Chương 7

Hôm áp lễ Giáng Sinh trời báo hiệu một cơn mưa sắp đến, phòng Mary ẩm ướt, nàng nghiêng mình ra cửa sổ, gió tạt vào mặt. Một giờ nữa, Jean chờ nàng ở đồng hoang, cùng đi Launceston. Nên đi không? Bốn ngày nay, Mary già đi: mắt thâm quầng, má hóp, bơ phờ; nàng ăn không được, ngủ không được. Có lúc nàng thấy mình cũng có vết nhăn ở trán, tóm lại nàng gần giống như dì! Nàng ở lì trong phòng, viện cớ bị cảm. Nàng xót thương dì quá: bà đã bị bí mật kinh hoàng nầy đè nặng bao lâu? Sau nầy, dù nàng có đưa dì đi đến đâu, bí mật nầy vẫn đeo đẳng bên dì. Trời ơi! Nàng đã biết rồi, cái duyên cớ khiến dì gần như mất trí. Dì nầy cũng mang tội ác, dì đồng lõa với chồng bằng sự im lặng của dì. Dì đã dung túng, mặc cho con quỉ dữ lộng hành.
Ba ngày trôi qua, sau cái đêm Mary nghe Joss kể lể. Nỗi kinh hãi, ghê tởm lắng dịu, nàng chỉ còn thấy mình già cỗi, mệt nhoài. Nàng hết thấy sợ Joss, chỉ khinh bỉ, chán ghét thôi. Joss và cả lũ thủ hạ đều là những con thú mang bộ mặt người. Chúng làm hại đất nước, làm nhục loài người và Mary chỉ yên tâm khi chúng bị loại trừ sạch. Tội lỗi chúng không thể nào xóa tẩy.
Nhưng còn dì Patience và Jean Merlyn? Nàng không muốn, nhưng vẫn thấy rõ Jean giống Joss. Khi anh ta quay đầu lại, Mary ngỡ như Joss 20 năm trước? Nàng hiểu vì sao dì nàng mê tên ác quỉ nầy.
Cho đến giờ, Mary chưa để ý đến một thanh niên nào. Ở Helford nàng đâu có thì giờ mơ mộng? Đi nhà thờ, vài anh cười duyên với nàng, nàng cũng dự vài cuộc cắm trại vào mùa gặt. Nhưng chả có ai làm nàng chú ý cả. Mary định sống một mình. Nàng dành tiền mua một nông trại. Rời lữ quán nầy, nàng lo cho dì một mái nhà, chăm sóc dì như mẹ ruột. Ôi, thì giờ đâu mà nghĩ đến đàn ông?
Ở Helford, Mary thấy các cô gái đi dạo với bạn trai, họ nắm tay nhau, bẽn lẽn nhưng thích thú. Đêm, họ cùng ngắm trăng, ngắm cảnh - làm y như chỉ ban đêm khung cảnh mới đẹp vậy? - Sóng bước bên nhau, vai kề vai, nom khá buồn cười. Ôi chao! Cô gái như phải tựa vào anh bạn trai mới bước nổi, còn anh chàng thì như dũng sĩ thời xưa, ôm ngang lưng cô bạn, ra vẻ chở che, bao bọc. Khi nào không có trăng, họ ngắm mặt trời lặn làm vui, hoặc ngắm sao đêm...
Rồi chuông nhà thờ rung lên dồn dập, người ta cắt bánh cưới, chú rể mặc lễ phục đứng trước nhà thờ, cô dâu bên cạnh trắng như đóa huệ, mặt cả hai rạng rỡ như mặt trăng rằm!
Ấy thế rồi, cỡ một năm, trăng sao có đẹp mười mươi, cả hai không còn ngắm nữa: anh chàng về nhà mệt nhoài vì việc ngoài đồng lại giận dữ vì món ăn cháy khét. Nàng tiên xinh đẹp thì từ trong phòng trả lời dóng một lại với chồng, mặt đỏ gay, gầy guộc, tóc hết cong mà ngay đơ! Nàng đi tới, đi lui, bế đứa con đỏ hỏn khóc như mèo và đã làm nàng mất ngủ suốt đêm!
