Chương V
BỆNH HOẠN VÀ THI VĂN

Hơn năm mươi năm nay, nhiều người vẫn cho bệnh nan y đã ảnh hưởng thơ Hàn Mặc Tử. Không ai để ý đến một chứng bệnh đã ảnh hưởng đời sống và văn thơ Anh từ trước khi chưa mang ác bệnh.
Trong quá trình sống chung bên Anh, tôi ghi nhận Anh có hiện tượng tâm thần, phát sinh, có lẽ, sau tai nạn xảy ra kì lạ trong đời Anh và ảnh hưởng sâu đậm vào trí óc Anh khiến hình thể Anh cũng thay đổi. Bệnh đó đã được nhiều người bạn tôi, chuyên khoa tâm lí sau này xác nhận là hiện tượng “névrose”, một chứng rối loạn thần kinh nào đó, mà con người vẫn còn sáng suốt và suy cảm bén nhạy. Vẫn làm chủ được trí óc mình.
Khi còn nhỏ, tôi được biết một nhà nho hỏng thi, đi đâu, ngồi đâu, cũng lảm nhảm đọc ngũ kinh, tứ truyện không đầu không đuôi, nhưng làm thơ vẫn nhớ đủ niêm luật.
Gặp ai cũng lễ phép hỏi: “Lạy ngài, chữ TIÊN viết mấy nét?” thơ chỉ làm đến nửa bài, dừng lại lẩm bẩm “Không biết chữ TIÊN viết mấy nét đây”.
Ai cũng thương ông, thường gọi đùa là “Tiên ông thiếu nét”, ông chỉ cười bao dung nhưng không chấp xét kẻ phàm tục.
1. BỆNH TÂM THẦN?
Trong chương II, tôi đã cẩn thận ghi lại nhiều đổi thay nơi người Anh khi từ Huế rồi.
Những đam mê thể thao, thể dục có phần kì dị đến các hiện tượng sinh hoạt khác thường sau khi tai nạn bị chìm ngoài bờ biển.
Anh thay đổi cả tâm tính cả hình thể, trở nên ít nói, sống nội tâm xa vắng. Mọi người không ai hiểu tâm sự Anh, ngay cả những người bạn thân nhất.
Tuy nhiên, Anh nói rất nhiều và rất thật thà trong văn thơ Anh:
Mặc dầu, lời thơ rất đẹp, ý thơ rất tình, nhưng xuyên qua, vẫn có đôi chữ, đôi lời với nhiều ngụ ý, bày tỏ nỗi lòng Anh. Nếu không theo dõi nếp sống hằng ngày, thì nhận xét về Anh không khỏi có phần phiến diện.
Tôi hiểu được phần lớn tính nết và ước mơ Anh, nên nghĩ Anh có thể mang một thứ bệnh tâm thần nào đó.
Vốn từ nhỏ được giáo dục theo tư tưởng Khổng Mạnh sống theo niềm tin Kytô giáo, Anh hầu như bị ảnh hưởng sự gò bó của giáo lí, của đạo đức quân tử, trong cảm nghĩ và ngay cả trong vấn đề sinh lí tự nhiên.
Tình cảm Anh rất bén nhạy. Những xúc động mạnh rất ảnh hưởng đến tinh thần Anh.
Rõ ràng nhất là những thay đổi về tính tình sau tai nạn suýt chết ở bờ biển (nói ở chương II) mà tôi đã được chứng kiến.
Có thể là một ảo ảnh kì lạ in sâu vào tâm trí Anh mà gia đình nghĩ Anh đã được trong thấy Đức Mẹ hiện ra với Anh, khiến Anh xuất thần sợ hãi. Đó là giây phút Anh đã chết đi mà sống lại và mỗi lần nghĩ đến Anh run sợ đến ớn lạnh. Anh đã ghi lại cảm giác đó trong Ave Maria.
Maria! Linh hồn tôi ớn lạnh.
