Chương 1

Hàng đêm Ngọc Duy cứ chìm trong những cơn ác mộng, anh thấy lưỡi hái tử thần luôn rình rập và muốn chụp xuống đầu anh bất cứ lúc nào.
Thật khủng khiếp, trong cơn ác mộng Ngọc Duy cứ nhìn thấy một tên đao phủ có tướng người to béo như ông hộ pháp, mặc nguyên bộ một bộ đồ màu đỏ thẫm, còn trên mặt được trùm kín bằng một nặt nạ vải màu đen chỉ chừa lại đôi mắt, mà anh đoán chừng tên đao phủ đang nhìn chăm chăm vào vị quan tòa áo đỏ chờ đợi giờ hành quyết tội nhân.
Dưới sàn xử giảo Ngọc Duy còn thấy đông đủ bên nguyên cáo hiện diện, đứng chứng kiến buổi hành hình một tên phạm tội lừa đảo tình tiền và tội giết người không gớm máu.
Trong số nguyên cáo toàn là những hồn na, bởi họ bị tên Ngọc Duy giết chết cách đây không lâu, để phục vụ cho tham vọng tranh đoạt kho báu đồng đen quý giá từ chiếc hộp khảm xà cừ từ cha mẹ Trâm Anh để lại.
Đứng trên sàn xử giảo, hai tay Ngọc Duy bị trói chặt ra sau. Anh thấy một bên là sợi dây thòng lọng đang buông thõng xuống ngang tầm với cổ, còn dưới chân là nắp ván sàn, mỗi khi hành quyết tên đao phủ sẽ bấm nút cho nắp ván chợt bung ra, làm tấm thân vạm vỡ của anh không dưới bảy mươi ký lô sẽ trượt thẳng người xuống dưới đáy để đầu treo lơ lửng, cổ bị nghẹt thở cho lưỡi phải thè dài ra như con ma thần vòng lãoTriệu hay con ma mất lưỡi Trương Dìn kia.
Còn một bên là cái máy chém từ thời Tây thời Nhật để lại, Ngọc Duy biết cái máy chém này có lưỡi đao thật bén ngọt. Bởi trước khi muốn hành quyết một ai, tên đao phủ đã thử lại lưỡi dao bằng cách, cho dầu một con heo đưa vào trong ngàm gỗ, là hai thanh gỗ được khoét tròn vừa đủ giữ chặt một đầu người, rồi “bụp” một cái, lưỡi dao từ trên cao lao xuống chỉ trong nháy mắt, đầu con heo đã rơi lăn lóc xuống cái rổ chứa mạt cưa để phía trước.
Còn thân mình ư? Bên cạnh đó là cái quan tài chỉ có 6 tấm ván bằng phẳng, sẵn sàng cho tên đao phủ đưa xác anh qua nằm trong đó rồi đem ra nghĩ trang chôn cất một cách vội vàng.
Chỉ có hai hình ảnh xử giảo đó đã làm cho Ngọc Duy đâm khiếp hãi, mồ hôi cứ tuông ra như nước.
Lúc này vị quan tòa áo đỏ đang nhìn Ngọc Duy rồi ông ta dõng dạc lớn tiếng hỏi:
– Bị cáo đã nhận ra hết tội lỗi của mình chưa?
Và không để cho Ngọc Duy lên tiếng, một hồn ma nữ đang lớn tiếng thét lên trước mọi người:
– Hắn là tên giết người, hắn từng lừa đảo ái tình tiền bạc của tôi, xin tòa hãy xử hắn bị chết chém đi!
Đó là tiếng thét của Trâm Anh, người con gái có thời gian Ngọc Duy đã sống bên nàng như tình nghĩa vợ chồng, rồi tiếp theo tiếng thét của nàng là những tiếng la gào hú hét của bầy oan hồn đang nổi lên như sóng cuộn:
– Xin ông tòa hãy cho hắn chết thành con ma thần vòng, rồi đem xác qua máy chém mà chặt đầu. Tên Ngọc Duy này mang nhiều tội lỗi quá, có như vậy oan hồn chúng tôi mới được siêu thoát...
Những tiếng la thét ấy toàn là nguyên cáo đang cố tình buộc tội Ngọc Duy, khiến anh phải câm nín sau khi vị quan tòa áo đỏ vừa lên tiếng hỏi lại tội trạng của anh...
Ngọc Duy và Trâm Anh là một cặp nhân tình, tuy nhan sắc nàng còn thua kém nhiều cô gái khác, nhưng Ngọc Duy vẫn tỏ ra yêu thương chiều chuộng nàng hết mực, vì trong tình yêu này cả hai người đang chất chứa nhiều mưu đồ.
Vì thế khi cả hai đi vào khu Đại Thế Giới không phải để đánh bạc mà tìm một gã hồ ly có tên Mã Thành, người được lão Triệu bác ruột của Trâm Anh cho biết, có thể gã họ Mã biết được chiếc hộp khảm xà cừ đang do Trâm Anh cất giữ sẽ nói lên một bí mật nào đó, có thể là một kho báu quý giá không chừng.
Cho nên cả hai người đến lui khu Đại Thế Giới nhiều đêm liền, nhưng bóng dáng của Mã Thành vẫn bặt tăm. Các tay hồ ly ở đây chỉ cho hai người biết:
– Không biết tại sao cả tuần nay không thấy ông Mã Thành đến làm nữa!
Đêm nay cũng từ khu Đại Thế Giới ra về, Ngọc Duy và Trâm Anh còn ngồi trên xe taxi đưa về nhà, bỗng nhiên chiếc xe đang chạy ngon trớn phải thắng gấp, vì trước đầu xe là một chiếc gắn máy đang dừng ngang chặn lại.
Người tài xế chưa biết chuyện gì xảy ra thì cùng lúc từ bên hông cửa, một tên ngồi sau chiếc gắn máy đã nhảy xuống, mở cửa lôi Ngọc Duy xuống xe.
Quá bất ngờ nên anh không kịp trở tay, đã bị tên này bồi ngay một quả đấm vào mặt, còn một tay cầm dao đang lên giọng hỏi:
– Mẹ kiếp, mày là thằng nào mà đi tìm Mã Thành hả? Nói mau?
Ngọc Duy chỉ sở trường bằng mồm mép, dù anh biết chút võ công nhưng không thể chống lại bọn mặt rô đầu gấu như gã này, hắn đang cầm dao khống chế vì thế Ngọc Duy chỉ biết thốt lên để giải thích:
– Tôi là người quen của ông Mã Thành, lâu quá không gặp nên đi tìm thôi.
Tên du đảng liền dí dao vào mặt Ngọc Duy rồi hắn tiếp tục lên tiếng hăm dọa:
– Tao báo trước là không được tìm tên Mã Thành nữa, nếu không mày sẽ chết, có nghe rõ không?
Ngọc Duy đành gật đầu, còn tên du đãng sau khi hăm đọa anh xong, hắn cùng tên đồng bọn lên xe lao nhanh vào chốn đông người rồi mất hút.
Trâm Anh và người tài xế taxi chứng kiến từ đầu vụ đánh nhau, khi Ngọc Duy vào lại trong xe, ông ta liền lên tiếng cho biết:
– Từ kính chiếu hậu tôi thấy bọn này theo chúng ta từ khu Đại Thế Giới, đâu ngờ chúng đi tìm anh để thanh toán.
Trâm Anh hết sức ngạc nhiên vì người lái xe taxi dùng hai từ thanh toán, nàng nhìn ông ta hỏi lại:
– Tại sao lại thanh toán?
– Đây là bọn đầu gấu ở khu Đại Thế Giới, chúng chỉ làm theo lệnh khi có người đến thuê mướn. Anh chị đã làm gì trong khu cờ bạc cho người ta phải thuê bọn đầu gấu đến đánh dằn mặt như thế?
Ngọc Duy trầm ngâm đôi chút rồi anh trả lời:
– Chẳng làm gì, ăn một vài ván tài xỉu và đi tìm một người hiện được xem là mất tích thôi.
Người tài xe taxi nói tiếp:
– Tôi từng sạt nghiệp ở khu Đại Thế Giới này, tôi biết ăn thua nhiều ván tài xỉu hay bài bạc ở đây không phải lúc nào bọn nhà cái cho người đi thanh toán.
Vả lại người của khu Đại Thế Giới đều có tay chân bộ hạ đâu cần thu bọn đầu gấu, vậy có thể là người cùng ngồi chung bàn với anh chị rồi.
Ngọc Duy nhớ lại những tay hồ lỳ nghe anh và Trâm Anh hỏi đến tên Mã Thành. Còn bọn đầu gấu chỉ nói “mày là thằng nào đi tìm Mã Thành”, như thế bọn đầu gấu này không liên quan gì đến người của khu Đại Thế Giới là đúng với lời người lái xe.
