- 2 -

Qua đất Sốp Sang xuống thấp dần, thông lá kim cũng thưa dần nhường chỗ cho nhiều loài cây lá rộng của rừng mưa nhiệt đới. Ba người lại chui vào một khu rừng còn rậm rì rậm rịt hơn cả khu rừng trên đất ta bữa trước. Cây ken như thành luỹ tịnh không vết dao hay vết rìu của con người chốc chốc lại gặp những cổ thụ gốc bốn, năm người ôm không xuể. Cứ cắm cúi bước trên thảm lá hoại mục tích luỹ hàng bao thế kỷ đã dày hàng mét, bồng bềnh như lò so. Chốc chốc lại thấp thoáng phía trước, không nai, hươu thì sơn dương, gà, báo. Cọp chưa thấy lộ diện. Bình bảo, xuống thấp nữa mới hay gặp. Sóc nhiều vô kể, cứ chuyền cành rào rào trên đầu chào đón khách lạ. Thú ở đây lần đầu gặp người, có lẽ chúng đều tưởng là bạn, chẳng đáng sợ, ngó nghiêng giây lát bằng đôi mắt mọng nước rồi mới lững thững bỏ đi. Kỷ luật trên đường là không được bắn thú, chỉ bắn khi thật nguy cấp. Chắc cọp Lào không khác mấy với cọp Việt Bắc ở sự hung dữ, giờ có hai khẩu sưng trường sức công phá mạnh như vậy thì còn ngại gì chúa sơn lâm. Nhưng thật oái ăm, quật đổ ông lại không phải con thú có sức mạnh đáng sợ như thế, mà là một loài tí ti, di nhẹ đủ tan, đó là muỗi rừng. Trong ba người, Nhị Nguyễn dân thị thành da dẻ tráng mị, hễ ngồi nghỉ là muỗi vo ve bu lại, chỉ vài mũi châm chích cũng đủ để ông lây nhiễm căn bệnh nguy nhất đối với những người dưới xuôi lên, vẫn gọi là sốt rét ngã nước mà thoạt nhìn là biết ngay: da vàng như nghệ, tóc rụng, bụng báng.
Dạo này cứ đến chiều Nhị Nguyễn lại gây gây sốt. Lúc đi đã chuẩn bị được vài cơ số thuốc, nhưng toàn loại thông thường như cảm cúm, đau bụng, chống vắt, chữa rắn cắn không có thuốc trị sốt rét là ký ninh. Giờ gục giữa chốn hoang thế này là hỏng mọi chuyện. Nỗi lo sốt rét ám dịt vào cả ba trên đường. Rồi biết cũng chẳng trị được kẻ thơm thịt bị lên thớt trước tiên. Nhị Nguyễn không còn gây sốt nữa mà là sốt cao. Trong người ông, lúc hầm hập như lò lửa, lúc lại rét run như rơi vào bể băng. Sờ tay lên trán bỏng rãy. Mồ hôi toá đầm đìa sống lưng. Phải dừng, tìm một chỗ thoáng rộng, chất củi, đốt đống lửa to. Cảnh bảo. Bình “Ngày bé ở nhà mẹ mình vẫn vào rừng tìm thuốc nam, có cây sốt rét, nhưng mình lại chẳng biết mặt mũi nó thế nào”.. Bình bảo, biết mặt cây thì chắc gì đây đã có, mình hỏi thật, cậu đã nghĩ đến chuyện nếu anh ấy “tịch” ngay bây giờ chưa?” “Phủi phui câm mồm cậu!” Cảnh vội kêu lên.. Bình lại bảo một người ở lại người kia xuống núi vào bản nhờ giúp. Khi Cảnh định đi, thì. Bình gọi giật lại anh ta đổi ý, trời còn sáng, thay nhau cõng, ngủ đêm trong rừng ngại lắm. Nhị Nguyễn ngồi ôm gối tựa gốc cây làm cái cây cũng rung rinh theo nhịp hàm răng va lập cập dù sao ông vẫn nghe loáng thoáng câu chuyện của hai người. Cảnh đến bên ông khom lưng định cõng. Nhị Nguyễn bảo lấy cho cái gậy tự chống đi được. Nhưng vừa chệch choạc được vài bước, ông sa sẩm mặt mày ngã bệt đít, chân tay chống cả lên trời. Mắt ông bỗng trợn ngược sùi bọt mép, hừ hừ cấp tập.. Bình hoảng nâng đầu, còn Cảnh vội trải đống lá khô, sau đó hai người xốc ông nằm cạnh đống lửa.
- Nước! Nước!
Nhị Nguyễn tu sạch mấy bi đông mang theo. Tiếng rên của ông mỗi lúc một to, làm các chú sóc đang ngó nghiếng trên đầu trốn mất tăm. Ông vẫn ý thức, không được rền rẫm tỏ ra yếu đuối, nhưng răng càng cắn chặt thì cái nóng cái rét trong người càng tìm cách cậy bật hàm cho xả bớt sự khó chịu đang bào xé ruột gan.