Ngán quá! Ủa, mà sao Mary lại cứ nghĩ tới Jean? Để làm chi chớ? Anh ta còn tệ hơn trai làng mình - tuy khá kẻng trai, nhưng rốt cuộc, hắn chỉ là tên trộm ngựa!
Nếu anh ta có một nông trại, chưa chắc nàng đã lưu ý tới, huống hồ...
Tuy nhiên, nàng thấy cần gặp Jean. Anh ta phải trả lời câu hỏi của nàng. Anh ta đã thất vọng vì nàng đã biết rõ bí mật của Joss và đồng lõa, nhất là nàng có thể tố cáo họ bất cứ lúc nào. Mary rất tin cậy ở linh mục phó Davey. Đây là một Giáng Sinh đặc biệt.
Mary nhắm hướng núi đá Faucon đi tới. Nàng nhớ Noel vừa qua nàng đã quì cạnh mẹ cầu xin Chúa ban cho mẹ con nàng sức khoẻ, nghị lực, niềm tin, cho nông trại nàng phát đạt...
Giờ đây, Mary cô đơn, mất mát nhiều quá, nàng sống giữa kẻ nàng kinh tởm, thù ghét. Nàng không cầu xin gì ở Chúa, ngoài sự sáng suốt để giữ mình khỏi sa vào tội ác. Lát nữa đây, nàng sẽ đi chơi với Jean tên trộm ngựa, nhưng nàng không sợ hãi chút nào.
Từ xa chiếc xe tiến lại, có kèm hai con ngựa nhỏ phía sau. Mặt cô gái bừng nóng. Nàng muốn rứt bỏ thứ tình cảm yếu đuối mà không được. Jean huýt sáo khi đến gần nàng, tay vứt vào lòng Mary một gói giấy nhỏ:
- Chúc Mary một Giáng Sinh vui vẻ. Khăn cột tóc đó, Mary!
Mary có ý định dè dặt song vẻ thân mật, cởi mở tự nhiên của Jean làm nàng khó xử:
- Anh tử tế lắm, Jean. Nhưng tôi e anh tiêu tiền một cách vô ích...
Jean nói thẳng:
- Đến sớm nhỉ? Cô sợ tôi đi rồi phải không?
Mary leo lên xe, ngồi cạnh Jean, nắm dây cương, nàng không để ý tới lời anh, vì nàng thích thú nhớ lại lúc ở Helford đi chợ phiên. Mary buột miệng:
- Lên xe ngựa, tôi nhớ đến mẹ tôi... Mới đây mà sao như lâu quá... Trời ơi!
Jean khoanh tay, nhìn Mary cầm cương ngựa:
- Con ngựa nầy có thể vượt qua đồng hoang dù bị bịt mắt. Cứ tin ở nó, cô có thể thả dây cương ra được.
- Ủa, anh mang bán hai con chớ không chỉ một?
- Chớ sao. Tôi sẽ biếu cô một cái áo mới, nếu cô muốn. Thôi! Đừng có cái bộ khinh khỉnh như vậy. Ta là bạn mà! Ủa, nầy, sao cô có vẻ lạ vậy? Đau hả? Mấy hôm trước cô hồng hào, tươi tỉnh lắm mà?
- Từ hôm gặp anh đến giờ, tôi không ra khỏi phòng. Từ bốn hôm nay, tôi già đi. Đầu óc tôi đầy ý nghĩ đen tối.
- Chà! Tôi tin là được đến chợ với cô gái đẹp để thiên hạ lác mắt chơi. Nhưng nom cô thảm hại quá. Đừng dấu tôi, có chuyện gì vậy? Mary... Lại có ai đến lữ quán trong đêm?
- Không.
- Coi cái bộ cô cắn môi, mắt thâm quầng là biết. Hay... cô nhớ tôi? Hả?
- Đúng! Tôi nhớ đến anh, tôi tự hỏi: Joss và Jean ai sẽ bị treo cổ trước?