Nghĩ ngợi như thế nên Ngọc Duy không nói thêm lời nào với người lái xe nữa, anh tiếp tục trầm tư suy nghĩ, im lặng cho đến khi xe đưa về đến nhà.
Thật ra Ngọc Duy và Trâm Anh chỉ là đôi nhân tình, nhưng bây giờ cả hai chung sống như đôi vợ chồng, bởi nàng đang cần một người đàn ông đứng ra bảo vệ, còn anh thì đang cần tìm ra điều bí mật trong cái hộp khảm xà cừ kia, có thể nó ẩn chứa một kho tàng quý giá được chôn giấu ở một nơi nào đó.
Khi hai người vừa bước vào phòng, Ngọc Duy thấy lão Triệu mắt đang soi mói nhìn vào chiếc hộp, mà trước đây do cha mẹ nàng để lại cho con gái, trong hộp lúc đó có chứa cả trăm cây vàng dùng làm của hồi môn cho nàng.
Nhưng không vì thế mà lão Triệu lại chịu săm soi tỉ mỉ đến chiếc hộp kỹ đến vậy, nguyên do chiếc hộp đang chất chứa một thứ bí mật cần được mọi người giải mã bẻ khóa.
Trong lá thư cuối cùng, cha mẹ Trâm Anh đã viết cho con gái có đoạn như sau:
“Còn một điều nữa cái hộp đựng vàng này rất quý, do một người bạn tặng cho cha, do ông ta người bên Ai Lao, nói trong hộp có ẩn chứa một bí ẩn, nhưng từ lâu cha mẹ không thấy có đặc điểm nào khác nằm trong đó. Sau này lớn khôn con thử tìm hiểu xem sao, có thể nó chỉ dẫn đường đến một kho tàng vô giá không chừng”.
Một hôm Trâm Anh tình cờ thấy lại chiếc hộp đựng vàng làm bằng sơn mài này, được nàng giấu trong tủ áo từ lâu lắm rồi. Bấy giờ Trâm Anh mới chợt nhớ đến bức di chúc của cha mẹ để lại, nàng tò mò đem ra xem xét để tìm điều bí mật nào đó mà cha mẹ nàng từng dặn dò.
Nhưng cả nửa buổi Trâm Anh vẫn không tìm ra như cha mẹ nàng từng làm, chiếc hộp mang hình chữ nhật chỉ to độ bốn tất chiều dài, còn chiều ngang chiều cao chỉ khoảng ba tấc.
Ở hai bên thành hộp có cẩn xà cừ hai hình ảnh rất khác thường. Một bên có hình chiếc thuyền buồm đang trôi trên một dòng sông, trên thuyền có nhiều người đang ngồi lắc xí ngầu bằng hình tượng ba hột xí ngầu được cẩn số rõ ràng nằm giữa thành hộp, một hột mang số 4 một hột mang số l và một hột mang số, cùng cái bàn có bốn người đang ngồi xoa mạc chược ơ đầu mũi thuyền.
Bên thành hộp còn lại là hình núi non cây lá, nhưng nổi bậc là hình một động đá bên ngoài có hai cây tháp bút cao chót vót với một người nữ ăn mặc sắc tộc trên đầu đội mâm trái cây đang múa trong dáng vui vẻ. Còn hai bên hông nơi gắn tay nắm chỉ cẩn hình hoa trang trí, không có gì đặc biệt.
Suy nghĩ thật nhiều về hai hình cẩn ốc xà cừ nơi thành hộp, Trâm Anh không hiểu ra ý nghĩa của nó.
Cho nên Trâm Anh nhớ lại lần đầu tiên khi nàng gặp Ngọc Duy trong một vũ trường, thấy anh mang vẻ phong trần nhưng ẩn sau nét phong sương là một khuôn mặt hào hoa tuấn tú nhất là bộ râu mép mọc đen đậm trên môi, cùng một thân thể cường tráng nở nang căng sau áo sơ mi giống như một lực sĩ thể hình.
Ngay từ buổi đầu gặp gỡ mà Trâm Anh đã đâm si mê Ngọc Duy, không biết nàng có tính lãng mạn hay không mà chỉ sau một vài lần, nàng đã hiến thân cho anh không hề thấy hối tiếc.
Nhưng Ngọc Duy chỉ xem Trâm Anh như một cô nhân tình, chỉ muốn bòn rút tiền mà chưa bao giờ anh nói đến chuyện hỏi cưới nàng làm vợ. Đến một hôm Trâm Anh thấy nàng như bị lừa dối cả tình lẫn tiền, nên đành nói lời chia tay với Ngọc Duy trong nổi đau khổ dày vò.
Trâm Anh ăn vẫn biết nàng còn yêu Ngọc Duy nột cách mù quáng, biết anh chỉ là tên lừa đảo, sở khanh. Nhưng khi chia tay nhau mà nàng chỉ mong anh quay trở lại, ôm nàng vào trong vòng tay để ấp ủ và cho nàng tận hưởng niềm hạnh phúc đang dâng tràn trong cơ thể.
Tuy nhiên tự ái không cho phép Trâm Anh đi tìm lại Ngọc Duy, nếu không có cái hộp khảm xà cừ chứa đựng điều bí mật làm nàng bị ám ảnh triền miên, sau những gì cha mẹ nàng viết trong “di chúc”.
Thân gái mồ côi, Trâm Anh không biết dựa vào ai để cùng đi tìm bí mật trong chiếc hộp. Có lão Triệu bác nàng nay tuổi đã già, ông chỉ có thể tư vấn còn về hành động thì không thể hiên ngang như thời ông còn khoẻ mạnh vẫy vùng ở miềnTrung.
Chỉ có Ngọc Duy có thể cùng nàng đi phiêu bạt khắp nơi, có thể bảo vệ nàng và vả lại nàng rất yêu thương nhớ nhung một người ngang tàng như anh, mặc dù anh từng dối gạt nàng.
Lúc Trâm Anh gặp lại Ngọc Duy, anh đang xơ xác không còn một đồng trong túi, thật đúng với câu gặp “quả báo nhãn tiền” hay “vỏ quýt dày có móng tay nhọn”, Ngọc Duy lấy tiền của nàng đi nuôi vũ nữ giờ bị chúng lột cho sạch sẽ rồi bỏ mặc anh tự đi tìm cái sống qua ngày.
Gặp lại Trâm Anh, bấy giờ Ngọc Duy mới thấy ân hận những gì anh từng gieo đau khổ cho nàng, nên anh chỉ biết nói:
– Bây giờ anh cảm thấy ân hận quá, thấy tiếc những gì em từng cho anh mà không biết giữ gìn, đúng là anh đứng núi này trông sang núi nọ.
Trâm Anh nhìn Ngọc Duy trong ánh mắt thông cảm, nàng hiểu với cánh tay cán giá và trên khuôn mặt với cái bớt xanh bên má, đa số người nếu có yêu nàng cũng chỉ vì tiền không phải vì tình vì sắc. Ngọc Duy cũng vậy thôi nhưng nàng chấp nhận anh, vì nàng vẫn còn yêu anh tha thiết.
Lúc đó Trâm Anh thương cảm anh mà nói:
– Em hiểu tâm tạng của anh, làm sao yêu được một người con gái có dị tật như em. Em đành chấp nhận cho số phận đã được trời đất an bày từ khi mới sinh ra, bây giờ chỉ muốn anh trở về hợp tác cùng em đi tìm một kho báu cổ, nếu hoàn tất chúng ta chia nhau rồi chia tay cũng được!
Với lời lẽ thắm thiết của Trâm Anh và anh đang sống trong nỗi tuyệt vọng, Ngọc Duy đã cùng nàng sum họp, nhưng tâm trạng mỗi người chưa hòa cùng một nhịp điệu với nhau.
Cũng như Trâm Anh khi nhìn vào chiếc hộp khảm xà cừ, Ngọc Duy đã tỉ mỉ nhìn nó không chớp mắt. Cuối cùng anh nhìn nàng rồi nói.
– Đúng là chiếc hộp mang một bí ẩn kỳ bí nào đó, mà từ cha mẹ em đến chúng ta chưa tìm ra cách để giải mã nó.
Trâm Am ngước mắt nhìn Ngọc Duy, rồi nàng lên tiếng dò hỏi:
– Vậy mình chịu đầu hàng như cha mẹ em đã từng đầu hàng với chiếc hộp này sao anh?
Ngọc Duy lắc đầu, anh đáp:
– Không thể đầu hàng chiếc hộp này dễ dàng như vậy, em hãy đánh điện ông Triệu về thành phố giúp chúng mình tìm ra mã khóa của chếc hộp. Ông ấy am tường rất nhiều điều.
Bấy giờ Trâm Anh còn lưỡng lự nàng nói:
– Hiện giờ bác Triệu bị thương tật, không biết em mời bác có đến không, nhưng với đầu óc của một Gia Cát Lượng, bác Triệu sẽ giúp chúng ta thực hiện được mong mỏi từ cha mẹ em trước khi chết để lại.
