TỪ TẦN, HÁN TỚI ĐƯỜNG
ĐỜI TẦN, HÁN – NHO ĐƯỢC ĐỘC TÔN NHƯNG CHỊU ẢNH HƯỞNG CỦA ÂM DƯƠNG GIA

Tần Thuỷ Hoàng diệt lục quốc rồi, bỏ hết chế độ cũ, tập trung quyền hành, lập chế độ quân chủ chuyên chế[1], dùng hình pháp mà trị thiên hạ, và nghe lời tâu này của Lý Tư mà thống nhất tư tưởng: “Tôi (Lý Tư) xin phát lệnh rằng: Sử quan thấy sách gì không phải là sách của nhà Tần thì đốt hết cả. Sách gì không phải là quan bác sĩ được phép giữ mà trong thiên hạ chứa giấu như Thi, Thư, cùng Bách gia ngữ, phải đem đến quan Thuỷ uý đốt hết. Ai dám nói thầm với nhau sách Thi, Thư thì chém bỏ xác ngoài chợ, ai lấy đời xưa để chê bai đời nay thì giết cả họ. Kẻ lại có thấy hoặc biết mà không tố giác, đều phải chịu chung một tội. Lệnh xuống ba mươi ngày mà không chịu đốt thì gọt đầu bôi đen bắt đi làm phu. Những sách để lại là sách thuốc, sách bói, sách trồng cây. Ai muốn học pháp lệnh thì phải lấy kẻ lại làm thầy”[2].
 
Do đó có vụ chôn Nho và đốt sách. Sử chép 460 người phạm cấm, bị chôn ở Hàm Dương, nhiều người khác bị đày ra ngoài biển.
 
Nhiều nhà cho rằng chính sách bạo tàn đó làm cho triết học Trung Quốc suy. Nhưng cứ lấy lý mà xét thì nhà Tần giữ ngôi Hoàng đế không được lâu: trước sau có 15 năm (-221 -206), mà từ đời Nhị thế (-209) trở đi, trong nước lại loạn lạc, có thì giờ đâu mà tổ chức được quốc gia cho đàng hoàng, thi hành được pháp lệnh cho triệt để; số nhà Nho và sách tất vẫn còn nhiều, mà 460 người bị chôn đó chưa chắc thảy đã là Nho gia. Vả lại Tần chỉ muốn thống nhất tư tưởng thôi, chứ không diệt bọn trí thức; tại triều đình còn vẫn giữ kinh sách của các thời trước, ai muốn học thì vẫn có trường dạy.
 
Vậy nguyên nhân đốt sách chôn Nho chỉ là phụ. Nguyên nhân chính có lẽ là thời trước, các triết gia đua nhau đưa ra các học thuyết để cứu quốc, thống nhất quốc gia, gây lại trật tự, nay nước đã thống nhất thì những vấn đề đó coi như đã giải quyết xong. Có vấn đề mới chăng là vấn đề diệt Tần tàn bạo, và vấn đề này Trần Thiệp, Hạng Võ, Lưu Bang đã nghĩ tới.
 
Trong đời Tần và đầu đời Tây Hán, Mặc học suy luôn. Lão, Nho, Pháp, Âm dương gia vẫn còn uy thế ngang nhau.
 
Lúc Hàn Phi còn sống, Mặc học vẫn còn thịnh, cho nên sách Hàn Phi tử mới nói: “Đạo học ở đời, tức là phái Nho phái Mặc”. Hàn Phi mất năm 233 trước tây lịch; mà 250 năm sau, Tư Mã Thiên soạn bộ Sử ký, không chép riêng chuyện Mặc Tử nữa, cơ hồ như Mặc học đã mất tích từ lâu. Sao mà diệt vong sớm thế?
 
Hồ Thích đưa ra ba nguyên nhân:
 
- Bị Nho gia phản đối dữ dội,
- Bị bọn chính khách ngờ ghét,
- Bị quần chúng đa số không hiểu vì những lời biện thuyết của bọn Biệt Mặc quá vi diệu.
 