Lèng Cảnh nhìn Nhị Nguyễn vật vã trên đống lá, thừ người chẳng biết nên làm gì. Rồi anh cầm ống nứa ngọ đến khe đá hứng nước. Bỗng nhiên trong đầu vụt nảy ra một ý. Để ông nước lên bếp đun, anh liền vơ con dao dựa đi qua, gặp lá gì cũng ngắt đưa lên miệng nhấm, còn đẽo cả vỏ cây, chặt đoạn dây leo và đều nhấm nháp. Thấy lạ, Bình hỏi.
- Mình xem thứ nào có vị đắng - Lèng nói - thuốc ký ninh chẳng đắng như mật công đấy thôi. Sốt rét sợ cái đắng. Cứ giã thứ đắng, may ra…
- Cẩn thận kẻo ăn phải lá ngón thì chôn luôn cả ở đây đấy! - Bình nhắc.
- Lá ngôn mình biết - Nói rồi. Lèng ngất một nhánh cây dưới chân có lá giống như lá cây rau ngót vẫn trồng ở vườn nhà cho Bình xem - ăn hết bằng này là đủ nghẻo rồi.
Một loáng “lang băm” Lèng đã có được cả mớ các loại lá lẩu, vỏ, dây leo nhựa tươi chảy ròng ròng, anh bảo đều đắng rụt lưỡi. Tình thế lúc này là vô vọng. Thêm cơn sốt cao nữa phát cuồng là Nhị Nguyễn đi. Thôi cứ nhắm mắt liều một phen! Lèng phạt mấy ống nứa chọn loại to như cổ chai chia đều các thư đắng vào các lóng đo nước, đặt trên đống lửa đang đượm. Chẳng mấy chốc các ống đã sôi sùng sục. Lèng đổ nước ra ca, thứ nước màu xanh đen sống sếnh bốc mùi hăng hắc. Chờ cho nước nguội, anh ngửa cổ uống liền một hơi bảo với Nhị Nguyễn:
- Độc em chết trước
Nhị Nguyễn toàn thân bải hoải đầu nặng chân nhẹ chỉ còn hiểu lờ mờ việc Lèng Cảnh vừa làm. Cái chết cận kề rồi! Chẳng ngờ sức như trâu, lại đang tuổi xuân, mà mới có cơn sốt rét rừng đã đưa ông về chầu tiên tổ đến nơi. Hơn hai năm qua sống trên chiến khu, lại ở đứng khu vực “lử đừ lừ đừ không ở Đại Từ cũng ở Võ Nhai. Ổ dịch sốt rét lớn hoành hành mà ông không dính đòn, có lẽ do ngày ấy được thường xuyên nằm màn, đôi khi quân y còn phát ký ninh uống phòng. Nay hơn một tháng không màn, không thuốc phòng là trúng đọc rừng thiêng liền. Câu mà Bình hỏi Cảnh lúc nãy, ông đã nghĩ đến, phải chuẩn bị trước tinh thần cho các cậu ấy ông liền vãy tay ra hiệu cho hai người đến gà, thều thào:
- Tôi mà chết hai cậu mang vàng trở về Đô Lương giao cho…
Chưa nói hết câu mồm đã cứng đơ. Lèng Cảnh bỗng hét vào tai ông:
- Em chưa chết, anh chưa chết được!
Nói rồi. Lèng liền bưng ca thuốc đày vực. Nhị Nguyễn dạy uống. Vừa chạm lưỡi vào lợm giọng đắng ngất đến tận cùng cái đắng. Nhưng ăn nhằm gì với cái khát cái chết ông nhăm mắt và cứ để thứ nước gọi là thuốc đó trôi tuốt cả vào ruột gan giống ca nước lạnh đổ xèo vào đống than hồng. Còn ực tiếp ca nữa. Xong nằm vật co quắp hừ hừ rên. Bỗng chốc từ trên trời như có thứ mực đen kịt đổ ập xuống khu rừng. Trong khoảng tối bừng ánh sáng lân tinh lạnh lẽo kết thành từng mảng xanh lè cạnh chỗ ba người đó là khi tàng hoại mục trên mặt đất “bật điện”. Đom đôm cũng từ đâu túa ra từng đàn góp vào phần rùng rợn, bí hiểm của rừng nguyên thuỷ, tạo hồn ma lập loè trêu doạ khắp các bụi cây hốc đá xung quanh. Qua một chạp hành hạ, con ma rừng trong người ông Nhị Nguyễn, thương tình, cho khổ chủ nằm yên được một lúc.