Đúng như dự đoán của Trâm Anh và cả Ngọc Duy, lão Triệu nhận xong bức điện đã tức tốc vào ngay thành phố. Khi Ngọc Duy cho ông biết về chiếc hộp có ẩn chứa một bí mật mà chưa ai giải đáp ra, ông cũng mất khá nhiều thời gian nhìn ngắm, vắt óc suy nghĩ về nó.
Mọi người từng gõ lên thành hộp xem ở đấy có ngăn vách nào ẩn chứa điều bí mật không. Vẫn là những âm thanh khô khốc báo hiệu cho thấy chỉ là những tấm ván được phủ lên lớp sơn mài mà thôi.
Đến mấy ngày sau lão Triệu mới có câu trả lời cho cặp nhân tình được biết:
– Bác có thể nói chiếc hộp này khá lạ lùng và bí ẩn, nên bác có 3 ý kiến về nó như sau:
– Thứ nhất, bức tranh có ba hột xí ngầu, có thể tác giả dân đổ bác mong chuyện cờ bạc ăn thua được thuận buồm xuôi gió không chừng.
– Thứ hai, bước tranh núi non có một người nữ đang múa trên sơn động, mang ý tưởng về một khu núi rừng có người của một bộ tộc thiểu số sống trên cao nguyên.
– Thứ ba, hai bức tranh cẩn ốc xà cừ bên thành hộp không giống các mô hình chúng ta thường gặp trong các bức sơn mài, vì nó ẩn dụ cho ta biết ý của hai bức tranh đó, như bác vừa nói.
Ngưng lại đôi giây như để tiếp hơi, lão Triệu lại tiếp tục nói với hai người:
– Ý thứ ba có thể giải đáp qua hai ý trước, và lời giải này chỉ mang nghĩa tượng trưng, chỉ là cách chỉ dẫn gián tiếp cho điều bí mật mà chúng ta đang muốn tìm hiểu.
Khi lão Triệu vừa dứt lời, Trâm Anh hỏi ngay:
– Vậy chiếc hộp còn ẩn chứa thêm điều gì nữa?
Lão Triệu bóp đầu suy nghĩ, đoạn ông lên tiếng trả lời cho cháu gái:
– Nhớ hồi xưa bác có quen với một người tên Tư Mắt Kiếng, ông ta khai thác ngành cờ bạc bên Cao Mên. Có lần qua trà dư tửu hậu, ông Tư từng nói với bác, ngành cờ bạc hiện nay có bốn cao thủ thuộc loại siêu hạng chưa ai vượt qua kỳ tích, bốn người này là sao sáng trong làng đổ bác được mọi người tôn vinh là Tứ Đại Thiên Vương.
Trâm Anh nghe lão Triệu nói, càng lúc nàng càng cảm thấy thích thú, nên hối thúc ông kể tiếp:
– Rồi sao nữa bác Triệu?
– Bốn người đó, một người tên Hải Bằng vua về đánh bài xì-phé, người thứ hai là kê vương Lý Bá mà người vùng Đông Nam Á chưa ai địch lại môn chọn gà, đá gà của ông ta. Còn người thứ ba thứ tư là hai chị em ruột tên Mã Yến và Mã Thành, thuộc sắc tộc Nùng vùng Lạng Sơn. Người chị chuyên về môn xoa mạc chược, còn cậu em vô địch lắc xí ngầu, cả hai cũng thường so tài với các cao thủ từ Hồng Kông, Ma Cao đến, đấu trận nào cũng thắng. Nhưng tiếc rằng...
Đến đây lão Triệu không nói tiếp, khiến Ngọc Duy và Trâm Anh đang say sưa nghe bỗng tỉnh người.
Ngọc Duy liền hỏi lão Triệu:
– Tại sao lại tiếc?
Ông Tư Mắt Kiếng chỉ quy tụ được có Lý Bá và Hải Bằng qua bên Cao Miên mở sòng, trường gà, còn chị em họ Mã còn làm trong khu Đại Thế Giới, và vì không muốn va chạm nên ông Tư không nghĩ đến việc thu phục hai chị emhọ Mã nữa...
... Rồi sau có tin, bà Mã Yến tự nhiên bỏ nghề lên rừng tu theo một đạo giáo gì đó, còn Mã Thành vẫn làm công tại khu Đại Thế Giới.
– Bác kể như thế có liên quan gì với chiếc hộp này không? - Ngọc Duy bấy giờ mới hỏi lại.
Lão Triệu liền gật đầu, đoạn ông tiếp tục nói:
– Có chứ, với giác quan thứ sáu bác có ý định nói với hai cháu nên vào khu Đại Thế Giới mà tìm Mã Thành đến đây. Có thể ông ta mở được mật mã nằm trong chiếc hộp này. Bởi chiếc hộp nói đến một người đang lắc xí ngầu, mà không ai ngoài ông ta ra.
Cho nên khi từ khu Đại Thế Giới về đến nhà, cả hai đã thấy lão Triệu đang mâu mê chiếc hộp, Trâm Anh nhìn ông bác rồi nàng vội vã báo tin:
– Không còn ông Mã Thành làm tại Đại Thế Giới nữa, nhưng vừa rồi anh Ngọc Duy bị bọn đầu gấu du đãng chặn đường hăm dọa vì ông ta.
Lão Triệu đưa mắt nhìn Ngọc Duy, ngạc nhiên hỏi lại:
– Không còn Mã Thành ở Đại Thế Giới mà lại bị hăm dọa vì ông ta là sao, hai cháu hay nói rõ cho bác nghe hết mọi chuyện?
Ngọc Duy mới kể lại chuyện đi moi tin tức về Mã Thành trong Đại Thế Giới, ai cũng biết ông ta là một trong Tứ Đại Thiên Vương, nhưng mới mất tích cách đây không lâu. Rồi trên đường về anh gặp hai tên đầu gấu xông đến tấn công, chúng rất hậm hực khi biết anh và Trâm Anh đang đi tìm Mã Thành.
Nghe xong chuyện kể lại, lão Triệu ngồi thừ người ra, ông nói một câu như để than thở:
– Tưởng rằng chúng ta sẽ gặp Mã Thành, nay nghe nói ông ta mất tích. Thật uổng công dã tràng!
Nhưng Ngọc Duy đã kịp an ủi lão Triệu:
– Vẫn còn hy vọng bác Triệu ạ, cháu có quen một ông thầy bói uyên bác lắm, đôi khi ông ta có thể tìm ra lời giải mã trong chiếc hộp này, Mà quả thật, Ngọc Duy rất năng nổ trong việc đi tìm bí mật của chiếc hộp khảm xà cừ, ngay ngày hôm sau ông thầy bói mà Ngọc Duy nói đã đến nhà.
Ông thầy bói được Ngọc Duy giới thiệu tên Trương Dìn, một người tuy già gần bằng lão Triệu nhưng nhìn tướng mạo vẫn còn quắc thước khỏe mạnh.
Lão Tương Dìn rất tinh tế khi nhìn ngắm chiếc hộp, ông ta mới lên tiếng:
– Lời ông Triệu nói rất chí lý, hình ảnh khảm xà cừ đã gián tiếp muốn nói lên một điều gì đó sẽ xảy đến tại một vùng rừng núi.
Ngọc Duy mới nhìn lão thầy bói hỏi:
– Nghe nói thầy Trương uyên bác lắm, vậy thầy có nghĩ ra ý nghĩa của hai tấm tranh khảm trên hộp chưa? Chúng tôi cũng chỉ hiểu đến đó thôi!
LãoTrương Dìn gật gù đầu rồi trả lời:
– Đây đúng là chiếc hộp của ai đó làm ra và có tâm tư muốn giao lại cho một ai như bức thư nhằm dặn dò chỉ dẫn, mà hai người đều là tay đổ bác trong ngành cờ bạc, một người có nghề xoa mạc chược và một người đang tung hứng ba hột xí ngầu.
Từ lão Triệu đến Ngọc Duy và Trâm Anh đều thảng thốt khi đón nhận câu nói của lão thầy bói họ Trương. Còn lão Triệu quả vui mừng, ông liền thốt:
– Theo tôi nghĩ đây là tâm tư của bà Mã Yến gửi cho em trai là Mã Thành rồi.
Ngọc Duy lại đánh tiếng hỏi thật nhanh:
– Vậy bí mật đang nằm ở đâu?
Lão Trương Dìn vẫn còn chăm chú nhìn vào cái hộp, rồi ông ta không trả lời cho mọi người đang lắng tai chờ câu trả lời, chỉ lẳng lặng lấy giấy bút ra vẽ.