Ức thuyết đó cũng có lý, và chúng ta tiếc rằng, tri thức luận trong triết học Trung Hoa cùng với Mặc giáo tiêu trầm luôn.
 
Pháp gia tôn quân quyền tất nhiên được Tần, Hán trọng dụng rồi, lẽ đó dễ hiểu. Nhưng Lão chủ trương vô vi, không can thiệp hoặc can thiệp rất ít vào đời sống của dân, trái hẳn với Pháp, mà lại sao thịnh ở đời Tần, được Tần Thuỷ Hoàng rất tin nữa.
 
Nguyên nhân chỉ tại Lão giáo lúc đó đã hợp với Âm dương gia, biến thái đi, không còn là một triết học cao siêu mà thiên về dị đoan; và dân chúng sau mấy thế kỷ loạn lạc lầm than, rất tin ở dị đoan.
 
Trong Đạo Đức kinh có những câu “Tử nhi bất vong giả thọ”, “Thâm căn cố đế, trường sinh cửu thị chi đạo[3] (Chết mà không mất là thọ), (Cái đạo gốc sâu rễ bền sống lâu mà trông xa mãi mãi) dễ làm cho dân chúng hiểu lầm, tin rằng có phép trường sinh; rồi người ta tìm thêm trong Âm dương học những các để điều hoà âm dương, lấy trộm cái huyền vi của trời đất chế ra cách luyện đan, cách luyện “tinh”, “khí”, “thần” để được bất tử. Chính Tần Thuỷ Hoàng cũng cần “tiên đan”, hăng hái hơn ai hết. Như vậy Lão giáo đã biến thành Đạo giáo, rồi lâu dần từ này đồng nghĩa với Lão giáo.
 
Tới Nho học cũng pha lẫn với Âm dương học. Đổng Trọng Thư đưa Nho học lên địa vị độc tôn (trước kia, Khổng Tử chỉ là một vị sư (thầy) nay đã thành một vị thánh) mà cũng có rất nhiều tư tưởng có vẻ huyền bí dị đoan.
 
Ông đưa kiến nghị dùng Nho giáo làm quốc giáo và Hán Vũ Đế chấp thuận liền. Có lẽ vì Vũ Đế thấy những thuyết thế, thuật, pháp của Hàn Phi dùng để thống nhất quốc gia thì được, chứ dạy dân thì không được. Mà trong những học thuyết khác (Khổng, Lão, Mặc) thì chỉ có Khổng là vừa tôn quân, vừa thiết thực, vừa bàn rộng về nhiều vấn đề hơn cả. Khổng chủ trương trung hiếu, lợi cho quân chủ; còn chủ trương “dân vi quí, quân vi khinh” của Mạnh Tử thì không làm lung lay được ngai vàng, một khi ngai vàng đó đã được các thuật trị quốc của Pháp gia củng cố. Vả lại Đổng Trọng Thư thờ Khổng chứ không theo Mạnh. Lúc đó, Mạnh và Tuân địa vị còn ngang nhau, từ đời Đường, Mạnh mới được trọng.
 
Tóm lại, từ đời Hán trở đi, về phương diện chính trị, Nho liên kết với Pháp; riêng trong đời Hán, về phương diện học thuật, Nho pha với Âm dương học, Lão học mà giữ địa vị độc tôn và phát minh được tượng số học.
 
Dưới đây chúng tôi tóm tắt học thuyết của ba nhà: Đổng Trọng Thư, Dương Hùng và Vương Sung.
 
Đổng Trọng Thư có công đưa Khổng học lên địa vị quốc giáo nhưng không phát huy được gì cho Khổng học cả.
 