- Ê đừng giỡn chớ, không chúc lành cho người ta sao? Ta có tội gì mà lãnh án đó? Anh Joss thì được. Ảnh đáng tội! Tôi can ảnh hoài không được. Tôi không bênh ảnh đâu.
Mary liếc nhìn tay Jean, ngón dài và thanh tú nhưng mạnh mẽ. Jean la lên:
- Nhìn gì kỳ vậy?
- Tay anh. Tay anh giống như tay anh của anh... Đẹp nhưng làm tôi tởm!
- Ý trời! Sao cô cứ so sánh như vậy? Nầy, nói thật đi: tại sao cô ở lì trong phòng bốn ngày nay? Con gái ưa làm bộ bí mật quá!
- Không có gì bí mật. Jean! Tôi đã biết tại sao dì tôi sống như bóng ma. Tôi biết hết rồi! Trong cơn say kẻ ác không giữ miệng...
- A! Nhà trinh thám tài ba! Cô biết gì nào?
- Đừng hòng tôi kể ra cho anh. Tôi không ngu đâu.
- Cô vẫn ngại tôi?
- Anh là em ổng. Đủ rồi. Tốn công thì ít, hưởng lợi thì nhiều. Và, Jean! Có khi nào người chết biết tố cáo chăng?
- Đành rồi. Nhưng những mảnh tàu đắm biết tố cáo: khi gió thuận, xác tàu trôi vô bờ. Mary, tôi cho cô hay: mỗi khi có một chiếc tàu muốn vào bờ, cần có ánh sáng. Cô thấy con thiêu thân sa vào ngọn nến và chết cháy chưa? Tàu cũng vậy, nếu ngọn lửa do tay kẻ gian đốt lên. Một vài lần, câu chuyện có thể trôi qua. Nhưng nhiều lần quá, người ta sẽ tìm ra nguyên nhân. Anh Joss khôn hồn thì chấm dứt hành động độc ác đó đi, nếu không...
- Anh có đi với Joss không?
- Tôi không điên. Tôi không nhúng tay vô máu, tôi không thấy ngọt mà uống thứ rượu... Có một điều tôi muốn nói với cô: tôi chưa hề giết người. Cô tin hay không tùy ý.
Jean bỗng nóng nảy, quất mạnh lên ngựa, như để trút cơn bực tức:
- Có bánh mì và phô-ma trong giỏ, không có sâu trong phô-ma đâu. Đói thì ăn đi! Có táo với lê nữa.
Mary không biết Jean giận thật hay vờ? Oan hay không?
Chỉ thấy Jean mím môi, mắt đỏ ngầu:
- Thì ra cô cho là tôi đồng lõa với Joss, nhận chìm tàu, giết người vô tội và lục xác họ, vét tiền? Cảnh tượng ngộ quá, há? Nếu vậy, sao cô lại đi với tôi?
Mary vui vẻ:
- Anh chưa hề cải chính mà! Và mắt anh trong sáng, y như vô tội...
Nàng nói, nhìn phía khác, không khí hết ngột ngạt, mà trở thành dễ chịu. Họ như là hai đứa trẻ thân nhau từ lâu.
Xe đến quốc lộ, trời u ám báo hiệu sắp mưa. Đồi núi chập chùng trong sương mù.
Mary chợt hỏi:
_ Jean, gần đây có nhà thờ không?
- Làm sao tôi biết được? Tôi có đến nhà thờ một lần trong đời: khi còn được ẵm ngửa mà. Tôi tiếc là không chỉ dẫn cô về việc nầy được. Trong nhà thờ người ta cất chén bằng vàng trong tủ khóa cẩn thận, hả Mary?
- Bộ tính ăn trộm sao, hỏi kỹ vậy, Jean? Phải chừa nhà Chúa ra chớ!
Cả hai cùng cười, vô tư như hai đứa trẻ.
- Mary! Tôi có con ngỗng. Lại ăn Giáng Sinh với tôi, nghe? Nói cho ngay nó là của ăn trộm, nhưng không sao, thịt ngỗng là thịt ngỗng, phải không? Trại chủ Tuckett có nhiều ngỗng, ổng không hay tôi ăn cắp một con...