Khởi đầu có ba vạch hàng ngang bị đứt khúc ở giữa, lại vẽ tiếp lên trên một gạch dài, rồi ở trên nữa là hai đường ngang cũng đứt khúc như ba vạch bên dưới. Vẽ xong có tất cả 6 đường ngang có cái thẳng cái đứt, bấy giờ lão Trương Dìn mới bắt đầu giải thích cho mọi người hiểu ý nghĩa của 6 đường vẽ nằm ngang này:
– Đây là một quẻ trong Chu Dịch, mang tên Lôi Địa Dự....
Không chờ lão họ Trương nói tiếp, Trâm Anh thấy thắc mắc nên nàng hỏi:
– Nhưng sao thầy lại vẽ được ra nó?
Có gì đâu khi xưa tôi từng quen biết bà Mã Yến mà, bà ta thích bói quẻ trong Dịch, nên có một bộ xí ngầu làm riêng theo quy ước, số màu xanh là “âm” để biểu tượng bằng một gạch đứt ngang, còn mang màu đỏ là “dương” biểu tượng bằng một gạch thẳng, ba hột xí ngầu trong tấm tranh khảm xà cừ đã nói hết quẻ Lôi Địa Dự, như thông thường số 4 là màu đỏ nhưng ở đây vẽ màu xanh, nên tôi mới hiểu ra. Còn cách lập quẻ con nào nằm trên nằm dưới theo thứ tự mà thành quẻ.
Rồi lão Trương Dìn chỉ vào thành họp nơi cẩn hình ba hột xí ngầu, tiếp tục giải thích:
– Trong hình có ba con số từ trên xuống, là số 4 màu xanh, số l màu đỏ và số màu xanh, nên tôi đã phác thảo ra như vầy.
Lão Triệu giờ mới hỏi lãoTrương Dìn:
– Tìm được tên quẻ dụng, chắc chắn trong quẻ còn ẩn chứa bí mật? Vậy thầy Trương mau giải thích cho chúng tôi hiểu.
Bấy giờ lão thầy bói mới nhìn lại quẻ Dịch mà ông ta vừa vẽ, họ Trương liền đáp:
– Đây là quẻ Lôi Địa Dự. Lời tượng cho hay, sấm nổ đất vang rền ở hai chữ Lôi Địa, để được hòa vui ở chữ Dự. Là quẻ trung bình trong đó có hung có kiết.
Lão Triệu vẫn chưa bằng lòng với lời giải thích của lão Trương Dìn, sau một lúc suy nghĩ ông nói:
– Đó mới là lời dự báo tính át hung, còn kho tàng có hay không và nằm ở đâu thì chưa rõ, thầy Trương có đoán được không?
Ngọc Duy cũng lên tiếng ủng hộ ý kiến của lão:
– Nói như bác Triệu, chúng ta vẫn chưa biết nơi chôn giấu kho báu ở đâu!?
Lão Trương Dìn lại bóp đầu suy nghĩ, đang cố suy đoán tìm ra lời giải theo ý mọi người đang mong đợi. Dù đầu óc còn đang nghĩ ngợi nhưng đôi mắt ông ta vẫn không rời tấm bản vẽ có quẻ Lôi Địa Dự, nên ông ta cứ nhìn từ dưới lên theo thứ tự của quẻ, đoạn từ tốn nói:
– Đó là nghĩa đen lẫn nghĩa bóng quer Lôi Địa Dự mà bà Mã Yến dự báo, sẽ có biến động xảy đến quanh việc đi tìm kho tàng này, cho nên quẻ chưa nói lên điều chúng ta đang cần tìm hiểu...
Nhưng qua nghiên cưu quẻ này, lúc ấy lão Trương Dìn mới xoay ngược hình vẽ, rồi lão nói tiếp:
– Khi quay ngược lại sẽ cho ra quẻ Địa Sơn Khiêm. Quẻ Khiêm ám chỉ hãy nên nhũn nhặn, ý nói nên nhường nhịn nếu không sẽ nhận hậu quả khôn lường.
Đây có lẽ là quẻ bà Mã Yến muốn ẩn dụ việc đi tìm kho báu nên nhường nhịn nhau, rồi mọi việc sẽ được như ý. Nhưng vẫn tuyệt nhiên trong hai quẻ Lôi Địa Dự và Địa Sơn Khiêm đều không nói đến địa điểm giấu kho tàng.
Mọi người lại im lặng chờ đợi xem lão thầy bói sẽ nói thêm gì nữa, nhưng ông ta đã lắc đầu nhìn mọi người rồi nói tiếp:
– Từ quẻ Lôi Địa Dự bến ra quẻ Địa Sơn Khiêm theo lối tự thảo, dù quẻ không nói đến địa điểm chôn giấu kho tàng, nhưng cũng gián tiếp nói nó nằm ở trong núi rừng, phải đi qua một con sông lớn mới đến nơi như hai bức tranh khảm xà cừ thể hiện.
Nghe xong mọi người đều buông tiếng thở dài, khi biết lão Trương Dìn cũng chưa tìm ra hết mật mã trong chiếc hộp. Ngọc Duy mới than thở nói:
– Có lẽ Mã Thành mới hiểu rõ hơn những gì chúng ta vừa biết, ông ta là em ruột bà Mã Yến mới hiểu rõ tâm tư người chị muốn nói đang nằm ở đâu trong hai tấm tranh xà cừ!
Cả hai lão Triệu và Trương Dìn ngồi thừ ra suy nghĩ, có thể mọi người không tìm ra mã khóa của chiếc hộp dẫn đến địa điểm chôn giấu kho tàng, nhưng bà Mã Yến đã gửi nó cho Mã Thành chắc hẳn bà ta biết em trai sẽ tìm được lời giải đáp như lời Ngọc Duy vừa than thở.
Chính vì thế mà lão thầy bói lại đưa tay lên nặn trán, cố nhớ bà Mã Yến tinh quái còn trò đùa nào trêu ghẹo mọi người sau 2 quẻ dịch kia, ông ta từng biết bà Mã Yến khi bà còn làm trong Đại Thế Giới, một người đàn bà mang tính đồng bóng, ham vui như trẻ con nhưng rất nghiêm túc trong các sáng tạo.
Rồi lão Trường Dìn bỗng kêu lên một tiếng thật to:
– Tôi đã tìm được rồi!
Mọi người đang có mặt trong phòng đều xôn xao trước tiếng kêu to thảng thốt đầy vẻ vui mừng của lão thầy bói, ai cũng nhìn họ Trương không chớp mắt.
Điều này làm Trâm Anh phải lên tiếng hỏi:
– Thầy Trương tìm thấy ở đâu?
Chỉ tay vào cái hộp, lão thầy bói trả lời:
– Thì ở trong chiếc hộp này!
Đến lúc này Ngọc Duy cũng ngạc nhiên hỏi lại:
– Trong chiếc hộp?
– Phải! Nó đang nằm ngay trong chiếc hộp.
Lão Trương Dìn đang hồ hởi khi tìm ra lời giải đáp cho mã khóa, làm mọi người lại nhìn chăm chú vào cái hộp bí ẩn. Trâm Anh xoay cái hộp đủ chiều và nhìn thật kỹ vào nó, đoạn nàng lắc đầu nói:
– Cháu chịu thôi, không tìm ra một tí gì về cách giải bí quyết của chiếc hộp này.
Lão họ Trương liền xua tay báo mọi người im lặng, rồi với khuôn mặt rạng rỡ ông ta nói:
– Tôi với ông Triệu hay bà Mã Yến đều sàng sàng tuổi nhau, ông Triệu còn nhớ ngày xưa lúc chúng ta còn đi học, các học sinh thường viết thư cho nhau bằng một thứ hóa chất, chỉ khi nào hơ trước lửa chữ viết mới hiện ra, có lẽ bà Mã Yến dùng thứ hóa chất này ngồi viết vào gỗ. Nên bí mật của chiếc hộp nằm ở điểm mấu chốt này.
Ngọc Duy nhìn vào cái hộp, nhưng miệng đã hỏi lại lão Trương:
– Vậy những chữ được bà Mã Yến viết ở đâu?
Lão Trương Dìn hãnh diện trả lời:
– Nơi mặt sau của những tấm gỗ sơn mài.
Mọi người đều lên tiếng:
– Nếu vậy phải phá chiếc hộp rồi đem hơ lửa mấy tấm gỗ, chúng ta mới đọc được những gì bà Mã Yến đã viết cho Mã Thành trên đó!
Gật đầu đồng tình với đề nghị của mọi người, lão Trương Dìn mới đáp:
– Chỉ còn cách này mới đọc được lời giải đáp, kho tàng đang nằm ở đâu.
