Chương 34

- Chúng ta đến châu Mỹ rồi phải không? – Một cậu con trai nhà ông Care hỏi.
- Thật tình tôi cũng chẳng biết, nhưng tôi tin là đã đến – Maxian nói.
- Trông chẳng giống như ông mục sư Rôsơpho viết.
- Nhưng mà đẹp hơn
Chỉ nghe tiếng lũ trẻ cất lên trong khi hành khách ngồi túm tụm trên bong tàu với vẻ im lặng nặng nề.
- Sắp đến đất liền à?...
- Phải!
- Rồi cũng phải đến!
Mọi người nhìn về phía rừng cây. Do sương mù dâng lên từng đợt, lúc dày, lúc mỏng, khó ước lượng được khoảng cách. Mãi sau này Angielic mới biết rằng phong cảnh ở đây ít khi lộ ra hoàn toàn như cái vẻ tinh khôi mà nàng vừa nhìn thấy và sẽ không bao giờ quên được đó. Thường thường phong cảnh chỉ lộ ra từng quãng lúc nào cũng có một vài chỗ ẩn khuất và bí hiểm như để gợi nỗi lo âu hoặc tọc mạch của con người.
Tuy nhiên thời tiết cũng đủ sáng sủa để có phân biệt được đất liền và những chiếc xuồng làm bằng vỏ cây sơn đỏ, nâu, trắng đang từ bãi biển hướng tới con tàu.
Manigô, Bécnơ và bạn bè của họ đều nhìn về hướng đó khi vừa từ hầm tàu chui lên. Từ phía ghềnh dựng đứng là một bức tường nước đang gầm thét và thở hồng hộc. Đối với những kẻ bị giam giữ, đám bọt nước khủng khiếp này tượng trưng cho sự bất lực của họ trong ý đồ trốn thoát khỏi cái hang ổ được canh giữ cẩn mật này.
Tuy vậy, họ cũng bước đi một cách vững vàng. Angielic hiểu ngay rằng họ vẫn chưa biết vì cớ gì mà người ta đã tháo bỏ xiềng xích cho họ và đưa họ lên boong tàu. Rescartor kéo dài sự trả thù bằng cách cứ để cho họ sống trong tình trạng mập mờ chết người làm căng thẳng thần kinh và chắc hẳn họ nghĩ rằng việc hai thủy thủ câm như hến đến săn sóc họ là sửa soạn cảnh tang tóc của họ đây. Quả vậy, người ta trả lại cho họ những đồ dùng cần thiết để cạo râu, mang tới cho họ khăn trải giường trắng tinh và quần áo họ thường mặc, cũ lắm rồi nhưng sạch sẽ và thẳng thớm.
Họ xuất hiện, gần như giữ được dáng vẻ trước đây. Angielic cảm động thấy họ không bị xiềng xích, đúng như chồng nàng đã báo trước với nàng. Nàng vô cùng cảm biết ơn chàng vì nàng biết vì sao mà chàng đã tránh cho họ khỏi chịu nhục trước con cái họ.
Đấy chính là vì nàng, vì để đẹp lòng nàng! Nàng đưa mắt tìm chàng. Chàng vừa xuất hiện một cách bất ngờ như thói quen, vẫn mang trên mình chiếc áo choàng lớn màu đỏ chàng mặc hôm qua. Và những chiếc lông chim màu đỏ và đen trên chiếc mũ phớt của chàng góp thêm với rừng lông chim rung động khắp nơi. Những người da đỏ lặng lẽ lên cả boong tàu với vẻ nhanh nhẹn của loài khỉ. Chỗ nào cũng có. Sự im lặng và cái nhìn bí ẩn của những con mắt xếch ngược lên của họ gây ấn tượng bức bối.
“Ngày xưa ta cũng đã trông thấy một người da đỏ trên Cầu Mới – Angielic nhớ lại – Một người thủy thủ già chỉ cho ta như chỉ một vật lạ. Hồi đó ta không nghĩ là rồi mình cũng có lúc đến tận Tân lục địa, sống với họ và có thể còn phụ thuộc vào họ nữa”.