Giữa lòng đêm tịch mịch, mới có dịp nghe mọi cung bậc của bản nhạc bất tận, man dại nơi hoang sơ chưa dấu chân người. Bóng tối vừa ập xuống, là con chim bắt cô trói cột liền mở màn lặp đi lặp lại tiếng gọi thê thiết, buồn thảm. Ôi, tiếng chim đêm này nghe sao mà ghê răng, giá như là buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều thì cái chất giọng trong trẻo, đùa nghịch của bọn liếu điếu, chào mào, sáo sậu hoạ mi, cà cưỡng lại ngọt tai, an ủi được người ta phần nào! Càng về khuya điểm xuyết thêm nhiều tiếng thú hoang gọi bạn tình hay rủ nhau đi kiếm mồi nơi cổ họng chúng đều phát ra thứ âm thanh cộc cằn: cú hú, sói tru, nai tác, bò rống, báo gừ, khỉ choé. Tất cả các giọng điệu đó đều diễn ra trên nền râm ran, rỉ rỉ không khi nào dứt của triệu triệu côn trùng giấu mặt. Bản hoà tấu hỗn tạp chỉ làm tăng thêm sự cô đơn cũng nỗi bất lực hãi hùng của con người khi phút chốc lạc vào không gian hồng hoang tiền sử. May sao còn có ngọn lửa làm bàu bạn. Ngọn lửa phần phạt toả sáng toả nông phát ra âm thanh ti tách vui vui đủ làm tan đi một phần khói đen đặc quánh cùng cái giá buốt của sương núi bịt bừng vây bủa, cũng đủ làm mãnh thú cùng rắn rết hoảng hồn mà lánh xa.
Như những lần ngủ rừng trước, Bình canh chừng, tựa lưng vào gốc cây tay không rời khẩu súng. Mắt anh đảo qua lại, tai lắng nghe mọi tiếng động khác thường, mũi khìn khịt tìm mùi lạ. Nhưng đến nửa đêm các giác quan đều đã quá tải anh nghẹo đầu vào khẩu súng, ngủ vùi. Chỉ Lèng Cảnh là tỉnh.. Không hiểu cái gì đã làm mắt anh cứ chong chong. Chốc chốc anh lấy khăn mặt ướt đắp lên vừng trán bỏng rãy của người bệnh. Cái khăn bốc khói ngùn ngụt, khô rất nhanh.. Anh còn cho ít xôi nếp vào ống nứa ngộ, đổ nhiều nước nấu thành cháo. Lúc nửa đêm anh đỡ Nhị Nguyễn dạy, cho uống lần nữa ca “thuốc hú hoạ”. Và phải cố lắm ông mới thêm được ít cháo loãng.
Thời gian chạm chạp trôi. Thần chết dường như đã trồi từ dưới âm tào địa phủ lên, hùng hổ chuẩn bị nghéo cái lưỡi hái sắc lạnh vào cổ ông. Lèng Cảnh nhìn đồng hồ trên tay Nhị Nguyễn, đã năm giờ sáng. Anh bỗng giật mình, không tin vào xúc giấc ngón tay, trán bệnh nhân đã mát hẳn! Chàng làng băm sờ đi sờ lại thêm mấy lần nữa cơn sốt lui thực rồi sao? Sáng ra, Nhị Nguyễn nằm còng queo bên bếp lửa đã tàn than không còn vật vã, tiếng rên rẩm cũng nhỏ dần, tắt hẳn.
Bình đã tỉnh ngủ vươn vai đứng dậy. Nghe Cảnh bảo anh vội vàng sờ lên trán Nhị Nguyễn. Quả cơn sốt lui thực rồi! Bình bỗng cười to cười hết cỡ, cái cười làm khuôn mặt cau có ủ dột mấy ngày qua tươi mới lại. Và anh nhìn thày lang bất đắc dĩ gật gầt đầu với ánh mắt kiêng nể:
- Chịu cậu rồi!