- Jean! Ngày mai tôi sẽ đi nhà thờ. Anh biết cha sở họ Altarnun là ai không?
- Không! Tôi chưa hề giao thiệp với mấy ổng. Họ là những người đặc biệt. Hồi còn nhỏ, tôi nghe ở North Hill có một cha sở cận thị nặng. Một bữa ông lấy lầm rượu, đáng lẽ cho bổn đạo uống rượu lễ, ổng lại cho uống rượu Cognac. Cả làng hay tin, kéo nhau đến xin rước lễ để được uống Cognac. Thấy bổn đạo đông quá, cha sở mừng lắm, sáng mắt lên, vô tòa giảng, giảng một bài dài ngoằng. Cha! Đó là một ngày đáng ghi nhớ: anh Matt bảo ảnh rước lễ tới hai lần...
Mary thở dài:
- Anh không thể nói chuyện gì đứng đắn sao? Anh không nể ai hết hả?
- Sao không? Tôi nể cái dạ dày tôi: nó đang đòi ăn. Dưới chân ta có cái hộp bánh. Nếu cô ăn chay thì có táo đó. Trong kinh thánh có nói tới táo mà!
Hai rưỡi, họ đến chợ. Cả hai cùng vui, Mary như lây sự vô tư của Jean. Nàng quên trách nhiệm, lo âu. Rời lữ quán, tuổi trẻ và can đảm của nàng hồi phục. Jean nhận thấy điều nầy, hài lòng lắm. Mary cười luôn. Quanh nàng, tiếng động, sự rộn rịp của phố xá, không khí Giáng Sinh bao phủ. Đường chật những người diện bảnh bao đi lại, các cửa hàng bày biện rực rỡ vui mắt.
Xe ngựa, xe hơi đậu đầy phố, ai cũng náo nức, màu sắc sống động. Một bà đội thúng táo bóng ngời, đỏ thẫm, mặc áo xanh. Khung cảnh như nhắc Mary kỷ niệm cũ. Giữa đám đông, một cậu bé bưng khay bánh mì thịt nóng hôi hổi rao mời lảnh lót. Một bà mặc áo nhung sang trọng bước xuống xe vào quán “Con Nai Trắng” theo sau một gã đàn ông, nom huênh hoang như con công!
Đồng hoang khuất xa, xa tít. Thành phố nằm dưới ngọn đồi. Có lâu đài to như trong chuyện cổ tích, những khóm cây, cánh đồng trải dài. Khung cảnh sống động quá, rộn rã tiếng cười đùa, chào hàng. Mặt trời cũng chường mặt ra góp vui với ngày lễ!
Mary lấy khăn Jean tặng ra cột tóc. Họ cột ngựa một chỗ rồi len lỏi giữa đám đông dạo phố. Tay Jean dắt hai con ngựa, nét mặt tự tin, Mary đi sau, đến chợ, chỗ dành cho gia súc, chỗ tụ họp của nông dân, trại chủ, những người có địa vị ở Devon. Tim Mary đập mạnh: nàng sợ người ta nhìn ra ngựa ăn trộm. Jean tỉnh bơ, quay sang nháy mắt với cô. Anh vẹt đám đông, chào một người trong bọn buôn bán ngựa rồi đến ngồi cạnh họ, đoạn châm thuốc hút. Mary đứng ngoài.
Một lát, có người đàn ông ăn vận chững chạc rẽ đám đông đến gần bầy ngựa. Lại một gã mắt ti hí mặc áo đen đến bên ông ra, thúc vào hông ông ta chỉ chỏ thì thào. Họ nhìn con ngựa của ông Bassat thật lâu, một người vuốt ve con ngựa.
- Ngựa nầy không có vẻ ngựa nuôi ở đồng hoang. Anh mua ở đâu?
- Nó đẻ ở Callington, bốn tuổi rồi đó. Jim Bray bán cho tôi ảnh nói nó thuộc giống Ái nhĩ lan và nổi tiếng ở trường đua, nhưng tôi nói trước; tôi không bán rẻ đâu.