Đột nhiên, những người Anhđiêng quắp những đứa trẻ nhỏ nhất và biến mất. Các bà mẹ kinh ngạc và hoảng hốt kêu lên.
- Ê! Bình tĩnh nào các mụ lắm điều – Ngài đờ Uyêcvin vui vẻ nói lớn. Ông ta vừa lên tàu bằng chiếc xuồng lớn của tàu Gunxbôrô – các ngươi quá đông nên không đào đâu ra xuồng mà chở hết. Các ông bạn người Môhican sẽ chở bọn trẻ con bằng những chiếc thuyền nhỏ làm bằng vỏ cây của họ. Có gì mà phải hốt hoảng lên như thế. Đấy đâu phải là những người man rợ!...
Thấy nét mặt vui vẻ của ông ta, lại còn nghe ông ta nói tiếng Pháp, các bà vững tâm. Tay cướp biển xứ Noócmăngđi chăm chú nhìn những gương mặt đàn bà.
- Trong số các mụ này, có khối bà xinh ra phết – ông ta nhận xét.
- Bây giờ đến lượt tôi nói với anh: hãy bình tĩnh ông bạn ạ - Giôphrây đờ Perắc nói – Anh chớ quên là anh đã lấy con gái ngài Đại tù trưởng của chúng ta và anh phải thật chung tình với cô ta nếu như anh không muốn nhận một mũi tên cắm phập vào giữa con tim lông bông của anh.
Ngài Uyêcvin nhăn mặt, rồi ông ta nói to là đã đến lúc phải quyết định xuống xuồng và ông ta sẵn sàng đón vào cánh tay ông ta một bà can đảm nhất trông số các bà đây.
Với ông ta, bầu không khí bi đát tuồng như bỗng nhiên bị xua tan. Biết là cuộc hành trình đã kết thúc, người nào người nấy chuẩn bị sẵn số ít của cải mang theo từ lúc rời La Rôsen.
Angielic được mời ngồi chiếc xuồng cỡ lớn. Những người bị giam giữ cũng được đưa xuống theo, cùng với mục sư Bôke, Abighen, bà Manigô và các cô con gái của bà ta, bà Mécxơlô và Bécti, bà Care và một phần đàn con của bà ta.
Giôphrây đờ Perắc nhảy xuống sau cùng, đứng trước mũi xuồng và ngỏ lời mời mục sư đến cạnh chàng.
Ba chiếc khác do các thủy thủ hướng dẫn chia nhau chở hết số hành khách còn lại.
Rời khỏi con tàu Gunxbôrô chẳng ai còn lòng dạ nào mà ngoái nhìn lại nó. Đã hạ hết cột buồm, nó đang lắc lư. Người ta chỉ nhìn về phía bờ biển.
Các con thuyền tiến vào bờ kéo theo cả một hạm đội những chiếc xuồng nhỏ làm bằng vỏ cây của người da đỏ, từ đấy vang lên một điệu hát trầm, nhịp theo tiếng sóng. Trong giờ phút họ đang sống đây, khúc ca đơn điệu đó đem lại một vẻ trang nghiêm mà mọi người đều cảm thấy. Sau những ngày dài sóng gió giữa trời nước mênh mông, vùng đất nguyên sơ đã xuất hiện trước mắt họ. Vào gần bờ họ thấy một đám người sặc sỡ màu sắc tập hợp trên một bãi nhỏ đầy cát và vỏ sò màu hồng nhạt. Những tảng đá lớn màu đỏ và đỏ sẫm, nhô lên gần bờ và nối nhau tạo trùng điệp trên sườn dốc đá hoa cương, được bao bọc bởi những rừng thông mênh mông, xen lẫn màu trắng xương xẩu của mình những thân cây phong và tán lá cuồn cuộn của những cây sồi to lớn.