Nghe được ý kiến, Trâm Anh người đang sở hữu chiếc hộp liền đem nó xuống đặt dưới nền nhà, rồi nàng cùng Ngọc Duy định cạy mấy tấm sơn mài ra từng mảnh. Nhưng lão Triệu đã vội lên tiếng:
– Cái hộp đẹp quá và có nhiều kỷ niệm với cháu Trâm Anh. Theo bác, trong bốn cạnh hộp chỉ có một cạnh được bắt vít cho kín, còn ba cạnh kia được kết nối giữa hàm với mộng. Mở vít ra là xong.
Ngọc Duy nghe lời lão Triệu, anh mở vít hộp thật nhanh nhẹn, chưa đầy mấy phút sau cả bốn mảnh gỗ của chiếc hộp đã được tách rời ra.
Mọi việc lại được khẩn trương thực hiện, một bếp lửa đã đỏ hồng được mang đến, bấy giờ lão Triệu cầm lấy một mảnh gỗ rồi đưa qua đưa lại hơ trên đầu ngọn lửa, vừa hơ lửa ông vừa nói:
– Chúng ta hơ lửa như thế này sẽ giữ cho tấm ván khảm xà cừ còn nguyên vẹn không bị vặn mình, các chữ viết cũng sẽ hiện rõ đều đặn hơn.
Nói xong ông lật lại mảnh gỗ xem chữ đã nổi lên chưa, còn các cặp mắt đều nhìn vào nó, mọi người đã thấy lờ mờ một số chữ hiện ra. Làm Trâm Anh càng hối thúc:
– Bác hơ lửa nữa đi, chắc chưa đủ nóng nên các chữ chưa lên hẳn nét rõ ràng.
Lão Triệu lại tiếp tục hơ lửa đều lên mặt thành gỗ. Khoảng mấy phút sau ông mới thôi không hơ lửa nữa, khi lật ngược lên thấy rõ chữ đã nổi lên. Lão Triệu định đưa mảnh gỗ ra hơ tiếp, nhưng Ngọc Duy đã ngăn lại, anh nói:
– Toàn là chữ Việt, để cháu đọc và viết ra giấy. Các bác cứ tiếp tục hơ lửa các mảnh gỗ còn lại đi.
Nói xong Ngọc Duy nhìn vào những chữ đã viết ra trong các tấm gỗ, có các lời lẽ như sau:
“Cậu Mã Thành, đây là kho tàng của bọn sĩ quan Nhật chôn giấu làm của riêng, chúng đã cướp trong dân chúng, hay các chùa chiền, trong các nhà bảo tàng trưng bày bảo vật có nguồn gốc cổ xưa.”.
“Muốn đi đến kho tàng, cậu đi từ con đường mòn Tùng Nghĩa qua khu rừng Quảng Sơn để đến bản Ma Nôi. Hay theo Quốc lộ 27 từ Đà Lạt đến Phan Rang có con sông từ thị trấn Tân Mỹ đến cũng được”.
“Có lẽ bọn Nhật chọn địa điểm cất giấu số bảo vật này nhằm che đậy cấp trên, để sau này chúng nhờ con sông Tân Mỹ đưa bảo vật ra đường xe lửa đưa đi tẩu tán. Sở dĩ số cổ vật này còn ở đây có thể là vì bọn Nhật bị bại trận quá nhanh phải bỏ về nước gấp hoặc đã chết, nên kho tàng nay thành vô chủ”.
“Khi đi đến khu rừng Quang Sơn, cậu Mã Thành hãy tìm một cây sồi có trên trăm tuổi rồi đi thẳng về hướng Nam khoảng một đoạn đường rừng, cậu sẽ thấy một động đá có hai cây tháp bút. Trong đó bọn Nhật đã giấu số cổ vật này, nhưng từ cây số đến động đá bọn chúng và cả chị có gài nhiều cơ quan và ma thuật canh giữ. Vậy cậu nhớ coi chừng rất nguy hiểm đến tính mạng.
Trong nhà chỉ có bốn người, ai ai cũng đều vui mừng khi khám phá ra điều bí mật nằm trong chiếc hộp khảm xà cừ như ý muốn.
Bấy giờ Trâm Anh mới nhìn Ngọc Duy, nàng âu yếm nói với anh:
– Mình sắp giàu to rồi anh Duy ơi! Kho tàng này thật vô giá, toàn là những cổ vật quý hiếm mà bọn lính Nhật đánh cắp cất giấu làm của riêng!
Trong lúc lão Triệu cùng lão thầy bói Trương Dìn đang bàn kế hoạch khởi đầu cho cuộc phiêu lưu đi tìm kho báu nơi rừng Quảng Sơn. Còn riêng Ngọc Duy lại chìm đắm bởi bao ý nghĩ đang xuất hiện đến trong đầu, người ta nói cái nết đánh chết cũng không chừa hay như thả hình bắt bóng. Tâm trạng của Ngọc Duy lúc này chỉ thấy kho tàng nơi rừng Quảng Sơn là của riêng anh, kể cả người chủ sở hữu từng là người tình đầu ấp tay gối, từng đưa anh về sau những ngày xơ xác, anh cũng muốn loại trừ không thương tiếc.
Mặc dù Trâm Anh từng nói:
Bây giờ em chỉ muốn có anh trở về hợp tác cùng nhau đi tìm một kho báu, nếu hoàn tất chúng ta sẽ chia nhau rồi chia tay cũng được! Nhưng lòng tham con người thường không có đáy, bản chất của Ngọc Duy chỉ muốn sử dụng bộ mã đẹp trai đàng điếm, đi lừa đảo đàn bà con gái để được sống hưởng thụ cho cá nhân.
Và Trâm Anh không phải thuộc dạng đàn bà cho Ngọc Duy phải yếu mềm, phục thiện, khi nàng chỉ có một ông bác già ở bên cạnh. Vì thế tuy ngoài mặt Ngọc Duy vui vẻ cùng mọi người, nhưng trong đầu anh đang tính cách thanh toán từng đối thủ, vì địa điểm kho tàng nơi rừng Quảng Sơn nay cả bốn người ai cũng đã biết.
Người đầu tiên Ngọc Duy định giết là Trâm Anh. Bởi nàng đang là chủ sở hữu kho tàng chứ không còn là của Mã Thành, một người mang quyền thừa kế từ bà chị Mã Yến giao cho. Mà Mã Thành hiện nay đã mất tích.
Giết người để chiếm đoạt kho báu, đã làm Ngọc Duy thay đổi bản chất một cách mau lẹ, mặc dù trước đây bản chất của anh cũng thuộc dạng người đi lừa đảo phụ nữ để kiếm sống. Nay bản chất đó đã nhúng thêm trong máu.
Ngày hôm sau như thường lệ, Ngọc Duy đưa Trâm Anh đi ăn, lần này anh không đưa nàng đi ăn trong thành phố mà đến một vùng sông nước ngoại hành.
Theo lời Ngọc Duy khi âu yếm tình tứ nói với TrâmAnh:
– Anh vui quá vì mình sắp giàu to rồi, cho nên anh đang muốn tận hưởng hạnh phúc đó ngay cùng em, nhưng ở nhà lại đông người, vì vậy anh đưa em đến đây vừa thanh vắng lại vừa thơ mộng, để hai đứa mình thật sự có niềm vui trọn vẹn.
Trâm Anh tưởng chừng lời Ngọc Duy nói là thành thật với nàng, khến nàng cũng âu yếm nhìn người tình rồi tình tứ đáp lại:
– Anh Duy có thật lòng yêu Trâm Anh không? Mặc dù anh từng lừa dối em, nhưng em rất yêu anh, em chỉ mong sau chuyến đi tìm kho báu hai đứa mình sẽ mãi mãi ở bên nhau.
Ngọc Duy không trả lời ngaycho TrâmAnh, mà bằng một cử chỉ lãng mạn, anh đặt người tình nằm xuống thảm cỏ, rồi bắt đầu mơn trớn vuốt ve, đặt lên môi nàng một nụ hôn dài thật say sưa đắm đuối, sau giây phút tỏ dấu yêu thương anh mới trả lời nàng:
– Bằng chứng là anh đang yêu em đây, và anh cũng ân hận rằng trước đây từng lường gạt em từ tình lẫn tiền. Còn bây giờ anh chỉ muốn sống bên em mà thôi, nên đến khi chuyện đi tìm kho báu thành công tốt đẹp, anh sẽ làm đám cưới với em.
Lời người tình như từng giọt mật ngọt ngào rót vào tai Trâm Anh, nàng cứ run rẩy trong vòng tay Ngọc Duy, còn miệng không ngớt lời rên rỉ van xin:
– Anh Duy đừng bỏ em nữa nghe, cuộc sống dù giàu có mà thiếu bóng anh chắc em chết quá.