Run như run, thần tử thấy long nhan
Run như run hơi thở chạm tơ vàng
Một thứ run rẩy toàn thân, khi Anh cảm ứng với hiện tượng mà ánh sáng lạ nào làm mờ hẳn ánh mắt Anh. Và tôi đã trông đôi mắt Anh đó lạc thần ngơ ngác.
Thơ Anh tuy tình tứ say sưa, nhưng chỉ gói ghém trong quan niệm đạo hành, không hề buông thả thác loạn. Tôi ghi nhận Anh hay ngâm câu Kinh thi.
Quan quan thư cư.
Yểu điệu thục nữ v.v...
Với Anh, yêu đương là sự trìu mến, quấn quít bên nhau, như đôi chim. Người tình phải là trang thục nữ, tương thân nhi tương kính. Và Anh đã chọn Hoàng Hoa nữ sĩ, một thục nữ như vẽ lại tình Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy.
Ta là trai khí huyết ước nữ
Người thục nữ sinh giữa thời vô thượng
Đó là tình yêu trọng lễ nghĩa, không phải tình xác thịt, như kinh thánh nói về Tôbia và người vợ.
Một sự gặp gỡ giữa Khổng giáo và Thiên Chúa giáo.
Trong cuốn Hàn Mặc Tử, ông Trần Thanh Mại xem Anh là một nhà thơ có nguồn cảm thụ lực mạnh, thậm chí con người Anh có thể rung động theo giây tơ để rồi như chính Anh có thể phát ra âm thanh của điệu đàn.
Những lúc Anh ngâm thơ, trạng thái như xuất thần, toàn thân run rẩy, buông thả theo ý thơ để cảm thụ đến tận cùng.
Anh thường khen những bài thơ thác loạn của môn phái Baudelaire, mà cấu trúc tài tình của thi sĩ đã dẫn dắt Anh đến tận cùng ý thơ với nguồn cảm thụ kỳ lạ đó.
Có lẽ Anh đã khám phá ra tình yêu xác thịt thật là ghê rợn chăng?
Anh viết ra cảm nghĩ đó trong đề tựa cho tập thơ « Tinh huyết » của Bích Khê. Bấy giờ là giai đoạn Anh vào Saigon sống giữa một xã hội buông thả trụy lạc.
Và đó cũng là giai đoạn đấu tranh nội tâm đầu tiên của Anh giữa hai nguồn thơ dâm loạn và trinh trắng.
Anh đã thắng, vì thơ Anh vẫn giữ được khoảng cách với ý thơ cuồng loạn của thời đại.
Tuy nhiên sự giằng co nội tâm trong chiến trường tình dục càng làm anh trở nên thầm lặng hơn, nhất là sau cuộc thử thách lớn với mối tình Mộng Cầm, trong đó cám dỗ xác thịt đẩy Anh đến gần bờ sa ngã.
Dầu vậy, Anh vẫn còn bình tĩnh tự vệ.
Vườn chói lọi thì tình yêu phải ngợp
Tiết trinh còn em phúc hậu hơn thơ
…….
Tôi nín lặng âu là tôi mắc cỡ…
Trong lứa tuổi đôi mươi, những chàng trai mới lớn trong tình trạng sức khỏe bình thường, đều muốn tìm hiểu vấn đề sinh lý với người khác phái. Anh Trí cũng vậy. Anh đọc « Les fleur du mal » và nhiều tác giả môn đồ phái Baudelaire nên rất giàu tưởng tượng.
Thế nhưng, tôi ví Anh là một cao thủ nội lực. Anh chế ngự tài tình những dồn ép để rồi phát tiết ra những bài thơ tình tứ cao đẹp.
Anh đã thất bại trong mối tình Mộng Cầm, chỉ vì Anh không theo kịp cảm nghĩ người con gái mới đó, vì một phần khác Anh sợ phạm tội, mà sợ phạm tội thì đúng hơn.