Nhị Nguyễn tỉnh dạy lúc gần trưa. Máp máy đôi môi bạc phếch nứt nẻ, ông muốn nói mà không thành tiếng, muốn cười mà không nhếch được mép. Đang có sự nhẹ nhõm trong lục phủ ngũ tạng mình đây các cậu ơi! Lèng Cảnh liền nấu ống nước thuốc, cho uống tiếp ở trên rừng. Thêm một ngày đêm nữa ông Nhị Nguyễn đã gượng dạy được tỉnh táo hơn hẳn trước. Phải mau chóng xuống núi. Hai người thay nhau cõng. Bình nhanh dò dẫm từng bước. Mất một ngày cật mới đến được bản với gần chục nóc nhà sàn nằm rải rắc bên bìa rừng. Đó là một bản của người Lào Thững. May nữa là trong bản có một ông lang già. Xem lại các loại lá lâu, vỏ, thân cây mà lang trẻ thu hái, ông này nhận mặt được ngay trong đó có một vị thuốc thuộc loại đầu bảng ông vẫn dừng để chữa trị bệnh sốt rét cho bà con tên Lào là khua cao ho. À cái cây khua cao ho này, Lèng nhớ lại, vỏ xù xì, lá to như lá trầu không, thân chỉ nhỏ bằng ngón tay là loài dây leo bám, lúc đó anh cố dứt được một đoạn khá dài khi đã có cả mớ lá, vỏ đắng. Khua cao ho không đắng bằng các loại kia, chỉ nhằng nhặng đắng thôi. Ai ngờ nó lại là đầu vị, nó lại là cứu tinh! Vậy thì điều may mắn đến với Nhị Nguyễn từ sự dứt cố đoạn dây leo ấy, một tình huống ngẫu nhiên có lẽ là độc nhất vô nhị trên thế gian này nếu không ông đã vùi xác ở rừng già Tây Trường Sơn rồi. Ông lang “thật”, biết chuyện có lời khen lang “giả” mát tay. Ông còn chỉ cho anh biết thêm các loại cây thuốc khác phối hợp với khua cao ho trị sốt rét hay hơn (Và biết đâu trong số lá lâu, vỏ đáng mà Lèng đã cho tuốt vào ống nứa ngộ trên rừng, cũng đã có vị thuốc phối hợp được với khua cao ho mà chính lang “thật” không biết?). Nửa tháng chữa trị ngoài thuốc Bình có thuốc bổ nâng đỡ tì vị khí huyêt, bà con trong bản còn ủng hộ thịt rau quả bồi dưỡng. Nhị Nguyễn dần hồi phục chống gậy đi lại được. Ngày lên đường ông đeo thử coi ba lô vàng bỗng thấy đầu gối bản rủn cả người như có ai kéo ngửa về phía sau. Giờ với ông khối vàng trở thành khối đá hàng tạ. Lèng Cảnh liền sốt sắng đeo hộ. Bình bảo ba lô vàng để anh đeo. Lèng nhận thêm cái ba lô của anh nhẹ hơn nhiều.
Cuộc hành tiến lần này chậm hẳn. Nhị Nguyễn soi gương, ông giật mình như thấy một người khác: má hôp, da xanh lớt, mặt vàng khè môi thâm xì. Lèng Cảnh luôn đi bên ông tỏ ý rất phấn khích từ lúc được khen là “mát tay” bảo kháng chiến thành công sẽ về quê làm nghề thày lang bốc thuốc, trong những ngày qua anh học một được khối bí quyết từ ông lang già người Lào Thững. Có thể anh chàng có duyên với nghề trị bệnh cứu người. Các cây thuốc, vị thuốc bài thuốc do lang Lào chỉ dẫn anh nhập tâm ngay khi cần đọc vanh vách. Ông Nhị Nguyễn bảo không nên ỉ vào trí nhớ, hãy viết cả ra giấy, cất đi dùng về sau. Ông đưa cho “thày lang” một cuốn vở mỏng cùng cây bút chì, những lúc nghỉ trên đường đều thấy cậu ta cắm cúi, nghẹo đầu nghẹo cổ to từng nét chữ.. Khi “thày lang” đưa ông xem lại cuốn vở, eo ôi chữ to đùng như trứng gà mái, lại thiếu dấu đày lỗi chính tả. Lang băm cười khì:
- Em mới qua lớp xoá mù thôi mà. Nhiều chữ để rơi bên đất Việt mình rồi.
- Trên đường lúc nào nghỉ mình dạy lại nhé!
- Thôi anh đang mệt. Vẽ chữ thế mình em hiểu.. Khi nào về nước nhờ vợ dạy. Vợ dạy mới vào chứ anh dạy chữ thày lại trả thày.
Trong lúc hai người vừa đi vừa nói chuyện. Nguyễn Văn Bình đeo ba lô vàng cùng khấu súng trường lùi lũi theo sau. Khu rừng đang vượt không rậm rạp bằng khu rừng trước, có nhiều chỗ bị chặt phá. Đến một con suối chảy cắt ngang, Bình bỗng bảo với hai người phía trước:
- Im lặng nào. Mình nhớ ra rồi. Lần trước đoàn cán bộ qua đoạn này người dẫn đường nói khu vực có phỉ hoạt động phải đề phòng bị địch úp
Lập tức chuyển đội hình hàng dọc. Lèng tiên phong. Nhị Nguyễn giữa, Bình đoạn hậu, súng trên tay đạn lên nòng. Được một chặng dài thấy bên sườn núi thấp thoáng mái nhà sàn. Lèng hỏi:
- Có dừng nghỉ ở bản kia không?
- Còn sớm - Bình nói - Có một đoạn nữa mới tính tiếp được.