Qua những lần ân ái cùng người tình, nhưng chưa khi nào Trâm Anh lại thấy tràn đầy hạnh phúc như chiều nay. Quả đúng đây là một nơi thanh vắng và thơ mộng hơn tại nhà, và Ngọc Duy lại đang yêu nàng đến cuồng nhiệt, đến nổi nàng mệt nhoài nằm xoải tay ra ngủ ngay dưới tàn cây rậm mát và bên cạnh là một dòng sông, nước chảy siết theo dòng thủy triều đang dâng.
Trâm Anh đâu biết Ngọc Duy đưa nàng đến đây là để thủ tiêu và phi tang cho mất xác. Nên khi nhìn thấy Trâm Anh còn đang mê mệt nằm ngủ thiếp trên bãi cỏ, bấy giờ Ngọc Duy mới nở nụ cười tự mãn và cả thỏa mãn. Anh rút từ trong túi áo ra một bao ny lông có màu trong vắt rồi thật nhanh nhẹn tay anh chụp túi ny lông vào sâu tận cổ của nàng, tay nắm lấy đầu túi rồi siết chặt lại không cho không khí tràn vào, như muốn nàng phải chết vì ngẹt thở.
Qua màng túi ny lông trong vắt, Ngọc Duy nhìn thấy Trâm Anh đang mở to đôi mắt nhìn anh qua dáng vẻ ngạc nhiên đến tột độ, cô không ngờ anh lại giết nàng sau nhưng câu nói rất trữ tình vừa rồi, cho nên miệng nàng định la hét nhưng không khí không còn khiến nàng đang nghẹt thở.
Dù không biết Trâm Ahh đang hét những gì, nhưng thấy chân tay nàng đang vùng vẫy mãnh liệt, cánh tay cán giá như cào xé anh, nhưng nào làm được gì, vì Ngọc Dy đã lấy chân đè cho thật chặt hai tay, đến lúc thấy miệng nàng đang há hốc ra, đôi mắt đã thất thần, còn chân tay không vùng vẫy kháng cự được nữa.
Biết chắc người tình đã chịu nhắm mắt xuôi tay, Ngọc Duy bấy giờ mới thốt lên câu nói:
– Trâm Anh ơi, hãy chết đi em, giờ đây anh sẽ làm chủ kho báu, anh sẽ đì tìm một người phải đẹp như hoa khôi mới thật xứng đôi. Còn em với cái tay cán giá, cái bớt trên mặt, môi khi dẫn em đi đâu khiến anh đâm mắc cỡ với mọi người, bởi cái dung nhan xấu xí của em.
Nhìn Trâm Anh đã nằm chết trên bãi cỏ, để phi tang Ngọc Duy mặc lại quần áo cho nàng thật tươm tất cũng như bôi xóa tất cả dấu vết trên thân thể, rồi anh ôm xác nàng quăng xuống dòng sông nước đang chảy siết.
Giết xong người tình, Ngọc Duyvề đến nhà anh vội vàng hỏi hai lão già đang ngồi bàn thảo kế hoạch đi tìm kho báu:
– Hai bác có thấy Trâm Anh về nhà chưa?
Lão Triệu vội ngước nhìn Ngọc Duy, đoạn ông lên tiếng hỏi lại:
– Bác thấy hai đứa đi chung với nhau mà?
Ngọc Duy liền nói dối:
– Phải, nhưng mới nửa đường Trâm Anh nói phải đi tìm thêm người, rồi Trâm Anh bỏ đi biền biệt hàng giờ làm cháu chờ hoài không thấy mới trở về đây hỏi lại.
Lão Trường Dìn chỉ thốt:
– Chắc Trâm Anh đang đi tuyển thêm người, vả lại cô ấy cũng chẳng bé bỏng gì mà sợ đi lạc, chút nữa sẽ về đến nhà thôi.
Dù lão thầy bói nói trấn an, nhưng lão Triệu biết tính đứa cháu gái, ông đâm suy nghĩ rồi nói:
– Từ nhỏ đến giờ tính tình con Trâm Anh nhút nhát, đi đâu nó cũng muốn có người đi kèm, hôm nay sao lại một mình đi tìm người, mà nó có quen biết với ai đâu!?
Qua thái độ hoài nghi của lão Triệu làm Ngọc Duy cảm thấy lo sợ viễn vông, anh biết ông có thứ giác quan nhạy bén, từ đó có thể mưu đồ của anh sẽ bị bại lộ và hai lão già kia sẽ hiệp lực chống lại anh. Cho nên Ngọc Duy lại vội giả lả trước mặt hai lão già, rồi sau đó anh sẽ mưu tính cách trừ diệt luôn hai người này trong đêm nay. Ngọc Duy mới nói:
– Thầy Trương và bác Triệu ai nói cũng phải, để cháu chờ Trâm Anh về còn hai bác ngủ đi, ngày mai chúng ta còn phải lo nhiều thứ trước khi lên đường.
Thấy trời đêm đã khuya, lãoTriệu cùng lão thầy bói Trương Dìn đi về phòng ngủ, để một mình Ngọc Duy ngồi chờ cửa đón đợi Trâm Anh.
Ngọc Duy đâu ngờ oan hồn của Trâm Anh lại quá linh thiêng, nàng mới chết từ chiều mà giờ đây lại đang hiện hồn về trong giấc ngủ của lãoTriệu.
Đêm nay lão Triệu rất mệt mỏi vì cả ngày ông cùng lão họ Trương cứ mãi suy nghĩ về con đường dẫn đến khu rừng già Quảng Sơn, đến tối lại không thấy đứa cháu gái trở về, làm ông càng mệt mỏi vì suy nghĩ mông lung. Nên vừa đặt lưng nằm xuống là ông đã chợp mắt ngủ say ngay.
Bỗng nhiên lão Triệu thấy có người đang lay chân ông thức dậy, ông vừa mở mắt ra đã nhìn thấy Trâm Anh người đang ướt sũng nước, đang đứng mếu máo khóc. Làm ông phải buộc miệng lên tiếng:
– Cháu đi đâu đến giờ này mới về, mà sao người lại ướt sũng những nước như thế??
Bấy giờ hồn ma Trâm Anh đang mếu máo khóc, nàng tức tưởi nói với lão Triệu:
– Tội cháu quá bác Triệu ơi! Tên khốn nạn Ngọc Duy đã giết chết cháu, hắn còn dìm cháu xuống một con sông để phi tang, nên hồn ma cháu không thể siêu thoát phải về đây báo mộng cho bác biết!
Lão Triệu không tin những lời cô cháu gái vừa nói, ông vội bào chữa cho Ngọc Duy:
– Sao thằng Duy nói với bác là cháu bỏ nó giữa đường đi tìm thêm người để chúng ta sửa soạn lên đường đi tìm kho báu?
Hồn ma Trâm Anh liền lắc đầu, đôi mắt nàng đầm đìa những giọt lệ đang rơi trên gò má:
– Bác đừng tin tên khốn nạn ấy, hắn có mưu đồ muốn chiếm đoạt kho tàng làm của riêng, nên giết chết cháu mà có thể sẽ giết luôn cả bác!
Lão Triệu nghe xong thấy người bủn rủn cả tay chân, ông không ngờ tâm địa của Ngọc Duy lại gian ác đến vậy. Nhưng ông như chợt nhớ ra điều gì, bèn lên tiếng hỏi hồn ma đứa cháu gái bạc phước:
– Để bác đề phòng tên Ngọc Duy, nhưng còn xác của cháu hiện giờ đang ở đâu? Nói cho bác biết để bác đi tìm đưa về chôn cất?
Hồn ma Trâm Anh vẫn nức nở khóc than:
– Cháu chỉ biết tên Ngọc Duy đưa cháu ra ngoại thành, tận bên miệt Gia Định khu bến đò Bình Quới gì đó, rồi hắn giết cháu quăng xuống con sông này, nay xác cháu đang trôi theo dòng nước, biết đâu để chỉ đường cho bác tìm đây!
Nói xong hồn ma Trâm Anh chợt tan biến trong màn đêm tăm tối, lão Triệu phải vội vàng thét lên những tiếng gọi:
– Trâm Anh! TrâmAnh!
Tiếng gọi mớ từ trong ác mộng khiến lão Triệu đâm giật mình thức giấc thật sự, ông vội mở đèn ngồi thừ ra suy nghĩ những gì vừa chứng kiến trong giấc mơ. Và ông hãi hùng khi thấy một vũng nước còn sóng sánh dưới nền nhà, nơi hồn ma Trâm Anh vừa đứng khóc than kể lể về cái chết oan ức của nàng.
Còn đang suy nghĩ lão Triệu không ngờ Ngọc Duy đang mở cửa đi vào, mặt anh tỏ ra hớt hãi hỏi:
– Bác Triệu vừa gọi tên Trâm Anh? Vậy Trâm Anh đâu rồi hả bác?
Lão Triệu nhìn thấy Ngọc Duy, ông không thể đè nén được cơn xúc động trước lời báo mộng của đứa cháu gái, ông liền chỉ tay vào vũng nước rồi gằn giọng trả lời:
– Nó đó, con Trâm Anh vừa đứng ở đó!