Jean nói và lại hút thuốc, trong lúc hai người lạ xem xét kỹ con vật. Mary cảm thấy tim như ngừng đập. Gã mắt ti hí hỏi:
- Da nó có bệnh không? Sao thấy da nó cứng quá? Anh có cải trang cho nó ư?
- Giỡn chớ! Con kia thì có đau sơ kỳ hè, con nầy nguyên si mà! Tôi định nuôi sang xuân mà tốn kém quá. Nó thuộc giống cừ đó, nghe!
- Cỡ bao nhiêu? 15 livres được không?
- Đúng 18 guinees không bớt nửa xu!
Gã mắt lươn:
- Tôi không vừa ý mấy. Dấu riêng biệt của nó đâu?
Jean chỉ một khe nhỏ ở tai ngựa, rồi gặng:
- Ông có vẻ rành về ngựa quá, hả?
- Không rành lắm... Nhưng nầy, may cho anh: Jim Bray đã đi xa rồi. Tôi biết ngựa nầy! (Với ông bạn Thôi! Stevens, tôi khuyên anh đừng đụng tới nó, có chuyện đa!
- Trông nó tốt mã quá mà! Sao anh cẩn thận quá Will? Ai nuôi thì cũng vậy, có sao?
Gà mắt lươn rỉ tai bạn một thôi, ông ta bỗng nhớn nhác, lắc đầu rồi nói to:
- Vậy thì thôi. Tôi không muốn phiền phức. (Với Jean Anh giữ ngựa lại, bạn tôi không vừa lòng, giá cao quá!
Mary thở phào, nhẹ cả người. Ngựa hoang coi bộ dễ bán hơn. Xung quanh đó, người ta bán với giá 2, 3 livres một con. Đến 4 giờ, Jean cũng bán được con ngựa kia. Ngựa đen quí không được ai chiếu cố.
Chiều xuống dần, đèn đường bật sáng. Mary tính quay lại xe ngồi nghỉ thì chợt nghe một tiếng cười nịnh bợ vang lên và có tiếng đàn bà nói gì đó. Nàng quay sang, thấy người mặc áo nhung xuống xe:
- Ồ! Anh thấy con ngựa xinh đẹp kia không? Dáng bộ nó giống con Beauty quá, hả? Tiếc cái nó đen kịt... James! Anh xem...
Gã đàn ông tra kính lên mắt, cất giọng rè rè:
- Tôi không mấy rõ về ngựa. Ngựa chị mất màu xám... con nầy đen mượt. Chị ưa?
- Sao không? Mua làm quà cho lũ nhỏ. Từ hôm mất con Beauty, tụi nó cứ phá rầy ba chúng hoài. James! Hỏi giá dùm tôi, đi!
Gã đàn ông vênh váo lại gần:
- Anh kia, có bán con ngựa đen không?
Jean lắc đầu:
- Tôi hứa để cho người bạn, tôi không thể nuốt lời. Mà ông cỡi nó gì được? Ngựa nầy dành cho con nít mà.
- Vậy hả? Thôi! Chị Maria, ngựa nầy không bán.
- Uổng không? Tôi mến nó quá đi! Anh hỏi kỹ coi, tôi sẽ trả giá cao...
Gã đàn ông lại cất giọng rè rè:
- Nầy anh! Bà đây ưng con ngựa đó. Bà mất con ngựa quí, muốn thay vô. Thôi! Kệ bạn anh, cho chả đợi, rồi tìm con khác, lo gì. Bán cho bà đây đi! Giá bao nhiêu?
- Bạn tôi trả 25 guinees. Nhưng tôi không bán cho ông đâu!
Người đàn bà chen vô liền:
- Tôi trả anh 30 livres. Tôi là bà Bassat đây. Tôi muốn mua con ngựa làm quà cho con tôi dịp nầy. Bằng lòng không? Tôi thích nó quá...
Jean hất mũ, cúi đầu thật thấp:
- Xin cảm ơn bà, tôi hy vọng ông nhà và các cô cậu hài lòng, nó dễ cỡi lắm.
- Ồ! Chắc nhà tôi bằng lòng. Nom nó không bằng con Beauty đã mất, nhưng cũng khá xinh.
