nhờ: cậu Maka chạy đâu rồi?”.
Mình thấy bố Suka nhà ta tươi tỉnh hẳn lên, nhưng có mặt mình đấy mà ngồi nhỏm dậy thì trơ quá, nên lão không dậy, cứ quằn quại dưới đất… Và cái lão ba hoa bất trị ấy cứ nằm thế mà lải nhải như đấm vào tai mình. Lão nói: “Khi quân địch xả súng vào lão, cho lão một phát trúng giữa trán, lão ngã đổ kềnh ra như bị sét đánh, nằm bất tỉnh nhân sự, trong khi đó thì anh Maka tắt phụt đèn, nhảy tót qua cửa sổ, chuồn đi đâu không biết. Đấy, thật là chán mớ đời cái tình bằng hữu: lão bị thương nằm đó, nửa sống nửa chết, còn anh ta thì sợ mất mật bỏ chạy, mặc xác lão cho quân thù giày xéo. Anh Anđrây ơi, anh đưa lão cái viên đạn nó xuýt giết lão chết toi xem nào. Nếu nhờ ơn Chúa lão tai qua nạn khỏi được, lão sẽ giữ nó ở chỗ bà lão, đặt trên bàn thờ thánh giữ làm kỷ niệm cho muôn đời sau!”.
Mình trả lời lão: “Không, tôi chả thể đưa cho bác xem viên đạn ấy được đâu, nó bê bết máu, bác trông thấy nó thì lại ngất xỉu đi lần nữa mất thôi. Viên đạn lịch sử này chúng tôi sẽ gửi đi Rôxtốp để bày vào viện bảo tàng”. Nghe thế, lão càng khoái tợn, quay phắt sang nằm nghiêng, miệng hỏi: “Này, anh Anđrây ơi, do cái vết thương oanh liệt này, và do cái sự lão đã đánh lui được quân thù như vậy, có thể lão sẽ được thượng cấp gắn cho cái huy chương gì cũng nên đấy nhỉ?”. Đến đây thì mình không thể chịu được nữa. Mình dúi cái dằm vào tay lão, bảo: “Đây, viên đạn của lão đây, cái của này viện bảo tàng không thèm. Lão mang về bày lên bàn thờ mà làm kỷ niệm, nhưng trước hết hãy xéo ngay ra giếng rửa ráy cho sạch cái oanh liệt của lão đi đã, và sửa sang lại quần áo, kẻo người lão nồng nặc như cái hố phân”
Lão Suka lủi ra sân, đi mất tăm, và chẳng bao lâu sau cậu Maka xuất hiện, thở hổn hển như con ngựa phi mệt lử. Hắn ngồi vào bàn, nín thinh. Thở một trận hết mệt, hắn mở miệng: “Sểnh mất cái thằng chó chết ấy rồi! Mình tương hai phát. Tối quá, không nhìn rõ đầu đuôi, cứ bắn bừa, trượt cả. Còn nó thì đứng lại, bắn trả lại mình phát nữa. Cứ như có ai túm áo varơi mình giật mạnh một cái vậy”. Maka vạch tà áo varơi ra, và quả đúng là ở lườn bên phải, trên thắt lưng một tí có lỗ đạn xuyên qua. Mình hỏi cậu ấy có nhận ra là đứa nào không? Cậu ấy cười khẩy: “Mắt mình đâu phải mắt cú. Mình chỉ biết nó là một thằng trẻ trẻ, vì nó nhanh thoăn thoắt. Người có tuổi không chạy được thế đâu. Mình đuổi theo nó, chẳng ăn thua mẹ gì cả! Thằng ấy thì ngựa đuổi cũng không kịp”. Mình bảo cậu ấy: “Sao cậu lại liều thế nhỉ? Không biết chúng nó có bao nhiêu đứa mà lại đuổi theo? Thế ngộ nhỡ có hai thằng nữa nấp phục ở hàng rào thì sao? Và chỉ cần một thằng thôi cũng có thể đợi cậu tới sát, bắn cho chết tươi”. Nhưng Maka thì có nghe ai bao giờ? Hắn bảo: “Thế theo cậu thì mình phải làm thế nào? Tắt đèn rồi rúc xuống gầm giường chắc?”. Đấy, đầu đuôi là như thế. Đối với cậu Maka, hậu quả duy nhất của vụ mưu sát này là hắn bị sổ mũi.