Ông Nhị Nguyễn mệt bã bời chưa biết đến bao giờ mới triệt được các nọc sốt trong người. Nhưng ông vẫn cắn răng bước, không để bị thúc vào lưng. Sắp đến một khúc ngoặt ba người không ai bảo ai đều chợt dừng vì nghe có tiếng rì rầm phía trước. Và chưa kịp tránh, đã thấy nhô ra trước mặt hai người đàn ông
Lèng Cảnh giở “võ mồm” kết hợp tay khuya khoáng một hồi quay lại phiên dịch:
- Hai ông đi thăm người nhà ở bản Pu Loong, giờ về quê ở bản Huổi. Bảo bộ đội đi nhanh kẻo tối không đến được Pu Loong đâu.
Hai người trạc trung niên mặt đen đúa hốc hác, đầu mặc quần áo chàm đội mũ nồi dạ đen đã bạc hệt tuyết, lưng đeo ba lô căng phồng thủng lỗ chỗ và bên sườn có con dao quắm. Từ hôm rời trạm Đó Lương đây là lần đầu tiên đụng người trên đường. Bên này xứt nét, bên kia nhìn lại với ánh mắt dè dặt. Rồi chia tay luôn. Bình ngoái lại dõi theo, hai người rảo bước vừa lội qua suối đã bỏ đường mòn tạt ngay vào rừng. Bình đánh động:
- Nom rất khả nghi. Dám là người của phỉ lắm!
- Phải vượt nhanh qua đoạn này. - Lèng Cảnh nói
- Hay là ta tạt vào rừng ém một chỗ, chờ xem động tĩnh thế nào? - ông Nhị Nguyễn nói.
- Đằng nào cũng phải đến bản Pu Loong, ta cứ tránh đường mòn cắt rừng mà đi. Tối ngủ trong rừng an toàn hơn. - Bình nói.
Thế là ba người bỏ đường mòn rẽ vào rừng rậm nhằm hướng mặt trời đang lặn. Ông Nhị Nguyễn gắng thêm chừng một giờ nữa thì thở dốc đôi chân nặng như đeo đá. Phải tìm cho ngủ lại.
Nhưng lần này không thể đốt lửa, không nói chuyện to, biết đâu sào huyệt của phỉ gần đây? Lèng đã mang theo một ít thuốc sắc và mấy thang thuốc lá dự phòng anh đưa bình toong thuốc cho ông Nhị Nguyễn uống. May mắn, cơn sốt rét chưa thấy trở lại.
Chợt tráng cỏ rộng trước bụi cây ba người đang rải ổ, rực lên trong chốc lát anh vàng tươi rói rồi tắt lịm. Đó là nắng quái chiều hôm. Xa xa mặt trời như cục tiết đông đặc lừ lừ rơi vào nếp võng của dãy núi màu xanh thẳm, để lại phía đỉnh núi một áng may dát bạc lóng lánh mãi sau mới chịu tan. Mảng sáng còn lại bầu trời phía tay trong giãy lát chuyện từ màu sáng tráng sang đạm, cho tới khi cả bầu trời tím thẫm, xuất hiện những ngôi sao đầu tiên nhấp nháy. Đã lâu lắm ông Nhị Nguyễn mới được ngồi nhìn cảnh hoàng hôn như thế. Hoàng hôn trên đất bạn cũng giống hoàng hôn trên đất ta, song thường ngày tất bật, đã mấy ai có thì giờ chỉ để chờ ngắm một cảnh tượng ngoạn mục của trời đất.
Đến khi thấy đói bụng, ba người đã bảo nhau giở cơm nắm, thịt gà luộc, muối trắng của dân bản ủng hộ lúc lên đường, ăn uống xong xuôi, tuy còn sớm đã trải lá ngả lưng. Nhị Nguyễn nằm giữa gối đầu lên ba lô vàng, hai vệ binh hai bên, ôm súng quay mặt ra ngoài. Một đêm ngủ chập chờn, không có ngọn lửa làm bầu bạn, chỉ còn nhờ hơi ấm chuyền sang nhau mà không đến nỗi bị lạnh cóng. Sáng, quần áo, đầu tóc ai cũng ướt nhèm sương núi. Lại lặng thinh lầm lũi cắt rừng. Mãi chiều tối ba người mới tới bản Pu Loong và trên đường không gặp dầu vết nào của phỉ. Thật tình cờ, ba người được đón tiếp và ăn ngủ tại nhà trưởng bản, lại chính là nhà mà hai người đàn ông trung niên gặp trên đường ngày hôm trước đã ở, đúng là họ có họ hàng và từ bản Huổi đến đây chơi. Khi đã tìm hiểu được điều này, ba người ý tứ đưa mắt nhìn nhau không khỏi cười thầm trong bụng về sự trông gà hoá cuốc vừa rồi. Nhưng một khi đã vào sâu vùng đất lạ, nhan nhản đồn bốt, thì sự cảnh giác vừa rồi cũng chẳng phải là thừa.