Ông dung hoà thuyết của Mạnh và Tuân về tính thiện, tính ác, chủ trương rằng con người khi mới sinh, có phần thiện mà cũng có phần ác; phải đợi sức người bồi bổ rồi mới toàn thiện được; lần đầu tiên dùng chữ tam cương để chỉ đạo quân thần, phụ tử, phu phụ. Về chính trị ông chú trọng vào sự “quân phú bần” nghĩa là theo Khổng Tử, không để cho có kẻ giàu quá, có kẻ nghèo quá. Ông cũng nhấn mạnh vào điểm “tri” thì phải “hành”.
 
Nhưng ông sở trường nhất về âm dương, ngũ hành. Ông cho vạn vật nguồn gốc ở “nguyên” (nghĩa là gốc) mà ra, “nguyên” có trước cả trời đất. Trời đất với người cùng loại và tương ứng (thiên nhân tương ứng), người có 360 đốt xương, hợp với con số của Trời (số ngày trong một năm), người có bắp thịt, thân thể đầy đặn tựa như đất; tai mắt thông minh là hình tượng mặt trời mặt trăng, ngũ tạng là hình tượng của ngũ hành, một năm có bốn mùa thì người có tứ chi…
 
Cái gì ông cũng ghép vào âm dương, ngũ hành. Vua là dương, bề tôi là âm; cha là dương, con là âm, chồng là dương, vợ là âm… Mùa xuân thuộc mộc, mùa hạ thuộc hoả, mùa thu thuộc kim, mùa đông thuộc thuỷ; những tháng ở cuối mỗi mùa (tháng 3, 6, 9, 12) thuộc thổ. Phương đông là mộc, phương tây là kim, phương nam là hoả, phương bắc là thuỷ, trung ương là thổ.
 
Nhà cầm quyền mà biết những luật đó rồi theo âm dương, ngũ hành trị dân thì nước sẽ thịnh. Đời Hán có những chức quan coi riêng về âm dương, ngũ hành để làm cố vấn cho nhà vua; và nếu có tai trời ách nước gì xảy ra mà không đoán trước được, không tìm cách ngăn ngừa được thì bị cách chức.
 
Ngoài ra còn một số Nho gia mượn thuyết âm dương, ngũ hành mà chú thích kinh Dịch, thành những bộ Vĩ thư (vĩ là những sợi ngang; đối với kinh là những sợi dọc; ý nói sách đó giải thích những lời trong kinh) và Sấm thư lập thành môn tượng số học. Tượng là những dấu để biểu thị sự vật, như vạch liền trỏ dương, vạch ngang đứt - - trỏ âm; ☰ trỏ trời, ☷ trỏ đất, ☲ trỏ lửa vì ở giữa có một khoảng trống, trống thì có không khí lửa mới cháy được; ☵ trỏ nước vì ở giữa có một nét ngang liền, biểu thị nước vì nước vốn không trống như lửa…
 
Con số cũng có ý nghĩa: chẳng hạn số 1 là trời, số 2 là đất. Số 1 là dương mới sinh, số 3 là chính vị của dương… số 9 là lúc biến của dương; số 2 là âm mới sinh, số 4 là chính vị của âm, số 6 là lúc biến của âm.
 
Họ lại đặt phương vị cho bát quái, như quẻ khảm ở phương bắc vì khảm là thuỷ, phương bắc lạnh; quẻ ly ở phương nam vì ly là hoả, phương nam nóng…; rồi ngũ âm, ngũ sắc, ngũ vị, ngũ tạng… đều được phối hợp với ngũ hành.
 
Phái Tượng số đó mà Đổng Trọng Thư là kiện tướng cố gồm vũ trụ trong một hệ thống âm dương ngũ hành khá chặt chẽ, thần tình; nhiều người phải nhận nó là kỳ dị, có tổ chức đàng hoàng, như một lâu đài kiến trúc khéo léo có cửa vào cửa ra, có tiền đường hậu sảnh, lối đi sáng sủa ngăn nắp, chỉ tiếc lâu đài đó hoàn toàn xây dựng trên không trung, không có một cơ sở trên thực nghiệm. Một điều lạ lùng là cái học tượng số đó, đến đời Tống càng phát huy thêm nhờ một đạo sĩ, Trần Đoàn, rồi sinh ra những môn khoa học huyền bí như Tướng, Số (Số tử vi, tử bình, hà lạc) và cho đến nay vẫn còn ảnh hưởng về tâm lý đối với những người nào tin rằng có số mệnh.
 