Dưới chân những hình thù khổng lồ đó, con người trông cứ như những con kiến đang bò đi bò lại, cứ như từ trong các rễ cây chui ra. Nhưng nhìn gần hơn, người ta thấy một đường mòn dốc đứng chạy đến tận một khu rừng trồng giữa dốc, trên mặt phẳng nghiêng ra biển. Ở đấy có mấy túp lều thấp lè tè và mấy căn nhà lá của người Anhđiêng. Rồi con đường còn vươn mãi đến tận chóp núi và người ta phát hiện ra một loạt pháo đài xây toàn bằng những khúc gỗ tròn. Một hàng giậu dài, cao mười bộ làm bằng toàn thân cây thông, vây quanh một ngôi nhà cao hơn có hai ngọn tháp hình vuông.
Hàng giậu được trổ bốn hành lang ngầm dưới đất ở cuối đường người ta có thể thấy con mắt tròn của những cỗ đại bác đang rình rập.
Mặc dù có dấu vết của sự sống, nơi này vẫn mang một vẻ đẹp hoang dã và vô tình không thể so sánh được. Nhất là các màu, như được đánh bóng rực rỡ với nhiều sắc độ, được làm giàu thêm bởi sương mù bay qua đã đem lại một cảm giác siêu thực. Rồi cả tầm cỡ của các vật. Mọi thứ ở đây hình như đều đồ sộ, quá lớn đè nặng.
Họ nhìn, câm lặng. Cả xứ sở thu vào tầm mắt họ.
Chiếc xuồng được một ngọn sóng sủi bọt mang đi, chạm vào bãi sỏi màu đỏ như máu dưới làn nước trong suốt, đột nhiên biến thành màu tím. Mấy người thủy thủ lội xuống nước ngập đến thắt lưng để kéo thuyền lên bãi biển.
Giôphrây đờ Perắc vẫn đứng trước mũi thuyền quay lại mục sư.
- Thưa mục sư, cái vũng heo hút, khuất nẻo này trước đây và bây giờ cũng vậy, bao giờ cũng là nơi ẩn náu của bọn cướp…Từ thuở xa xưa, những nhà hàng hải phương Bắc mà người ta gọi là Viking, những kẻ tà đạo, từ châu Âu đến cũng tìm nơi ẩn náu ở đây. Họ đều là bọn cướp hoặc những kẻ giang hồ hảo hán, những kẻ sống ngoài vòng cương tỏa và tôi tự xếp mình vào hàng ngũ những người đó mặc dù tôi không đi tìm tội ác cũng chẳng đi tìm chiến tranh. Luật lệ duy nhất tôi phải tuân theo là luật lệ của riêng tôi. Thưa mục sư, tôi muốn nói rằng, cha sắp sửa là người đầu tiên của Chúa, đã đến được những vùng đất này và nắm lấy quyền sở hữu. Vì vậy tôi đề nghị mục sư đổ bộ xuống trước nhất và hướng dẫn người của cha đến miền đất mới.
Ông già không ngờ lại có được lời thỉnh cầu như vậy, vụt đứng dậy. Ông ôm chặt cuốn Kinh thánh dày cộp là tất cả gia tài của ông vào ngực. Không cần chờ được giúp đỡ, với vẻ nhanh nhẹn không ngờ, ông nhảy từ xuồng xuống và lội băng băng dưới nước, vượt qua một khoảng cách ngắn đi vào bờ.
Mái tóc của ông phất phơ trước gió vì ông đã để mất chiếc mũ trong lúc đi đường. Ông tiến về phía trước, gầy, đen và sau một quãng đi trên bãi biển, ông dừng lại đưa cuốn Thánh kinh lên cao quá đầu và hát một bài thánh ca. Những người khác đồng thanh hát theo.
Đã bao nhiêu ngày rồi họ không có dịp hát lên như thế để ca ngợi Chúa, cổ họng họ cháy bỏng vì muối, con tim họ tan nát vì buồn lo nên họ không muốn cùng nhau cầu nguyện. Tụ họp quanh vị mục sư của họ, họ hát với giọng loạc choạc của những người đang hồi sức. Có mấy người vừa đi lại được vài ba bước chân đã quì thụp xuống như bị ngã khuỵu. Những người Anhđiêng trên các thuyền con bế các đứa trẻ trên tay. Tương phản với nước da nâu bóng như đồng, những đứa trẻ châu Âu này nhợt nhạt và thảm hại trong những bộ quần áo bạc màu rộng thùng thình vì người chúng gầy. Chúng giương những đôi mắt lạ lẫm nhìn lên.
