Dịch giả: Huy Tưởng
Chương 19
Hòa bình thật tuyệt

Một dì phước của cha Devine đã săn sóc hai đứa con tôi, một trai một gái, khi chúng còn bé, tôi vô cùng đội ơn dì và cũng rất kính trọng những công tác trong giáo phái tín ngưỡng của cha Devine. Đó là cô Love Ray, cô xem cha Devine như là Chúa và đầy lòng tín mộ. rồi chẳng thế nào mà một cuốn sách của tôi lọt vào tay cô, cô đọc truyện này, và nhận xét với tụi nhỏ rằng tôi là người không tốt lắm. Thực lòng thì tôi cũng không bao giờ ngờ vực gì cha Devine, tôi rất kính ngưỡng những công việc từ tâm của cha, nó rất xứng đáng được như vậy, bởi vì, tất cả các hình thức tín ngưỡng phát triển được là nhờ có người cần đến chúng. Vậy thì khi nhu cầu của con người ta được thoả mãn, ai nỡ lòng nào chỉ trích nhau chứ?
 
Ông toà nói rằng ông rất tiếc, nhưng người thanh niên này can tội đi tàu lậu.
Hai người đàn bà trung niên da trắng, ở khu lao động, nên họ biết rất rõ vùng này, đứng dậy từ hàng ghế thứ nhất và nói, Cám ơn Cha, Hoà bình thật tuyệt!
Ông toà chẳng rõ mô tê gì, nghểnh đầu ra, kêu gọi giữ trật tự, và nói, Mặc xác cái vụ Cha ấy đi, các bà đáng vai má tôi, mà…Bây giờ tôi tuyên án đây…
Bản án là năm năm ở nhà trừng giới Liên Bang.
Người thanh niên nói với các phóng viên rằng anh ta rất sung sướng  và mong muốn được sống hoà thuận với thế giới. Anh cho biết lanh vừa nhận được điện tín từ những người có thế lực ở New York. Anh tâm sự là anh đã mệt nhoài và chỉ mong được yên ổn mà tu kín trong năm năm tới đây. Anh cũng cho các phóng viên biết rằng trước nay anh vẫn ôm ấp và thai nghén viết một cuốn sách, thì, giờ đây anh đã có cơ hội để thực hiện việc đó.
Anh nói, Cám ơn Cha, Hoà bình thật tuyệt.
Một người nào đó, giữa đám đông nói, Thật là không phải chút nào, một thanh niên ngoan đạo và lương thiện, trong người chỉ có tình thương thôi, không đáng bị trừng phạt như thế.
Gã đánh cá chuyên nghiệp Manuel nói, Cái quái gì vậy, đi đến đâu cũng nghe thiên hạ nói Hoà bình, Hoà bình các thứ, đầy nghẹt cả lỗ tai.
Manuel kéo tôi ra góc phố, và đến tiệm Pete làm hai chai bia cùng hai bánh săng uých sườn. Đoạn chúng tôi qua đường đi đến chi nhánh Bờ Biển Nam của Giáo Hội. Bên trong cửa sổ có tấm hình của một người, và dưới hình có in dòng chữ Ý nói rằng đó là Thượng Đế.
Lúc đó là mười một giờ đêm. Hai cô gái Mỹ của trường dành cho những người học kém, ra khỏi chỗ và đứng dưới hàng hiên. Sau họ là mụ đàn bà da đen to con vui tính, bộ dạng có lẽ đã từng là gái chơi bời ở một nhà thổ nào đó trong vùng. Có một nải chuối trong phòng, phía sau là tủ kệ đồ hộp, phần nhiều là đậu.
Manuel nói, OK, thử coi. Thử cười xem sao. Thử làm ra vẻ dân chơi coi.
Mấy cô này hả? Tôi hỏi.
Dĩ nhiên, Manuel đáp.
Chào bà, tôi nói với mụ nạ dòng da đen. Chuối bán bao nhiêu vậy?
Bà ta nói, Cám ơn Cha.
Hai cô gái nói, Hoà bình, thật tuyệt.
Manuel nói, Trời đất quỷ thần ơi!
Chuối, ba mươi xu một chục, mụ da đen nói. Ôi Hoà bình.
Tôi nói, Lấy cho chục rưỡi.
Cám ơn.
Chúng tôi vào trong sảnh đường. Hai cô gái cũng rục rịch men theo. Manuel nói, Amen, và liếc mắt nhìn theo hai cô gái ra chiều ngoan đạo. Họ mỉm cười thành kính và rung động.
Tôi phụ giúp mụ da đen đếm chục rưỡi chuối. Khi quay lại thì Manuel biến đâu mất. Một hồi sau tôi thấy hắn đứng ở góc đường, mỗi tay khoác một em.
Hắn quay lại hét, Mau lên Joe. Hoà bình, thật tuyệt.
Tôi quay trở lại quán Pete và cho tên bán báo người Tàu mấy quả chuối.
Khoảng gần hai giờ sáng thì Manuel mới trở về.
Tôi nói, Hoà bình, thật tuyệt!
Hắn nói, Khổ quá, cha nội. Cái quái quỷ gì vậy chớ?