Thật trớ trêu, ngay sau đó ông Nhị Nguyễn lại chưa học được bài học cảnh giấc với chính đồng đội mình
Vào đầu năm 1999, khi ông Nhị Nguyễn đã ở tuổi 77 và ông Nguyễn Văn Bình tuổi 75, hai người gặp lại nhau. Hôm đó, ông Nhị Nguyễn sau khi đánh cầu lông về như lệ thường tạt vào quán bia hơi bên đường. Vừa nhâm nhấp bọt tràn đầy miệng vại, ông nhác thấy một ông già đi vào và ngồi ở bàn đối diện. Ông ấy gày đét, khuôn mặt vuông vức, tóc bạc phơ, dáng đi tất tả, ngồi thì vặn vẹo.
Người này trông quen quen, đã gặp ở đâu nhỉ? Suốt mấy chục năm đời lính ông từng đi khắp các nẻo đường chiến dịch qua bao tỉnh thành và quen bao người cảm giác như thế là thường thấy và sau đó dễ cho qua. Nhưng vì ông già kia ngồi ở bàn đối diện đập thẳng vào mắt, vả lại chất men bia mỗi lúc mỗi ngấm làm đầu óc ông Nhị Nguyễn trở nên minh mẫn hơn. Ông không thể bỏ qua sự nghi vấn, cố lục tìm trong quá khứ bộn bề của đời lính, đã gặp người này ở đâu nhỉ? Và bỗng trong giày lát người đó cũng tình cờ bắt gặp ánh mắt ông. Hai cái nhìn xéo nhau. Rồi người đó bỏ dở cốc bia vụt đứng dậy đi nhanh ra cửa như chạy trốn.
Vùng nhớ trong não ông bỗng mách bảo ông đuổi theo kịp bên người đó, hỏi.
- Xin lỗi cho tôi hỏi bác có phải là Nguyễn Văn Bình ở Từ Sơn, Bắc Ninh không?
Với ánh mắt thảng thốt ông ta nhìn thẳng vào Nhị Nguyễn hỏi lại:
- Thưa bác có phải Đào Nhị Nguyễn người Hà Nội không?
Rồi hai người ôm chầm nhau. Nhị Nguyễn kéo bạn trở lại bàn bia.
Sau chuyến vượt Trường Sơn sang Lào thời trai trẻ đến bờ sông Mekong trên đất Thái họ chia tay nhau tức là đã hơn nửa thế kỷ nay mới gặp lại. Chính vì sự đẹp lão ít thay đổi của Nhị Nguyễn mà Nguyễn Văn Bình ngay từ cái nhìn đầu tiên đã nhận ra ông. Gia cảnh Nguyễn Văn Bình như lời ông kể thì khá ổn, con cái cháu chắt đầy nhà, chỉ tiếc bà vợ của ông đã mất cách đây mười năm và ông lấy bà hiện nay đã ngoài năm mươi tuổi, không con cái gì thêm nữa. Ở tuổi già ai chẳng vậy, con cái thành đạt là cái nỗi sướng không thể để lâu trong lòng, hễ có dịp là đem khoe ngay với bạn bè. Ông Nhị Nguyễn liền kẻ với Nguyễn Văn Bình về cái sự con hơn cha nhà có phúc của mình. Cậu cả học Đại học Tổng hợp Hà Nội, được giữ lại trường, rồi làm tiếp tiến sĩ, tiến sĩ khoa học, do có công trình nghiên cứu xuất sắc vừa rồi còn được mời sang Mỹ nghiên cứu, đã đưa cả vợ con sang đó (Vì Nguyễn Văn Bình không quen biết huynh trưởng Tạ Quang Bửu, nên ông không kể thêm việc cậu con ông dù thông minh, giỏi giang nhưng nếu thiếu sự chỉ giáo từng đường đi nước bước của huynh trưởng từ lúc nó còn sinh viên, thì khó có thể đạt được nhiều thành công như thế trên con đường phát triển tài năng). Cô con thứ, cũng học một lèo đã có bằng tiến sĩ, là cán bộ nghiên cứu tại khu công nghệ cao phía Bắc. Giờ ông bà đang sống trong một căn hộ tập thể ở trung tâm thành phố.
Rõ là, cuối đời hai cựu binh già đều sống thoải mái đầu óc, khá xông xênh về kinh tế ấy vậy mà một lỗi lầm thời trẻ đã lùi xa tít tắp, vẫn còn làm một cụ e ngại, xấu hổ khi tình cờ gặp lại cụ kia.