Anh không thể ngồi yên mà không nói lên những khát khao dồn ép. Những điều mà sách vở nói về tình yêu, về xác thịt, có thể ám ảnh dễ dàng Anh. Cho nên lòng Anh ngày càng nén chặt mơ ước không được thỏa mãn. Những hiện tượng rụt rè lo ngại của Anh, theo tôi nghĩ là ảnh hưởng của nền giáo lý nghiêm khắc mà một linh mục như những linh mục thời bấy giờ, quan niêm vấn đề tình dục ngoài lề luật giáo hội là trọng tội, gớm ghiếc đến đỗi các thánh chẳng dám nói đến tên. Thời bấy giờ dù có trao đổi, hiểu biết cặn kẽ sinh lý trong lề luật Hội thánh mà thôi, giữa người tín hữu và vị lãnh đạo tinh thần (Linh hướng) cũng đã rất hiếm hoi rồi. Chỉ còn sách vở và bạn bè. Sách vở thì ấm ớ trong lối hành văn, bạn bè thì đừng hòng mà anh Trí tâm sự.
Về mặt xã hội, những tiếp xúc giao tế với bạn bè khác phái, mà hơi có vẻ thân mật một chút, cũng đủ để bị phê phán, dòm ngó như đã phạm tội chùng lén rồi, mặc dù giữa thanh thiên bạch nhựt, cố nhiên, trở thành đề tài cho dư luận đàm tiếu.
Bởi vậy, nếu Anh không có một căn bản giáo dục vững chắc, cộng với cảm nghĩ nghiêng ngửa chửa chứng bệnh tâm thần đó, Anh có thể trở thành kẻ đói khát tình dục mà hậu quả khó có thể đo lường.
Lòng Anh luôn tràn đầy cảm nghĩ yêu đương, chỉ một tấm ảnh, một cơn nắng sáng, một buổi chiều thu, hay chiếc áo vàng thoáng qua cũng khơi mạch thơ Anh ào ạt tuôn ra như suối dữ. Chứng bệnh mà Anh đang sông với nó, theo tôi nghĩ nằm trong một thứ giây thần kinh mong manh, nhưng tie61thu bén nhạy và ghi đậm mãi trong đầu óc Anh. Thơ Anh vì vậy mang nhiều cảm ứng, nhiều từ ngữ lạ lùng, khó hiểu mà bệnh hoạn ghi nhận và bắt nhớ lâu dài.
Tôi xin đơn cử một ví dụ: Đó là chữ Phượng Trì mà thỉnh thoảng thấy xuất hiện trong nhiều bài thơ Anh.
« Hôm ấy, hai anh em chúng tôi đi xem một cuốn phim Tàu « Hỏa thiêu Hồng Liên tự ».
Nội dung là một câu chuyện kiếm hiệp được dựng lên trong bối cảnh mà vua Càn Long lợi dụng các môn phái võ hiệp để đánh phá ngôi chùa Hồng Liên, một cứ điển quan trọng nhằn chống lại triều đình Mãn Thanh thời bấy giờ.
«Xong trận chiến, Cam Phượng Trì người anh hùng lỗi lạc, phái Nga Mi, lên đỉnh núi cao, nhìn xuống chiêm ngưỡng chiến công đã đạt.
Anh rùng mình khí thấy bao nhiêu bạn bè anh đã bị tàn sát. Buồn rầu quay gót phi thân lên ngọn núi lấy đà dùng thuật phi hành bay mãi lên cao cho đến khi mất dạng.
Một nữ hiệp là Diệp Tiểu Thanh, vốn yêu mến anh chạy theo tìm. Tiếng nàng gọi: Phượng Trì, Phượng Trì… vang dội khắp nơi mà con phương hoàng vĩ đại đó không quay trở lại. »
Hai tiếng Phượng Trì ám ảnh anh Trí một cách kỳ lạ say đắm, đến nỗi đêm sau Anh đi một mình xem chiếu lại. Anh xuýt xoa khen ngợi liền mấy hôm. Anh nói « Phượng Trì, cái tên thật là tuyệt, nghe như bay lên! Bay lên cao! Hay quá ».