Bà giao tiền cho Jean rồi lại bên xe đang đợi, bảo tên đày tớ:
- Anh chạy về kêu Richards ra dắt con ngựa mới về. Đừng cho ông hay nghe. Tôi muốn ông ngạc nhiên...
Đợi bà Bassat và James đi khuất, Jean khều tay gã con trai đứng cạnh mình:
- Nầy, anh muốn có năm shillings không?
Gã con trai gật đầu, há miệng chờ. Jean nói tiếp trong khi đưa ra năm shillings:
- Giữ giùm con ngựa nầy và chờ đày tớ của bà kia ra, giao cho hắn. Vợ tôi sinh đôi và bị nguy hiểm. Tôi đợi không được. Chúc anh vui vẻ...
Jean biến mất trong một nhoáng, anh đi mau, tay đút túi quần. Mary kín đáo theo sau, mặt đỏ rần, mắt dán xuống đất, nàng phải dùng khăn quàng bụm miệng cho khỏi bật cười. Đến một nơi xa đám người, nàng dừng lại thở, Jean chờ nàng, mặt hí hửng.
- Jean! Anh đáng bị treo cổ: bán ngựa cho chính người mình đi ăn trộm! Quá, quá...
Jean cười ồ lên làm nàng cũng cười theo. Jean nắm tay cô:
- Nào! Vui vẻ chứ?
Mary gật đầu. Hai người dạo giữa không khí ấm áp hơi người. Jean mua tặng nàng một cái khăn đỏ chói và đôi khoen tai vàng. Đoạn kéo nàng đến giải khát và sau rốt, họ coi bói. Bà thầy bói già, da nhăn nheo khuyên Mary:
- Cô nên cẩn thận, coi chừng một người đàn ông tóc nâu.
Hai người cười ngất. Bà lại bảo Jean:
- Còn cậu, tay cậu sắp vấy máu. Một ngày kia, cậu sẽ giết người, giết một người.
Jean bảo cô gái:
- Thấy chưa? Tôi đã nói tôi chưa giết ai hết. Tôi vô tội mà!
Mary im lặng. Những hạt mưa nhỏ rơi trên mặt họ. Gió thổi mạnh lên, tung cả giấy, giây băng, làm các lều lung lay.
Chỉ giây lát, có mấy chiếc lều ngã sập. Táo, cam, lăn lông lốc, mưa nặng hạt. Mọi người thi nhau tìm chỗ núp, gọi nhau ơi ới. Jean kéo tay Mary vào một mái hiên, tay quàng vai nàng, âu yếm.
Mây đen kịt khắp trời, đường xá vắng tanh, mưa tạt vào mái hiên. Jean đứng quay lưng ra che mưa cho bạn. Anh tháo khăn cột tóc Mary, vuốt tóc nàng, rồi nâng mặt Mary lên, nhìn vào mắt nàng và cúi hôn nàng. Mary choáng váng một giây, nhưng nàng lại hất tay anh ra:
- Chúng ta trở về!
- Cô đòi về? Trên cái xe không mui trong lúc trời đất thế nầy? Lên dốc, gió sẽ lật xe mất, ở lại đi!
- Đừng nói chơi kiểu đó. Anh đi lấy xe đi. Tôi đợi anh đây!
- Đừng làm bộ. Về bây giờ sẽ ướt như chuột. Mary! Cô cũng yêu tôi như tôi yêu cô, phải không?
- Anh nói vậy vì tôi là người giúp việc cho lữ quán Giao Mai...
- Bỏ lữ quán khốn nạn đó đi! Tôi yêu cô là yêu cô. Tôi không có bộ vó phong lưu, nhưng tôi yêu cô! Vậy không đủ ư? Ta cần có nhau! Đừng giả vờ cứng rắn nữa... Yêu nhau là đủ...
- Đối với vài người thì đủ, nhưng tôi, rất tiếc tôi không thể...
- Hãy ở lại đêm nay với anh, Mary!
- Không! Không và không! Thà tôi chịu ướt trên xe!
- Tim cô như đá rắn. Rồi cô sẽ hối cho mà xem. Tôi sẽ mua cho cô cái nhẫn, nếu cô muốn...