Giác quan của Ngọc Duy cũng rất nhạy bén khi anh nhìn thấy thái độ của lão Triệu, cùng với giọng nói hằn học của ông. Anh suy đoán lão Triệu đã biết ít nhiều đến cái chết của Trâm Anh, mà vũng nước này có liên quan đến việc anh quăng xác nàng xuống dưới dòng sông, phải chăng hồn ma Trâm Anh đã sống khôn thác thiêng vừa về báo mộng cho ông biết rõ sự tình?
Nhưng đó chỉ là mối nghi ngờ trong trí tưởng tượng, bởi hình ảnh anh giết Trâm Anh rồi quăng xác nàng xuống sông, đang ám ảnh anh suốt từ chiều. Và từ lúc thấy lão Triệu cùng lão Trương Dìn đã đi ngủ, Ngọc Duy đang ngồi suy nghĩ cách giết chết hai lão già trong đêm nay.
Nhưng giết làm sao cho nhà chức trách không truy ra anh là thủ phạm, như cách anh giết Trâm Anh phi tang như một tai nạn chết đuối.
Trên lý thuyết và cả trong thực tế, con người khi chưa từng giết ai, tâm trạng lúc khởi đầu đôi khi còn tỏ ra sợ sệt lưỡng lự, nhưng đã giết được một mạng người mà không ai biết, khiến Ngọc Duy càng tiến sâu thêm vào tội ác mà không cảm thấy sợ hãi nữa.
Trước khi nghe lão Triệu mớ gọi đến tên Trâm Anh, Ngọc Duy đã làm xong một sợi dây thòng lọng, anh quyết tâm phải giết chết ông bằng cách tạo ra cảnh treo người tự tử. Còn lão thầy bói Trương Dìn, anh sẽ đưa ông ta đến một nơi thật kín đáo để giết, rồi đào hố lắp đất phi tang. Lúc đó chỉ còn một mình anh biết đến địa điểm chôn giấu kho cổ vật quý giá.
Nên khi nghe lão Triệu hằn học chỉ vào vũng nước trước mặt, Ngọc Duy cứ giả lả như anh không hề biết gì, mới lên tiếng hỏi tiếp:
– Bác Triệu nói gì thấy ghê vậy, không lẽ Trâm Anh đã chết vừa mới hiện hồn về báo mộng với bác?
Lão Triệu vẫn với giọng đầy hằn học, ông lại trừng mắt nhìn Ngọc Duy nói:
– Đúng vậy, con Trâm Anh vừa hiện hồn về báo mộng cho tao hay, mày đã giết nó rồi quăng xác xuống sông phi tang, nó còn nói mày có mưu đồ muốn chiếm đoạt kho báu làm của riêng!
Đúng như Ngọc Duy đã nghĩ, hồn ma Trâm Anh khi chết quá thiêng nàng đã về báo mộng cho lão Triệu biết hết tất cả. Cho nên anh không thể để chậm trễ mà ảnh hưởng đến lao tù và cả kho báu, Ngọc Duy vội lao vào người lão Triệu, hai tay anh đã đưa ra bóp lấy cổ ông.
Lúc này Ngọc Duy như con mãnh thú nơi chốn sơn lâm hoang dã đang đói mồi, hai mắt anh đã hiện lên những tia máu đỏ đang nhìn chằm chằm vào mắt của lão Triệu, đoạn anh gằn giọng lên tiếng:
– Nếu hồn ma Trâm Anh không về báo mộng, ta cũng phải giết chết lão để không ai biết đến kho báu!
Với sức thanh niên lực lưỡng, chỉ trong vài phút lão Triệu cũng đành nhắm mắt xuôi tay như cô cháu gái. Ngọc Duy thấy lãoTriệu đã chết, bấy giờ anh mới buông tay đi trở ra lấy sợi dây thòng lọng vừa thắt xong, bắt đầu tạo hiện trường giả, cho lão Triệu tự thắt cổ tự tử chết theo đúng bài bản đã vạch ra.
Ngọc Duy không ngờ lão thầy bói Trương Dìn lại xuất hiện đúng vào lúc anh đang treo người lão Triệu lên xà nhà, khiến ông ta hốt hoảng la to:
– Sao cậu Ngọc Duy lại giết chết ông Triệu?!
Ngọc Duy bắt đầu say máu giết người, và trong kế hoạch của anh cũng có tên lão thầy bói họ Trương này nên không giấu giếm ông ta nữa, anh liền cười lên ha hả rồi mới gằn giọng lên để nói:
– Không ai có thể sống sót đi đến kho báu vật, chỉ có ta mới đến được đó mà thôi!
Lão Trương Dìn nhìn Ngọc Duy trân trối, ông ta là thầy bói mà không đoán được cái chết đang đến gần, chỉ nói được mấy câu bằng giọng thảng thốt:
– Cậu Ngọc Duy định giết luôn cả tôi hay sao?
Ngọc Duy vừa trả lời vừa nhanh như con cọp vồ mồi, như lúc anh chụp hai tay vào cổ lãoTriệu:
– Phải rồi, ông cũng phải chết, vì ta không muốn ai còn sống để tranh chấp kho báu vật với ta hết!
– Vậy cậu cũng đã giết chết cô Trâm Anh rồi?
Hai tay Ngọc Duy đang bóp lấy cổ lão Trương Dìn, nhưng sao ông ta còn lên tiếng được, nhìn lại anh mới thấy đã vồ hụt lão thầy bói mà không hay, có lẽ tâm trí anh như đang sống trong cơn mê cuồng đầy ảo giác, chụp phải cái gối ôm tưởng rằng là ông ta.
Còn lão Trương Dìn sau khi thoát được khỏi đôi tay tên thủ ác, lẽ ra ông phải mau chóng cao bay xa chạy trốn thoát tính cầm thú của Ngọc Duy, trái lại ông còn đứng lại để hỏi một câu về số phận của Trâm Anh, nên giờ đây ông ta phải trả giá.
Ngọc Duy sau khi biết đã chụp hụt con mồi, hắn lại vội vàng phóng mình đến bên lão thầy bói còn đang đứng trố mắt nhìn. Lần này Ngọc Duy không chụp hụt ông ta nữa:
– Lão già ngu muội hỏi nhiều quá, ta phải cắt lưỡi để ông không còn hỏi được nữa.
Và với cái chết mất lưỡi của lão Trương Dìn, lúc này Ngọc Duy thật sự mới thấy máu chảy, thấy thây người nằm rã rượi dưới một vũng máu tươi. Nhưng không thấy lương tâm bị cắn rứt, mà trong người máu của hắn lại đang sôi sục bừng bừng trong cơ thể.
Ngọc Duy quá vui mừng sau khi giết chết hết ba mạng người đều biết đường đi đến kho tàng ờ khu rừng Quảng Sơn. Làm hắn lại cất tiếng cười nghe lanh lảnh và man rợ vô cùng:
– Bây giờ chỉ có mình ta là chủ kho tàng, chủ kho báu vật. Không còn ai biết đến nó nữa!
Chỉ trong một ngày Ngọc Duy đã giết ba mạng người, cái chết của họ thật oan ức tức tưởi. Cả ba trở thành những hồn ma vất vưỡng, vì linh hồn không được siêu thoát nên luôn đi theo Ngọc Duy chờ ngày đòi mạng, mà anh nào hay biết.
Bởi ma thấy người nhưng người lại không thể thấy được ma, nếu có là chỉ trong cơn ác mộng hãi hùng như lão Triệu đã thấy.
Sau khi nhìn lại căn nhà có ba người do chính tay Ngọc Duy giết chết từng sống trong đó, khiến hắn cảm thấy ớn lạnh. Và vì biết hồn ma Trâm Anh từng hiện về báo mộng, nên cho dù Ngọc Duy không tin có ma quỷ hiện hình hắn cũng không thể ở lại đây, hai xác chết cùng một vũng máu đỏ tươi khiến anh đâm sợ hãi, không dám mang vác xác lão thầy bói Trương Dìn đem đi nơi khác vùi lấp như trong mưu đồ từng được hắn sắp xếp sẵn trongđầu, Ngọc Duy chỉ còn thời gian đi gom những thứ quý giá từ Trâm Anh để lại rồi đi trốn.
Anh cũng biết không thể một mình đi tới khu rừng Quảng Sơn, đến kho tàng bọn Nhật đang chôn giấu số cổ vật để chuyển tải về thành phố. Theo anh, đã là kho báu vật ắt phải có nhiều đồ quý giá cồng kềnh, không thể chỉ to bằng hai, ba cái ba lô mang trên người.
Ngọc Duy liền đến khu Đại Thế Giới kết nạp được ba tên mặt rô, bọn này có số má trong giới đâm thuê chém mướn, cùng thầy Năm Kiểng một pháp sư có tiếng giỏi về nghề trừ tà bắt ma.