Hai tiếng đó đã tạo cho Anh ý niệm bay về trời mà trong bài thơ Ave Mari ở đoạn cuối. Anh lập lại bốn lần, một cách gắm bó ước ao tha thiết.
Phượng Trì, Phượng Trì, Phượng Trì, Phượng Trì
Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu.
Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu.
Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang
Đoạn cuối bài thơ này, anh Trí đã phỏng dịch theo bài hát rất quen thuộc hồi đó trong nhà thơ. Bài Au ciel! Au ciel (Cantiques de la Jeuneses) mà cũng là bài hát trong gia đình, cha tôi đã dạy các con hát với cây đàn harmonnium nhỏ.
Bài AU CIEL! AU CIEL
Coupet:
J’irai la voir un jour
Au ciel dans ma patrie
Oui j’irai voir Marie
Ma joie et mon amour.
Refrain:
Au ciel, au ciel, au ciel
J’irai la voir un jour
Au ciel, au ciel, au ciel
J’irai la voir un jour
(Đại ý: trên trời nơi quê hương tôi, tôi có ngày gặp lại mẹ Marie, niềm hoan lạc và yêu mến của tôi).
Anh có vẻ rất thích chí, khi tìm được hai chữ « Phượng Trì » để thay thế « Au ciel, au ciel », mà Phượng Trì lại rất gần gũi với biểu tượng Phượng Hoàng của Anh, âm điệu lại nhịp nhàng ăn khớp với bản thánh ca nhịp 6/8 đó.
...
Khẩu khí Phượng Hoàng được ông Trần Thanh Mại cho là siêu phàm tiên cốt. Nói về lối dùng chữ của Hàn Mặc Tử ông Mại viết:
“Tài nghệ diễn tả ấy sở dĩ tài tình là vì thi sĩ có một khoa dụng ngữ tuyệt phẩm dồi dào. Nó dung hòa được danh từ xưa và nay, những ngôn pháp Á và Âu, lại ảnh hưởng ở cả hai nguồn văn hóa Phật giáo và Thiên Chúa giáo.
“Anh thỉnh thoảng đưa vào thơ những chữ mà người đọc bất thần bị lúng túng, nếu không đọc trọn bài thơ để nắm vững ý chính của Anh.
“Anh dùng cả Đao ly, Đâu suất hay Ngạ quỷ của Phật giáo trong câu:
… Bay từ Đao ly đến Đâu suất…
Đàng Ngạ quỷ phơi nhiều trong gấm vóc
Bước êm ru như hoan lạc mời đưa…
Anh còn dùng cả những danh từ Đẩu số, đưa vào các bài thơ mà ý nghĩa đôi khi rất ngộ nghĩnh, chẳng hạn như trong bài thơ:
TRƯỜNG THỌ
… Đưa tay vơ cùng cầm nguyệt mênh mang
… Chan chứa ý ly tao sảng sốt
Chế Lan Viên quỳ dâng tràng chuỗi hột
Cầu khúc tinh hằng chiếu mạng người thơ
Đọc bài này, tôi không nén cười được: “À, Anh lại lộn xộn rồi!” Chế Lan Viên quỳ dâng tràng chuỗi hột? chuỗi gì đây mà lại cầu nguyện với tử vi đẩu số! Anh tính chuyện bắt cá hai tay sao?”.
Anh cười lớn: “Dâng tràng hạt đủ rồi! Cầu với ai cũng được”.
(Khúc tinh là hai sao Văn Khúc, Vũ Khúc thuộc cánh văn chương uy dũng nổi danh quán thế của khoa Tử vi).
Cũng như khi Anh viết bài Ave Maria, Anh cũng mở đầu bằng câu chào mừng:
“Như song lộc triều nguyên ơn phước cả”
Đây là một lời chúc tụng đặc biệt Á Đông mà Anh táo bạo dùng để thay thế lời sứ thần Gabriel khi cuống truyền tin Thánh nữ:
“Kính mừng Bà đầy ơn phước, Thiên chúa ở cùng Bà”.