Thời Tây Hán đã có một số người bất mãn về học thuyết của Âm dương gia, bài xích phái Tượng số, muốn trở lại cái học đời Tiên Tần, trong số đó có Lưu Hâm[4], Dương Hùng, Vương Sung; nhưng họ vẫn không gột được hết ảnh hưởng của phái Âm dương.
 
Dương Hùng nổi tiếng hơn cả. Ông mô phỏng kinh DịchĐạo đức kinh mà viết bộ Thái huyền để diễn cái nghĩa hình nhi thượng học và mô phỏng Luận ngữ mà soạn bộ Pháp ngôn để diễn phần hình nhị hạ học.
 
Ông cho huyền là cái căn bản của vũ trụ (cũng như Đổng Trọng Thư gọi là nguyên), mà người và vũ trụ chung một thể với nhau (thiên địa vạn vật nhất thể). Ông bảo: “Huyền là đạo trời, đạo đất, đạo người”. Huyền giống như Đạo của Lão giáo, tức nguyên lý tối cao của vũ trụ, rồi ông cũng dùng sự tiêu trưởng của âm dương mà xét việc cát hung.
 
Bộ Pháp ngôn bàn về đạo lý thiết thực. Về tính người ông cho rằng có cả phần thiện, phần ác, chứ không thiện hẳn hay ác hẳn (Nhân chi tính dã, thiện ác hỗn). Làm điều thiện thì thành người thiện, làm điều ác thì thành người ác.
 
Vương Sung trái lại, cho vũ trụ là vô ý chí, vô vi, cứ tự nhiên sinh hoá. Ông bảo: “Trời với đất hợp khí với nhau mà vạn vật sinh ra, cũng như vợ chồng hợp khí với nhau mà sinh con. Vạn vật sinh ra, vào loại có huyết thì biết đói biết rét. Thấy ngũ cốc ăn được thì lấy mà ăn, thấy tơ gai mặc được thì lấy mà mặc. Kẻ nào bảo trời sinh ra ngũ cốc để nuôi người, sinh ra tơ gai để cho người có quần áo là không hợp lẽ tự nhiên”. Tư tưởng đó có phần hợp với tư tưởng của Lão Tử.
 
Do đó ông không nhận rằng linh hồn bất tử, chính ông đã nói câu “con người trong vũ trụ cũng như con rận trong quần” mà sau này Nguyễn Tịch đời Nguỵ đã lập lại, phản đối thuyết tai vị đương thời, phản đối thuyết “thiên nhân tương ứng” của Đổng Trọng Thư mà có vẻ như chịu ảnh hưởng của Tuân Tử.
 
Nhưng ông lại rất tin ở mệnh: Ai có mệnh sang thì cho dù ở chỗ hèn cũng tự làm nên; ai có mệnh hèn thì dù ở chỗ giàu cũng tự suy đi. Không những cá nhân mà quốc gia cũng có mệnh: Nước đến lúc suy loạn thì dẫu có thánh hiền cũng không cứu được; nước đến lúc hưng thịnh dù có kẻ ác cũng không làm loạn được. “Sự an nguy của quốc gia tại số mệnh chứ không tại giáo dục”(Quốc chi an nguy, tại số bất tại giáo[5] – Trị kỷ).
 
Như vậy, ông vẫn chưa thoát khỏi cái không khí dị đoan đương thời. Khổng, Mạnh cũng tin có mạng, nhưng phải làm hết sức của mình rồi mà kết quả không như ý mình đoán trước, lúc đó mới gọi là mạng, chứ không như Vương Sung, coi mọi sự đã tiền định cả.
 