- Tôi chỉ muốn về. Nếu quả anh yêu tôi, hãy cho tôi về.
- Đành vậy, chờ đó, tôi đi lấy xe.
Jean cúi đầu, chạy ra giữa mưa, mất hút sau dãy phố lầu. Mary nép sát vào mái hiên. Nàng biết trở về lúc nầy là điên: 11 dặm với chiếc xe trần, giữa gió mưa. Nhưng ở lại với Jean ư? Nàng không thể, tuy nàng cảm động nghĩ đến anh... Có thể nàng yêu Jean! Nhưng nàng không điên rồ đến thế. Nàng không muốn lệ thuộc Jean. Nàng biết tự trọng...
Nàng nóng ruột, không đứng đợi nữa, men dọc theo mái hiên tìm Jean. Nàng đến chỗ gửi xe, qua khe cửa, Mary thấy trống trơn. Nàng gõ bừa vào nhà bên cạnh. Có tiếng mở khóa canh cách rồi tiếng càu nhàu:
- Hỏi gì vào giờ nầy? Không có gì cho ăn đâu.
- Tôi không xin ăn, tôi tìm một người bạn, anh ta gởi xe đây.
- Xin lỗi cô, anh ta có đến và đi hơn 20 phút rồi, có vẻ vội lắm. Hình như đi với tên bồi quán “Nai Trắng” thì phải. Cô nên lại đó hỏi coi.
- Cảm ơn ông.
Nàng nói và hấp tấp đến quán “Nai Trắng”. Bụng thắc mắc, không biết Jean đến đó làm gì? Có thể ông ta lầm. Nhưng nàng còn biết đi đâu, cứ đến đó xem sao.
Bên trong đèn sáng rỡ, chả thấy xe ngựa của Jean đâu. Hay Jean bỏ về một mình? Không có lý nào. Nàng đẩy cửa bước vào, nhiều tiếng cười rộ khi thấy nàng. Tên bồi chạy đón, Mary nói liền:
- Tôi tìm Jean Merlyn. Xin ông hỏi dùm cho.
Tên bồi gật đầu, bước vào trong, Mary bỗng lạnh người khi thấy gã mắt lươn và ông bạn hắn. Nàng linh cảm chuyện bất lành. Tên bồi trở ra, dấm dẳn:
- Chiều nay đông khách quá, tôi không thể biết ai là Jean Merlyn.
Mary không kịp có thái độ gì thì tên mắt lươn tiến lại:
- Nếu cô định tìm tên bán ngựa thì tôi biết, (gã cười khả ố) cách đây 10 phút nó bị buộc lên xe. Cô biết chuyện ngựa đen, há? Ngựa quí mà!
Mọi người cười vang. Mary bình tĩnh hỏi:
- Ông biết họ đi đâu không?
- Rất tiếc, mà gã cũng không nhắn gì cả. Tối rồi, quên tên đểu đi, cô ạ! Vô đây, ăn réveillon với tôi cho vui!
Mary quày quả đi ra. Trận cười khả ố như đuổi theo nàng. Thế là hết! Không biết tên trộm ngựa có bị treo cổ như sát nhân không? Tội nghiệp Jean quá!
Thành phố tối om, buồn bã. Mary bước tràn không kể gió mưa, lòng tan nát...
Bỗng một cái xe lên dốc, ngược chiều với nàng, trông như con nhện khổng lồ. Như kẻ chết đuối gặp thanh ván trôi gần, Mary bám lấy. Cô chạy theo, kêu to:
- Ông đi đâu? Có chở ai không?
Phu xe lắc đầu, giục ngựa nhanh hơn, nhung đột nhiên, một bàn tay rắn chắc đặt lên vai cô gái:
- Mary Yellan! Cô đi đâu trong đêm Giáng Sinh một mình thế nầy?
Giọng nói êm ái, quen thuộc, gương mặt trắng, mái tóc trắng, cặp mắt thủy tinh của linh mục phó xứ Altarnun hiện ra.
Chúa ơi! Đó không phải phép mầu của Chúa sao?