Chuyện xảy ra tại Pu Loong ngày ấy. Một nhánh thượng nguồn của con sông cái Nạm Ca Đinh chảy qua, gần như ôm trọn Pu Loong, tạo cho nó một địa lợi mà không một bản vùng Trung Lào nào có được. Tàu thuyền từ thị trấn biên giới Pạc Ca Đinh ở ngã ba sông. Mekong giáp Thái Lan đều có thể ngược lên ngọn nguồn và chọ bản này làm nơi giao lưu buôn bán. Mang lên hàng hoá, trở về mua gom lâm sản, mà rừng Lào ngày ấy ở đâu cũng là “rừng vàng” ê hề sản vật quý hiếm. Bản Pu Loong lúc nào cũng tấp nập trên bên dưới thuyền. Đây là vùng giải phóng do lực lượng Pathét Lào kiểm soát, an ninh tốt, chỉ những vài nơi phụ cận là còn có những toán phỉ quấy phá, ra sông cái đến Pạc Ca Đinh mới có đồn bốt địch. Tới được Pu Loong, cái đích cuộc hành trình xuyên bán đảo đã rất gần. Ông Nhị Nguyễn trong những ngày ở đây luôn trong trạng thái gây gây sốt, mệt mỏi bã bời, căn bệnh quái ác giữa rừng già tháng trước đang nhăm nhe quay lại. May mà bản không thiếu hiệu thuốc tân dược. Cấp trên đã cho phép mang dư ra một ít vàng lẻ để đổi tiền Lào mua những vật dụng cần thiết dọc đường. Và hai bạn đường của ông Nhị Nguyễn đều lạ lẫm với phố phường đã đành con mắt tròn mắt dẹt khi biết vàng lại có thể đổi được nhiều tiền giấy đến thế! Lèng Cảnh đầu quân từ một xóm núi heo hút ở Chợ Đồn Bắc Kạn, ngày đó anh chưa hề biết mặt đồng tiền. Hồi ở chiến khu rồi khi về trạm Đô Lương nhất nhất mọi thứ đều được cấp phát hiện vật ít khi dùng đến tiền mua bán. Nguyễn Văn Bình thì đang chăn vịt ngoài đồng nghe nói có mấy chỉ huy Việt Minh đến xã, liền bỏ vịt đây về nằn nì xin bằng được anh chỉ huy cho đầu quân. Hai năm qua là vệ binh, anh ta chỉ có nhiệm vụ đi bảo vệ các đoàn khác, giống như Lèng Cảnh mọi chi phí trong sinh hoạt đã có trạm lo. Hồi ở nhà anh đã đôi lần tiêu tiền, nhưng chỉ là vài xu, vài hào
Hai người theo Nhị Nguyễn đến cửa hàng vàng, đổi được một bọc tiền to, mua được khối thứ, vẫn dư giả để dành cho đoạn sắp tới. Bình còn mượn ông Nhị Nguyễn lai vàng lẻ để xem kỹ, anh ta cứ dán mắt mân mê, xoay dọc xoay ngang lai vàng. Song với kẻ máu gái như Lèng Cảnh thì sự ngạc nhiên ấy là cơn gió thoảng, điều cuốn hút cậu ta vẫn là: sao ở cái xôm ven sông này nhiều em xinh tươi thế cơ chứ! Nhưng lần này thì không thể làm tới với các em như ở bản Sộp Phác được. Lời răn đe trên đường của Nhị Nguyễn đã làm cậu ta luôn tỏ ra thiếu tự tin khi gặp các em. Địch trà trộn trong dân, làm bậy là nguy hại cho cả đoàn đấy. Mót gái mấy cũng phải nhịn! Lèng cười khì đánh bài giả bộ ngây ngô nói với Nhị Nguyễn: một em Pen Ni thôi không nhìn em khác thành Pen Ni là không còn một nữa đâu. Thế rồi trong những ngày ở bản Pu Loong, cậu ta đã không để xảy ra chuyện nhăng nhít nào cũng không “tưởng” em nào là. Pen Ni cả. Mới sống có vài tháng với Lèng Cảnh, ông Nhị Nguyễn chợt nhận ra cái bản năng của cậu ta thật mạnh, thật lạ. Chính cái bản năng ấy đã xui khiến cậu ta có một sự liên hệ rất mơ hồ, chất phác rằng thuốc ký ninh đắng trị sốt rét, vậy sốt rét sợ đắng, để rồi tìm trúng trong vô thức cây khua cao ho đặc trị sốt rét cứu được ông. Và đây cũng là một thứ linh cảm đặc biệt trời cho ở một người bình thường, như lời huynh trưởng đã từng nói với ông hòi trên chiến khu. Và, chính bản năng tự nhiên ấy lại một lần nữa giúp ông ngăn chặn được một sự khuất tất bộc phát của Nguyễn Văn Bình hôm ấy.
Ông Nhị Nguyễn mệt không muốn đi chơi chợ Pu Loong, bảo Bình và Cảnh tự đi cho biết. Bình đang ở nhà ngoài, ngắm đi ngắm lại trước gương bộ cánh mới mà ông đã sắm cho hôm trước bằng tiền Kíp, mỗi người một bộ mặc khi ra đường.