Về tính người, Vương cho rằng có người bẩm sinh ra thiện, có người bẩm sinh ra ác, hạng trung bình thì có thiện lẫn ác. Ông dung hoà cả Mạnh, Tuân và Dương Hùng: “Mạnh Kha nói tính thiện là nói cái tính của hạng trung nhân dĩ thượng; Tuân Khanh nói tính ác là nói cái tính của hạng trung nhân dĩ hạ; Dương Hùng nói tính hỗn tạp cả thiện lẫn ác, là nói hạng trung nhân”.
 
Nhưng ông lại tin sự giáo hoá có thể biến ác thành thiện, cũng như “cỏ bồng mọc chung với cây gai, chẳng cần phải đỡ, tự nó cũng thẳng”. Vậy thì thuyết tính này với thuyết mệnh ở trên có mâu thuẫn với nhau chăng?
 
Học thuyết của Vương có chỗ khả thủ là “không trọng cổ, khinh kim”; đề cao sự thực nghiệm. Trong sách Luận hành, mỗi khi lập luận ông đều lấy sự thực để chứng minh. Ông bảo: “Sự mạc minh vu hữu hiệu; luận mạc định vu hữu chứng”[6] (Việc không có gì rõ ràng bằng có công hiệu; luận không có gì chắc bằng có chứng cớ). Ông rất chê thiên Minh quỷ của Mặc Tử, cho rằng những dẫn chứng của Mặc vô giá trị; quỷ thần vốn không có. Như vậy ông ông có tinh thần khoa học và tiến bộ hơn các triết gia đương thời.
 
Tóm lại, đầu đời Hán không khí dị đoan cực thịnh, cuối đời Hán không khí đó giảm đi, mà Khổng học hơi khởi sắc một chút.
Chú thích:
[1] Nhiều sách nói Tần Thuỷ Hoàng đặt ra chế độ quận huyện. Sự thực thì quận huyện đã có từ đời Đông Chu: thời đó mỗi nước có nhiều ấp, mà ấp nào của nhà vua thì gọi là huyện, để phân biệt với những ấp của bọn đại phu. Theo một số học giả hiện nay, tới đời Hán chế độ nô lệ mới chuyển qua chế độ phong kiến, nhưng ý kiến phần đông cho rằng chế độ phong kiến đã có từ đời Chu. Vấn đề chưa được giải quyết dứt khoát.
[2] Bản dịch của Trần Trọng Kim trong Nho giáo.
[3] 死而不亡者壽,
深根固蒂, 長生久視之道.
[4] Nhà Tần, sau khi thống nhất Trung Quốc, quy định văn tự, ra lệnh đốt sách chỉ giữ một số kinh, thư và chỉ cho phép một số bác sĩ của triều đình được giảng những sách đó.
Từ đời Hán Vũ Đế trở đi, các học giả đều học theo những sách đó, gọi là kim văn. Đời bấy giờ có Lỗ Cung Vương là con Cảnh Đế, tìm thấy một bộ kinh Thư viết bằng cổ văn ở trong vách nhà của Khổng Tử, Khổng An Quốc là cháu mười hai đời của Khổng Tử, đem so sánh bộ văn kim văn mà soạn lại. Từ đó mới phân biệt ra phái kim văn và phái cổ văn. Đến cuối đời Tây Hán, Lưu Hâm đặt ra Thi cổ văn, Xuân Thu cổ văn để vãn hồi cổ học, diệt trừ ảnh hưởng Âm dương gia tới Nho học, nhưng chữ (?) Nho ngờ những sách đó không đúng với nguyên văn đời cổ nên không theo. Mãi đến đời Lục triều, Tuỳ Đường, phái cổ văn mới có thế lực, át được phái kim văn. 
[5] 國之安危,在數不在教.
[6] 事莫明於有效, 論莫定於有證.