Trong xe tranh tối, tranh sáng, cha phó với nét mặt thanh tú, mũi hơi quặp như mỏ chim, môi mỏng và mím chặt. Giọng êm ru:
- Lần nữa, cô gặp tôi, ướt như chuột. Cởi áo choàng ra và cả vớ nữa, trong xe không gió, Mary ạ! Lấy khăn khoác vào cho ấm!
Mary bối rối làm theo lời cha Francis. Ông vẫn dịu dàng:
- Thế nào? Con đến đây làm chi?
Cũng như lần trước, Mary không thể dấu diếm ông điều gì. Nhưng nàng không dám nói đến tên Jean, làm y như đó chỉ là một người lạ. Đợi nàng nói xong, linh mục hỏi:
- Thế ra con cũng không đến nỗi cô đơn ở chỗ heo hút hoang vắng nầy nhỉ? Tên hắn là gì?
Mary cảm thấy mình bị chế giễu, nhưng khi nàng nhìn linh mục, nàng lại vững lòng. Nàng kể tên Jean cho ông biết và còn bạo dạn thêm rằng Jean không giống anh... Linh mục hơi cao mặt:
- Cô muốn nói là Jean không biết gì về tội ác anh hắn? Hắn chỉ ăn trộm ngựa thôi, phải không?
Mary nài nỉ:
- Thưa cha, cha có nói với con là cha quen ông Bassat xin cha giúp anh ấy, ảnh còn trẻ... có thể làm lại cuộc đời.
Sự im lặng của cha phó làm Mary xấu hổ thêm. Chắc ông cho nàng là đứa mất nết hay đứa ngốc?
- Mary! Cha không quen thân với ông tòa. Gặp nhau chào hỏi qua loa thôi. Vả lại, không chắc ông ấy tha tội trộm ngựa của Jean vì nể cha đâu.
Mary im lặng nghe. Mưa vẫn rơi, gió càng dữ bên ngoài. Giọng linh mục ôn tồn:
- Cô còn trẻ, hãy quên đi! Một cô gái không nên quan tâm nhiều đến một chàng trai gặp gỡ đôi lần và nụ hôn đầu tiên cũng không là một kỷ niệm khó phai. Nín đi!
Mary ngạc nhiên: linh mục không hề nhắc đến Chúa, đến một lời cầu nguyện như các tu sĩ khác. Và nàng bỗng kinh hoảng nhớ ra rằng nàng quên phắt Joss Merlyn với những giờ khắc nặng nề trong lữ quán.
- Thưa cha, cha có nghe đến chuyện đắm tàu không?
Rồi, không gìn giữ nữa, nàng thao thao kể hết những điều Joss nói với nàng. Giọng linh mục hết dịu dàng:
- Vậy ra khi say, tên Joss nói toạc hết?
Mary ngước nhìn linh mục, khác với giọng nói, mắt ông bình tĩnh, lạnh lùng.
Mary nức nở:
- Thưa cha, vâng! Ghê gớm quá. Chính vì vậy mà con mất hết khôn ngoan, bình tĩnh, hết tin tưởng, con đã hành động như người mất trí khi cùng Jean đi Lauceston!...
Gió tạt vào xe những hạt cát to gần bằng hạt sỏi, gió hơi có mùi mặn của bể.
Cha phó nói:
- Gần tới ngã năm rồi. Tôi sẽ xuống xe đi bộ về. Còn cô, cứ ngồi yên, xe đưa cô đến lữ quán. Quên, bí mật của cô chỉ mình tôi biết hay Jean cũng được nghe cô kể cho nghe nữa?
- Thưa cha, Jean hình như cũng biết, nhưng anh em ảnh không hợp nhau.
- Vậy thì con yên tâm. Tôi vừa đi họp về. Đại diện của Hoàng Đế quyết định ngăn các vụ đắm tàu bằng cách cho tuần phòng bờ biển kỹ càng, từ nay Joss sẽ chết mòn vì rượu, cô sẽ yên giấc, và đợi người yêu được tha về.
Ông sửa soạn xuống xe. Mary toan xin được theo ông nhưng không kịp nữa.