Người ta đứng vòng trong vòng ngoài để nhìn ngắm những người mới đến, đại diện cho sự pha trộn kỳ lạ nhất của loài người, “tộc người Đâu Ixt” – Giôphrây đờ Perắc gọi thế. Đàn ông và đàn bà Anhđiêng, dân bản hay chiến binh với những chiếc lông chim, lông thú, giáo mác sáng ngời, sơn phết đầy mình, những người đàn bà mang trên lưng mỗi một người một cái bọc nhỏ sặc sỡ bó chặt đứa con mới đẻ của họ, tiếp đến là bọn người quần áo đốm sọc sặc sỡ của đoàn thủy thủ, từ người Địa Trung Hải đen sạm đến chàng trai trắng nhợt tóc hung của vùng bắc Âu, Ericxon béo lùn, nhai thuốc lá, bên cạnh một người nhà quê ở thành phố Napơlờ đội mũ chụp đỏ, trong khi những chiếc áo choàng của hai người Ả rập phồng lên trong gió, cả hai đều mang theo gươm ngắn, gươm dài. Mấy người râu xồm kiểu Nicôla Perôt mặc áo da, đội mũ lông thú chống tay lên khẩu súng trường nhìn ra xa, trong khi một tốp lính canh người Tây Ban Nha áo giáp, mũ sắt màu đen bóng lộn, đứng cứng nhắc, tay cầm ngọn giáo dài như sắp sửa đi diễu binh.
Một nhà quí tộc Tây Ban Nha gầy gò với bộ ria đen nhánh kỳ dị hình như là chỉ huy của họ. Angielic đã trông thấy ông này trên tàu Gunxbôrô, trong trận tấn công làm tiêu tan mọi hy vọng của những người Tin lành. Ông ta mím chặt môi và chốc chốc lại nhe răng ra trông đến là dữ tợn, không nghi ngờ gì nữa, vị thần dân của Đức hoàng thượng chí thánh, đang vô cùng đau khổ và phẫn uất vì phải trông thấy những kẻ dị giáo đổ bộ xuống vùng bờ biển này. Với Angielic, ông ta là kẻ bất lịch sự nhất trong tất cả mọi người. Ông ta làm gì ở đây, con người như từ khung ảnh thiếp vàng của đại lãnh chúa Tây Ban Nha bước ra này?
Nàng mải nhìn ông ta và bọn lính cứng đờ như gỗ của ông ta đến nỗi vấp khi bước xuống xuồng. Nàng muốn gượng lại. Có điều gì xảy ra vậy? Tất cả quay cuồng. Mặt đất dâng lên và hụt hẫng dưới chân nàng. Nàng cũng vậy, suýt nữa thì ngã khuỵu xuống.
Một cánh tay vững vàng giữ nàng lại và nàng thấy chồng mình cười.
- Đất liền làm em kinh ngạc. Cả mấy hôm nữa, em vẫn còn cảm thấy như mình ở trên boong tàu.
Cứ thế vịn tay chàng, nàng bước lên bãi biển. Cử chỉ của chàng chỉ tình cờ nhưng nàng nhận ra rằng đấy là một điềm lành.
Tuy vậy những khẩu súng trường của đám thủy thủ tàu Gunxbôrô chĩa vào những người đàn ông Tin lành không cho phép được quá lạc quan.
Những xúc động đầu tiên qua đi, đám đàn ông này và gia đình của họ đang lo lắng đợi chờ số phận của mình được định đoạt. Cứng rắn với bản thân cũng như với mọi người khác, họ chẳng hề có chút ảo tưởng nào về tương lai được dành cho họ. Ở đây luật ăn miếng trả miếng sẽ ngự trị một cách chắc chắn hơn và họ chẳng mong gì ở lòng độ lượng của con người mà nhiều lần họ đã đọ sức về tài nhanh nhẹn trong đòn đánh trả. Hãy còn sống là điều hầu như làm họ ngạc nhiên.