Chợt Lèng Cảnh đẩy mạnh cửa đi vào nói:
- Em thấy từ sáng nét mặt anh Bình khang khác…
- Khác là thế nào? - Nhị Nguyễn hỏi lại - Mình thì thấy cậu ta vẫn như thường.
- Khác là khác, thế thôi! Em không biết cách nói cho anh hiểu đâu. Anh xem lại bọc vàng đi!
Nghe vậy ông giật thót, vội cúi xuống lôi ba lô giấu dưới gầm giường ra. Mười tám cân vàng được cho vào một bao vải dày, miệng có dây thắt nút, toàn bộ bao lại được đặt trong một cái hộp các tông hình chữ nhật dán giấy kín xung quanh bên ngoài họp còn bọc một lớp ni lông. Vừa mở hộp, ông Nhị Nguyễn nhận ra ngay có chỗ giấy dán bị rách, dù được cố ý phết lại bằng hồ. Choáng. Đứng lúc đó, Lèng Cảnh cám tay lôi sềnh sệch Nguyễn Văn Bình từ nhà ngoài vào, ngồi đối diện với ông. Mặt Bình bỗng xám ngoét, chân tay run rảy khi nhìn thấy cái hộp vàng. Không cần tra hỏi, anh ta đã thú nhận luôn:
- Em lấy mười lai vàng. Em không đấu tranh tư tưởng được. Xin anh!
- Đồ tồi!
Lèng Cảnh bỗng nổi xung túm ngay cổ áo Bình định táng. Nhị Nguyễn ngăn, nghiệm giọng với Bình:
- Nộp!
Bình vội móc trong túi áo ngực một bọc giấy nhỏ đặt trước mặt ông, mở ra đêm còn đủ mười lai
- Sao đồng chí làm vậy? Ông hỏi
- Em định để lúc về, qua đây mua ít thuốc tây, quần áo gửi cho bố mẹ già ở Từ Sơn. Bố mẹ em ốm yếu lắm.
- Bố mẹ tao không ốm yếu à! - Lèng Cảnh chen ngang xưng mày tao liền.
- Cũng định chia cho anh một ít đấy khi về cũng có quà cho nhà.
- Chẳng thêm! - Lèng Cảnh quát.
- Đồng chí lấy lúc nào? - Nhị Nguyễn hỏi
- Nửa đêm qua. Lúc cả nhà ngủ say em đưa ba lô ra nhà ngoài.
- Sao lấy có vậy?
- Thế là nhiều rồi. Lấy ít khuyết điếm ít phải không ạ?
- Dù lấy một ly, một lai của công cũng là ăn cắp của công! Tội rất nặng vì đây là xương máu đồng bào chiến sĩ ta.
Bỗng Bình oà khóc nức nở như đứa trẻ làm ông Nhị Nguyễn không nói thêm câu nào nữa. Chợt có tiếng con gái eo éo trước cửa nhà. Lèng Cảnh dỏng tai rồi gãi đầu bảo ông Nhị Nguyễn:
- Anh giải quyết nốt em ra xem sao.
- Việc hệ trọng thế này mà cậu ta cũng cho qua chỉ vì mấy đưa con gái, ông ngăn cậu ta ngồi lại bảo:
- Đã xong đâu!
Lèng lại ngồi ngay thuỗn. Ông bảo anh tao giúp một tay, thật cẩn thận và mở miệng túi cho mười lai vàng vào. Khi nhét ba lô trở lại gầm giường, Lèng còn giơ nắm đấm trước Bình gằn từng tiếng:
- Mày còn tơ tưởng đến vàng liệu hồn!
Nói rồi cậu ta định co cẳng chuồn. Ông Nhị Nguyễn kéo lại bảo:
- Cậu phải cùng đi với Bình ra chợ. Nói rồi ông mở túi ngực lấy ít tiền Kíp đưa Bình nói:
- Cầm ra chợ tiêu vặt. Mọi chuyện cho qua.
Những ngày ở bản Pu Loong, hễ ra ngoài, Bình cứ cắm mặt xuống đất, không dám nhìn ai. Lúc lên đường anh ta nhất định đòi đổi ba lô vàng để Lèng Cảnh khoác, bảo mình không xứng đáng được đeo nó nữa.
Từ cuộc hội ngọ bất ngờ ở quán bia hai năm sau thì Nguyễn Văn Bình ốm nặng từ trần. Ông Nhị Nguyễn biết tin đã sang tận Từ Sơn viếng bạn. Chắc hẳn ít bữa nữa ông cũng đi gặp Bình dưới suối vàng. Biết đâu cậu ấy vẫn còn mặc cảm và lần tránh ông, chỉ vì sự việc định thủ mười lai vàng ở bản Pu Loong hơn nửa thế kỷ trước!