Anh Trí cho câu song lộc triều nguyên cũng có một ý nghĩa cao trọng như thế mà lại còn có màu sắc Đông phương, gần gũi hơn với dân tộc.
Thời bấy giờ, người ta cố đưa tinh thần dân tộc vào trong các lĩnh vực văn chương mỹ thuật để dần dần tiến sâu vào mục tiêu chính trị, xã hội.
Phong trào thơ mới bành trướng mạnh mẽ trong hướng đổi mới đó và cụ thể hơn nữa là Trường thơ loạn của nhóm bạn bè Hàn Mặc Tử cũng muốn làm một cái gì cho dân tộc.
Tôi còn nhớ Sở kiến trúc Đông Dương cũng đã chuyển hướng về ý thức dân tộc Đông Phương trong cải cách lại kiến trúc cho hòa hợp với Âu và Á. Một mẫu nhà rất được tán thưởng là kiểu “Eurasien” (Âu – Á) để thay thế cái kiểu mẫu của Pháp và châu Âu đang áp dụng.
Ngay cả trong hội họa, ảnh tượng Đức Trinh nữ Maria ít còn rập theo mẫu của nước ngoài, mà được minh họa với nét và màu nhẹ nhàng trong bóng dáng một Người Mẹ Việt Nam hiền từ tươi thắm.
Bởi vậy cho nên, khi viết bài Ave Maria, Anh cũng đã làm một chút cách mạng bằng những ngôn từ đặc biệt mà Anh nói là Kinh kính mừng riêng của Anh dâng cho Đức Mẹ Việt Nam.
Bốn chữ “Song lộc triều nguyên” này Hàn Mặc Tử mượn trong khoa Tử vi đẩu số có từ đời Đại Tống bên Tàu, nói về Đại Quý cách của người được Trời ban cho nhiều ân sủng cao trọng không ai bằng:
– Song lộc là Hóa lộc và Lộc tồn đều là Phúc lộc tinh.
– Hóa lộc nói về lợi lộc trần thế và vinh quang.
– Lộc tồn là sao Thiên lộc, lộc bởi trời vô tận, có một ý nghĩa thiêng liêng ơn phù trợ và cứu giải. Ngoài ra còn ban ơn thông tuệ về văn chương uyên thâm quán thế.
– Triều là hương về, chầu về.
– Nguyên là bản mệnh.
Hàn Mặc Tử rất thích bộ sao này, vì chính Anh cũng có bộ sao đó trong bản số. Mặc dầu không đắc sách lắm nhưng Anh rất hãnh diện và tin tưởng sẽ được nhiều ơn phù trợ bởi Trời.
Vì vậy mà lòng Anh tràn ngập nỗi vui sướng, hồ hởi như là đã được Mẹ nhận lời lòng biết ơn và yêu mếm của Anh.
Cho nên suốt bài thơ, Anh không hề bày tỏ một lời nào bi lụy có thể làm mất đi nét trong sáng huyền diệu mà Anh dâng lên.
Như song lộc triều nguyên ơn phước cả
Dâng cao dâng, thần nhạc sáng hơn trăng
Thơm tho bay cho đến cõi thiên Đang
Huyền diệu biến thành muôn kinh trọng thể.
Anh tự hào có đầy đủ ơn thánh mà Mẹ đã biết rồi. Trí khôn Anh cũng thừa hưởng thần trí của các vị Thánh, cho nên Anh tự xem Anh cũng là Thánh:
...Tôi no rồi ơn vỏ lộ hòa chan.
Tấu lạy Bà, Bà rất nhiều phép lạ
Ngọc như ý vô tri còn biết cả
Huống chi tôi là Thánh thể kết tinh…
Nhớ lại một hiện tượng trên bờ biển xa xưa, mà ánh sáng chói lòa đã làm cho Anh Trí ớn lạnh run rẩy đến lạc thần vì mơ hồ có Mẹ đến quá gần:
Maria Linh hồn tôi ớn lạnh
Run như run, thần tử thấy long nhan
Run như run, hơi thở chạm tơ vàng
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến
Anh xúc động đến rơi lệ và thì thầm cảm tạ ơn phù trợ Mẹ đã cứu thoát Anh trong tai nạn đó.