Những người Anhđiêng đến gần và đặt xuống dưới chân Manigô và người nhà của ông ta những bắp ngô kết lại thành từng bó, những sọt rau và các thứ thức uống khác nhau đựng trong những chiếc bình rất lạ hình tròn hoặc dài, hình như làm bằng một thứ gỗ rất nhẹ và những món ăn chín bày trên các tấm vỏ cây phong.
- Đây là đoạn đầu của cuộc đón tiếp dành cho Đại tù trưởng – Bá tước đờ Perắc giải thích – Ngài chưa có mặt ở đây nhưng sắp sửa đến.
Manigô vẫn trong trạng thái căng thẳng.
- Ngài định làm gì chúng tôi đấy – Ông ta hỏi – Bây giờ đã đến lúc nói ra rồi đấy, thưa ngài! Nếu cái chết đón chờ chúng tôi thì bày ra cái trò hề đón tiếp này phỏng có ích gì?
- Ông hãy nhìn quanh ông kia. Không phải là cái chết mà là sự sống…Bá tước nói với một cái khoát tay rộng ra khắp cảnh sầm uất trước mặt.
- Tôi hiểu rằng như thế tức là ngài hoãn lại cuộc hành hình đúng không?
- Đúng thế, tôi hoãn lại.
Những khuôn mặt nhợt nhạt và mệt mỏi của những người Tin lành hồng hào lên. Họ đã dũng cảm chuẩn bị cho cái chết của họ và vẫn còn nghi ngờ nhớ lại lời nói không thương xót “Ăn miếng trả miếng” mà chàng đã ném vào họ.
- Tôi cũng tò mò muốn biết lòng khoan dung của ngài đang che giấu cái gì? Mécxơlô lầu bầu.
- Tôi sẽ bộc lộ hết cho ông thấy và tính tò mò của ông sẽ được thỏa mãn. Vì đằng nào thì các ông cũng có nợ máu đối với tôi, thưa các ông, đối với những người của tôi mà các ông đã giết chết, trong đó có hai người là bạn thân thiết nhất của tôi.
- Chúng tôi phải trả giá nào đây?
- Nhà quí tộc dẫm dẫm chiếc ủng đỏ xuống lớp cát đỏ.
- Ở lại đây và xây dựng một hải cảng có thể trở lên giàu có hơn, rộng lớn hơn và nổi tiếng hơn La Rôsen.
- Đây là điều kiện để giải thoát chúng tôi?
- Phải…nếu quả thật sự giải thoát là để con người theo đuổi một sự nghiệp của cuộc sống.
- Ngài bắt chúng tôi làm nô lệ cho ngài phải không?
- Tôi hiến cho các ông một vùng đất kỳ diệu.
- Trước hết, đây là đâu? – Manigô hỏi.
- Chàng trả lời cho họ biết là hiện giờ họ đang ở một nơi trên bờ biển Đâu Ixt, miền đất trải dài từ Bôxton đến tận Hải cảng – Hoàng gia ở Tân Êcôxờ, tiếp giáp ở phía nam với ban Niu Oóc, ở phía bắc với Canada và là một phần của mười ba bang xứ thuộc địa của Anh quốc.
Ông chủ tàu La Rôsen, Bécnơ và Lơ Gan nhìn nhau khiếp đảm.
- Cái mà ngài đòi hỏi ở chúng tôi là chuyện điên rồ. Vùng bờ biển lởm chởm này nổi tiếng là không thể cập bến được – Lơ Gan nói – Đây là một cái bẫy của thần chết đối với mọi loại tàu thuyền. Không một con người văn minh nào có thể cắm rễ ở đây.