Ngọc Duy nhớ trong thư bà Mã Yến gửi cho Mã Thành có đoạn bà ta đã viết:
“Từ cây sồi đi đến động đá, bọn Nhật và chị có gài nhiều cơ quan và bọn ma quỷ canh giữ kho báu vật. Vậy cậu nhớ coi chừng, đường đi đến đó rất nguy hiểm cho tính mạng”.
Nên sau khi kết nạp được thêm bốn người đều là những tay anh chị, khiến Ngọc Duy phải dè dặt đề phòng mọi bất trắc, lo sợ bọn chúng khi thấy của cải quá nhiều sẽ phản bội lại anh, như anh từng phản bội lại người tình Trâm Anh.
Ngọc Duy mới trang bị cho chính anh một khẩu tiểu liên cùng một cây súng ngắn được giấu kín trong người. Còn với ba tên giang hồ chỉ sắm cho chúng những cây mã tấu sắc bén để phòng thân, để đi trên đoạn đường rừng đầy rẫy những thú dữ.
Người ta thường nói, hai đầu đường thẳng không bao giờ gặp nhau, nhưng Ngọc Duy đâu ngờ là quả đất tròn nên qua một vòng tròn ấy hai đầu đường thẳng lại gặp nhau.
“Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”, những tâm hồn chỉ sống vì tiền hay chuyên đi lừa đảo, bao giờ cũng có thứ khứu giác và thính giác nhạy bén.
Cô vũ nữ Cẩm Nhung khi xưa từng lường gạt Ngọc Duy lấy hết tiền của rồi bỏ rơi anh, cô nàng cũng có cái mũi và đôi tai nhạy bén, đã đánh hơi và nhận ra Ngọc Duy đang có rất nhiều tiền bạc, anh dang chuẩn bị cho một chuyến phiêu lưu...
Cẩm Nhung đã tìm đến Ngọc Duy. Nàng là một vũ nữ nên có một nhan sắc tuyệt đẹp, hợp với sở thích của anh, khiến có thời gian anh đâm đắm say, có bao nhiêu tiền lấy từ Trâm Anh anh cũng đưa về nuôi cô nhân tình trẻ trung này.
Không những Cẩm Nhung đã đẹp, mà nàng còn biết chiều chuộng bọn đàn ông như Ngọc Duy. Nên khi Cẩm Nhung gặp lại Ngọc Duy, nàng liền ngã người vào lòng anh rồi nũng nịu nói:
– Mấy tháng nay em đi tìm anh ở khắp nơi mà không gặp, khiến em thấy nhớ anhquá!
Ngọc Duy biết Cẩm Nhung nói ra những câu đẩy đưa để lấy lòng, chuộc lại thời gian nàng đã bỏ rơi khi thấy anh hết tiền. Ngọc Duy liền xô người Cẩm Nhung ra, đoạn anh nói:
– Mấy tháng nay cô đi tìm tôi à? Hay bây giờ cô thấy tôi có tiền nên trở lại, tiếp tục xâu xé món tiền béo bở đó?
Cẩm Nhung rất tinh ranh, nàng hiểu rõ tính khí của Ngọc Duy, tuy giận thì giận nhưng thương vẫn thương, anh làm sao quên được nàng sau những lần ân ái bên nhau, và vẫn nhớ những lúc Cẩm Nhung chiều chuộng vuốt ve mơn trớn anh ra sao. Chính vì điều này mà Ngọc Duy từng ruồng rẫy Trâm Anh để đến sống với nàng một thời gian.
Nên khi nghe Ngọc Duy tỏ ra đay nghiến, Cẩm Nhung vẫn ôm chặt lấy anh, đôi mắt nàng tình tứ liếc nhìn rồi vẫn giọng nũng nịu nói:
– Sao anh Duy nỡ cay đắng với em như vậy? Thật sự em vẫn đi tìm anh, bởi em ân hận những gì đã gây ra. Còn tiền bạc của anh ư? Em xin trả lại cho anh đây.
Nói xong Cẩm Nhung mới ngồi thẳng dậy, cầm lấy bóp rút ra một số tờ đô la đưa cho Ngọc Duy, còn anh khi nhìn thấy số tiền trên tay Cẩm Nhung chỉ bằng một phần mười những gì nàng đã lấy của anh.
Ngọc Duy chỉ cười khinh mạn rồi đáp:
– Còn có bấy nhiêu mà đòi trả lại cho anh à?
– Thì nó vẫn là tiền của anh, mấy tháng qua không có nó em lấy gì để sống!
Nói xong Cẩm Nhung tiếp tục ngã đầu vào người Ngọc Duy, bắt đầu tỏ những cử chỉ mơn trớn trên da thịt anh. Đoạn nàng nói:
– Bây giờ em hứa sẽ làm nô lệ cho anh suốt đời.
Dù cho Ngọc Duy giờ đây trở thành kẻ thủ ác, nhưng anh vẫn mềm yếu trước sự gợi cảm và cách quyến rũ đàn ông của Cẩm Nhung, anh không thể cưỡng nổi trước những cử chỉ mà nàng đang thể hiện với anh.
Đôi tay Ngọc Duy đã lại ôm chặt lấy Cẩm Nhung, sau khi đặt nụ hôn say đắm lên người tình, anh nói:
– Nhưng anh sắp đi xa, đi vào nơi rừng rú không biết em có chịu theo anh không?
Ngọc Duy đâu thể hiểu những chuyện thần bí trong thế giới tâm linh, chúng vẫn thường xuất hiện trên thế gian này và với người trần mắt thịt như anh đâu có thể nhận ra. Cô vũ nữ Cẩm Nhung bây giờ đâu còn như ngày trước, hồn ma Trâm Anh đã nhập vào xác nàng.
Cái chết oan ức của Trâm Anh làm linh hồn nàng không thể siêu thoát, nên hồn ma của nàng luôn theo đuổi Ngọc Duy, chờ ngày đòi mạng. Khi còn sống Trâm Anh biết Ngọc Duy lúc bỏ nàng để chạy theo Cẩm Nhung hưởng lạc thú, nên sau khi chết âm hồn nàng đã tìm đến cô vũ nữ để mượn xác, còn trong thực tế Cẩm Nhung nào nghĩ đến Ngọc Duy. Âm hồn Trâm Anh đã thề, nàng sẽ theo Ngọc Duy dù đến chân trời góc biển, chỉ chờ ngày giờ sẽ ra tay thanh toán mối oan tình.
Vì thế với dáng nũng nịu, lẳng lơ và lời nói tình tứ, Ngọc Duy đã hoàn toàn tin ở nàng:
– Em đã nói rồi, từ nay em nguyện đi theo anh như một con nô lệ, nên dù anh có lên rừng hay xuống biển, em vẫn theo anh không hề sợ khổ.
Từ đó đêm nào âm hồn Trâm Anh cũng tra tấn Ngọc Duy bằng những cơn ác mộng hãi hùng, nàng muốn khủng bố tinh thần tên thủ ác, để hắn phải suy kiệt mà bỏ ý tưởng đi tìm kho báu trên rừng Quảng Sơn. Kho báu đó nếu không phải của nàng thì cũng phải là của chị em bà Mã Yến, Mã Thành. Ngọc Duy làm sao chiếm hưởng được nó cùng với ba tên giang hồ và một gã pháp sư.
Cho nên hàng đêm Ngọc Duy dều trông thấy ác mộng, trên giàn xử giảo.
Một bên là sợi dây thòng lọng mà hắn từng treo cổ lão Triệu, cho thấy con ma thần vòng như lão ta hay con ma câm Trương Dìn vẫn luôn theo đuổi hắn để báo thù. Cho hắn thấy người bị treo cổ sẽ ra sao khi đầu treo lơ lửng, cổ bị nghẹt thở cho cái lưỡi phải thè dài ra.
Còn một bên là cái máy chém mà từ thời Tây thời Nhật thường dùng để xử chém những tên giết người cướp của như hắn.
Cho thấy âm hồn những người hắn giết, đang căm thù hắn như thế nào. Cho thấy lưới trời lồng lộng, kẻ gieo gió sẽ gặp bão.
Và sau những cơn ác mộng như thế, Ngọc Duy phải la thét kêu van:
– Xin quan tòa hãy tha mạng cho con, con xin nguyện ăn năn sám hối suốt đời.
Đó chỉ là lời xảo biện của một tên chuyên nghề lừa đảo, từng dối gạt mọi người, hắn chỉ nói mà không bao giờ thực hiện để được yên thân. Cho nên sau khi tỉnh giấc chiêm bao, Ngọc Duy vẫn tiếp tục đi tìm kho báu, một kho tàng mà hắn đã giết chết ba mạng người, nên hắn nào có ăn năn sám hối gì đâu!