Lạy Bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn
Giàu nhân đức, giàu muôn hộc từ bi
Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
Cơn lâm luỵ vừa trải qua dưới thế.
Rồi say sưa cuồng mạn, so sánh bài thơ Anh, kinh Kính Mừng của Anh, đang bay đến cõi Thiên Đàng hiệp với lời chúc tụng của thiên sứ Gabriel
Hỡi sứ thần Thiên Chúa Gabriel
Khi người xuống truyền tin cho Thánh nữ
Người có nghe xôn xao muôn tinh tú
Người có nghe náo động cả muôn trời
Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời.
.......
Giòng thao thao bất tuyệt của Nguồn thơ
Bút tôi reo như châu ngọc đền vua
Để ca tụng bằng hương hoa sáng láng
Bằng tràng hạt bằng sao mai chiếu sáng
Một đêm xuân là rất đỗi Anh linh
Vì bài thơ này là tràng hạt mân côi đầy tình yêu mến Mẹ.
Đây rồi, đây rồi, chuỗi ngọc vàng kính
Thơ cầu nguyện là thơ quên tử ý
.......
Cho tình tôi nguyên vẹn tơ trăng rằm
Thơ trong trắng như một khối băng tâm…
Trong trạng thái xuất thần, bài Ave Maria đưa Anh đi rất xa trong cõi trời mênh mông mơ ước, pha trộn mộng và thực với những hình ảnh quen thuộc của Đức Trinh Nữ, của sứ thần Gabriel. Những kinh kính mừng trong tràng hạt vang dội mãi không đứt trong đầu óc Anh: Ave, Ave, Ave…
Ave Maria! Reo như châu ngọc thơm tho như hoa hương, sáng như thất bảo, làm xôn xao tinh tú, náo động muôn trời và vạn vật.
Ave Maria dài bất tận mà “thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu…”
Chưa bao giờ, có bài thơ nào mà Anh biểu lộ được hết tiêu phong đạo cốt như trong bài Ave Maria mà Anh nói là bài thơ đắc ý nhất trong cuộc đời Anh.
AVE MARIA
Như song lộc triều nguyên ơn phước cả
Dâng cao dâng, thần nhạc sáng hơn trăng
Thơm tho bay cho đến cõi Thiên Đàng
Huyền diệu biến thành muôn kính trọng thể.
Và Tổng lãnh thiên thần quỳ lạy Mẹ
Tung hô câu dường hạ ngớp châu sa
Hương xông lên lời ca ngợi sum hòa
Trí miêu duệ của muôn vì Rất Thánh
Maria linh hồn tôi ớn lạnh
Run như run, thần tử thấy long nhan
Run như run hơi thở chạm tơ vàng
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến
Lạy Bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn
Giàu nhân đức, giàu muôn hộc từ bi
Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
Cơn lâm luỵ vừa trải qua dưới thế
Tôi cảm động rưng rưng hai hàng lệ
Giòng thao thao bất tuyệt của Nguồn thơ
Bút tôi reo như châu ngọc đền vua
Trí tôi hớp bao nhiêu là khí vị…
Và trong miệng ngậm câu ca huyền bí
Và trong tay nắm chặt nạm hào quang.
Tôi no rồi ơn vỏ lệ hòa chan
Tấu lạy Bà, Bà rất nhiều phép lạ
Ngọc như ý vô tri còn biết cả
Huống chi tôi là Thánh Thể kết tinh
Tôi ưa nhìn Bắc đẩu rạng bình minh
Chiếu cùng hết, khắp ba ngàn thế giới
Sáng nhiều quá cho thanh âm vời vợi
Thơm dường bao cho miệng lưỡi không khen
Hỡi sứ thần Thiên Chúa Gabriel
Khi người xuống truyền tin cho Thánh nữ
Người có nghe xôn xao muôn tinh tú
Người có nghe náo động cả muôn trời
Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời
Để ca tụng bằng hoa hương sáng láng
Bằng tràng hạt, bằng sao mai chiếu rạng
Một đêm xuân là rất đỗi anh linh.