- Đúng thế. Trừ cái chỗ tôi đã đưa các ông đến đây. Chỗ mà các ông cho là một lối đi vào rất khó khăn chỉ là một cái ngưỡng cửa bằng đá, tàu có thể đi qua khi thủy triều lên cao và sẽ là một nơi trú đậu bất khả xâm phạm trong vùng vịnh bình lặng này.
- Là một nơi ẩn nấp của bọn cướp biển thì tôi không phủ nhận. Nhưng để xây dựng một hải cảng thì những chuyện kể của các nhà hàng hải chẳng cho ta một hy vọng nào cả, Sămpơlanh cũng đã hãi hùng. Ý đồ di dân đã làm cho những người khốn khổ được đưa đến đấy chết hàng loạt. Đói rét, sóng thần dữ dội hơn bất cứ nơi nào trên thế giới…Đấy là số phận ông dành cho chúng tôi – Ông ta nhìn hai bàn tay trần trụi của mình- Ở đây chẳng có gì hết và ông để chúng tôi cùng vợ con chết đói.
Ông ta vừa dứt lời, Giôphrây đờ Perắc đột ngột vung tay ra hiệu cho một thủy thủ ngồi trong xuồng. Chiếc xuồng lao về phía những mỏm đá đỏ nhấp nhô trên mặt biển.
- Các ông lại đây.
Họ chậm rãi đi theo. Sau khi tưởng là người ta sắp sửa cho dây thòng lọng vào cổ, họ thấy người đàn ông quỉ quái này mời họ đi dạo chơi một vòng trên bờ biển. Họ đến doi đất cuối cùng, nơi chiếc xuồng đang ghé vào, những người thủy thủ tung lưới.
- Trong số các ông có ai làm nghề đánh cá không? Chắc hẳn là mấy ông này – Bá tước vừa nói vừa túm vai hai người dân của xóm chài Xanh Môrixờ và nhất là ông Lơ Gan này. Các ông hãy lên thuyền, ra khơi và thả lưới đi.
- Đồ vô thần! –Mécxơlô gầm lên – Ông dám nhạo báng cả Thánh thư.
- Đồ ngu! – Perắc vui vẻ quật lại – Không thể có hai cách khác nhau khuyên người ta làm cùng làm một việc để đạt cùng một kết quả.
Quả thật khi những người đi đánh cá trở về, tất cả bọn họ phải xúm lại mà kéo vì lưới đầy nặng cá.
Cá nhiều vô kể, nhiều loại cá và cá to quá làm họ bàng hoàng. Ngoài các loại cá giống như ở bờ biển Sarăngtờ, còn có những loại cá hầu như họ chưa từng biết, cá hồi, cá bơn lưỡi bò, cá tầm. Nhưng họ đã được thưởng thức cái ngon của các loại cá này sau khi được hun khói. Những con tôm hùm to kềnh to càng, xanh màu thép giãy giụa dữ dội trong đám cá lấp lánh.
- Hàng ngày các ông có thể cất những mẻ lưới như thế. Có những thời kỳ hàng đàn cá lũ cá tuyết kéo nhau về ẩn náu trong hàng nghìn khúc cuộn của bờ biển. Những con cá hồi ngược lên các dòng sông để đẻ.
- Các loại cá sau khi muối hoặc xông khói có thể tiếp tế cho các tàu bè ghé đậu ở đây – Ông Bécnơ bây giờ mới mở miệng.
Ông ta có vẻ suy nghĩ. Ông ta bắt đầu tưởng tượng ra những kho chứa tối om nồng nặc mùi muối với những thùng sắp xếp đâu vào đấy trong bóng mát.
Bá tước đờ Perắc nhìn ông ta với con mắt cảnh giác nhưng cũng rất đồng tình.
- Hẳn là thế…Dù sao đi nữa thì các ông cũng không còn sợ bị đói. Chưa kể đến thú rừng đầy rẫy để săn bắn, hái lượm nho rừng và mật hoa cây bằng thích và mùa màng rất tốt của người Anhđiêng mà tôi sẽ nói chuyện với các ông sau và để các ông tự đánh giá lấy.