Dịch giả: Huy Tưởng
Chương 30
CON GÁI NGƯỜI CHĂN CỪU

Bà ngoại tôi, LucyGaroghlanian, kết hôn với Bitlis Saroyan hơn một trăm năm trước, dù bà không được học hành gì cả, nhưng là một người kể chuyện hết sức duyên dáng và hấp dẫn. Đây là một trong những  truyện nhỏ có lần bà kể cho nghe. Tôi gắng viết một phần nào những truyện do bà và những huynh trưởng, những cô chú bác trong họ tộc kể cho nghe, dù vậy cho đến nay cũng không sao viết hết được, tôi cứ tiếc mãi vì sự thất tán miên viễn đó
 
Đó là chính kiến của bà tôi, lạy trời phù hộ cho bà, rằng tất cả mọi người đều phải lao động. Vừa rồi, tại bàn ăn, bà nói với tôi, Cháu ạ, cháu cần phải học một việc gì, làm một đồ vật gì có ích cho con người, bằng đất sét hay bằng gỗ, bằng kim loại hoặc vải vóc các thứ. Một người trẻ chẳng nên không biết đến một nghề thủ công đáng quý. Cháu làm được gì không? Một cái bàn sơ sài, một cái ghế, một cái đĩa dung dị, một tấm thảm hay một bình nước, cháu có làm được không?
Bà nói, Bà biết và nghe đâu cháu là một nhà văn, bà cũng tin và nghĩ rằng cháu hẳn là nhà văn gì đó. Chắc chắn là cháu hút đủ thứ thuốc để nặn óc sinh thành ra một cái gì, và cả nhà thôi thì mù mịt khói, nhưng dù gì đi nữa thì cháu cũng phải học tập làm một vật dụng gì xác thực, có thể dùng được, thấy và sờ chạm được.
Bà tôi kể, Có một ông vua Ba Tư, ông có một con trai, gọi là hoàng tử, và chàng trai phải lòng con gái người chăn cừu. Chàng đến trước vua cha để tâu trình, Thưa phụ vương, con yêu con gái người chăn cừu, và con xin cưới nàng làm vợ. Đức vua nói, Ta là vua và con là hoàng tử, đến khi ta băng hà thì con sẽ nối ngôi lên làm vua, vậy thử hỏi làm sao con có thể đi lấy con gái của một gã chăn cừu cho được? Người con nói, Thưa phụ vương, điều đó con chưa nghĩ đến nhưng con biết rõ là con yêu cô gái này và con ước ao đón nàng về làm hoàng hậu sau này.
Ông vua cảm thấy rằng mối tình của con trai ông với cô gái là do trời định, và ông nói, Được rồi, ta sẽ trao tin đến cho nàng, rồi ông truyền sứ giả đến và hạ chỉ, Hãy đến với con gái người chăn cừu và nói rằng, con trai ta yêu nàng và sẽ cưới nàng về làm vợ. Vị sứ giả đến gặp cô gái và nói, Hoàng tử, con trai đức vua, yêu cô và tỏ lòng muốn lấy cô làm vợ. Và cô gái hỏi, Chứ chàng lao động việc gì? Vị sứ giả đáp, Ngài là hoàng tử, con vua, đâu cần phải lao động. Và cô gái nói, Chàng phải học một việc tay chân nào đó mới được.
Vị sứ giả trở về gặp nhà vua và đạo đạt lại ý nguyện của con gái người chăn cừu.
Nhà vua bảo con trai, Con gái người chăn cừu muốn con học một nghề thủ công nào đó. Con vẫn còn muốn cưới nàng làm vợ đấy chứ? Và chàng trai nói, vâng, con sẽ học dệt thảm rơm. Và chàng được dạy học dệt thảm rơm, theo mẫu và màu vẽ trang trí có sắn. Ba ngày sau chàng dệt được một tấm thảm rơm tuyệt đẹp, và vị sứ giả trở lại nhà cô con gái người chăn cừu, và nói, Những thảm rơm này là công trình lao động của hoàng tử đấy.
Và cô gái theo sứ giả về cung vua, nàng trở thành vợ của hoàng tử.
Bà tôi kể tiếp, Một hôm, hoàng tử tản bộ qua các đường phố Baghdad, tình cờ thấy một tiệm ăn sạch sẽ và tươi tắn xinh đẹp, nên chàng vào tiệm và ngồi xuống bàn.
Chỗ này, bà tôi nói, là sào huyệt của bọn cướp cửa giết người, và chúng liền ra tay bắt cóc hoàng tử, nhốt vào ngục tối cùng với nhiều danh gia vọng tộc trong thành phố, bọn chúng  giết những người béo mập, lấy thịt nuôi những người gầy yếu, và coi đây như một trò giải tri ưa thích nhất. Hoàng tử thuộc tạng người gầy, và vì không biết chàng là con vua Ba Tư, nên chúng chỉ nhốt mà không hành hạ gì chàng. Chàng nói với bọn sát nhân, Tôi là thợ dệt thảm rơm, thảm tôi làm được giá lắm. Vậy là chúng đem rơm cùng các thứ đến và bảo chàng làm việc. Chỉ trong ba ngày, cho chàng dệt được ba tấm, và chàng nói, Hãy đem những tấm thảm này đến cung vua Ba Tư, nhà vua sẽ trả cho các ông mỗi tấm một trăm đồng tiền vàng. Thế là chúng đem thảm đến cung vua, và khi nhà vua nhìn thấy tấm thảm, ông nhận ra ngay đó là tác phẩm của con trai mình, ông bèn đem đến cho con gái người chăn cừu, và nói, Chúng đem những tấm thảm này đến cung điện của ta, ta nhận ra ngay đó là do con trai ta làm ra, mà nó thì đang mất tích. Con gái người chăn cừu lấy từng tấm ra xem thật kỹ, nàng thấy nơi hình vẽ, cạnh những chữ Ba Tư có một mật hiệu riêng của chồng nàng, và nàng thuật lại cho vua cha nghe.
Bà tôi nói, Nhà vua bèn điều động binh lính đến sào huyệt bọn cướp, giải thoát cho tất cả mọi người, tận diệt kẻ hung tàn, và hoàng tử được đưa an toàn về cung điện, về với vua cha, và vợ, cô con gái nhỏ của người chăn cừu.
Khi hoàng tử bước vào cung điện gặp lại vợ hiền, chàng tự hạ mình trước nàng, và nói, Yêu  dấu ơi, nhờ nàng mà ta được sống sót, vua cha rất hài lòng với con gái người chăn cừu.
Bà tôi nói, Giờ thì cháu đã thấy là tại sao mọi người phải học lấy một nghề cao quý chưa?
Tôi nói, Cháu thấy rõ lắm bà ạ, và ngay khi kiếm được đủ tiền để mua một cái cưa, một cái búa, và một tấm ván, cháu sẽ cố hết sức để đóng một cái ghế sơ sài, một cái kệ sách hay bất cứ một cái gì khác, được vui mắt bà hơn.