Đây rồi, đây rồi, chuỗi ngọc vàng kính
Thơ cầu nguyện là thơ quên tử ý
Trượng phu lời và Tông đồ triết lý
Là nguồn trăng yêu mến Nữ Đồng Trinh
Là nguồn đau chầu lạy Nữ Đồng Trinh
Cho tôi thắp hai hàng cây bạch lạp
Khói trang nghiêm sẽ dâng lên tràn ngập
Lút trí khôn và ám ảnh hương lòng
Cho sốt sắng cho đê mê nguyện ước.
Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước
Cho tình tôi nguyên vẹn tơ trăng rằm
Thơ trong trắng như một khối băng tâm
Luôn luôn reo trong hồn, trong mạch máu
Cho vở lở cả muôn ngàn tinh đẩu
Cho đê mê âm nhạc và thanh hương
Chim hay tên ngọc đá niết tuổi vàng
Lòng vua chúa cũng như lòng lê thứ
Sẽ ngây ngất bởi chưng thơ đầy ứ
Nguồn thiêng liêng yêu chuộng Mẹ sầu bi.
Phượng Trì, Phượng Trì, Phượng Trì, Phượng Trì
Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu
Hồn tôi đến bao giờ mới đậu
Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang.
(Sao lục nguyên bản)
Sống bên cạnh Anh, hiểu biết tâm bệnh Anh, dò xét những trạng thái xuất thần của Anh, tôi hằng lo sợ không khéo Anh lại trở thành một “Tiên ông thiếu nét” nói ở trên chăng? May thay Anh ngày càng minh mẫn và sâu sắc.
Phải chăng thân xác phàm tục Anh bị huỷ hoại tàn phá, như phá đi một thứ rào cản, cho tần trí Anh được khai thông, mà hiện tượng tâm thần bệnh hoạn chỉ là những giây thần kinh bén nhạy giúp Anh rung cảm dễ dàng trước những hình ảnh tuyệt với trong cõi mộng bao la mà bài Ave Maria đã ghi lại khi Anh lần hạt mân côi.
Những ngôn từ thế tục cũng được Anh nâng cao và thánh hóa như những lời chúc tụng cao trọng vì chính Anh cũng tự nhận là Thánh.
°
Ngoài kỹ thuật vay mượn từ ngữ xuất xứ từ nhiều nơi, hoặc do cảm nhận một ý niệm, Anh Trí còn tế nhị và sâu sắc trong lối thơ tả tình.
Thơ Anh tuy say sưa lai láng nhưng dùng chữ rất khéo léo, sắp xếp thật rõ ràng để đánh giá mỗi bài thơ, mỗi mối tình cho khác biệt nhau.
Ở Hoàng Hoa thì Anh tình nghĩa rụt rè, thật thà trong Hồn Cúc
Khăn áo hôm nay tề chỉnh quá
Muốn ôm hồn cúc ở trong sương
Ở Mộng Cầm, quen thuộc trong bài Say Nắng
Hồn tôi mắc cỡ là vì
Không quen thưởng thức cái gì ngất ngây
Ở Mai Đình, suồng sã hơn:
Nàng, ôm nàng hai tay ta ghì chặt
Ôi! Khoái trá…
Ở Thương Thương, cảm nghĩ trần tục được chuyển qua tình tứ của hoa lá suối chim, mà hình ảnh vẫn dựa vào cảnh trí đã sống qua.
Dựa vào Mộng Cầm:
Suối reo:
Mát tê đi như da thịt nàng dâu
Cởi xiêm cởi áo ra nào.
Dựa vào Hoàng Hoa:
Chim hót:
Chim ơi hót khúc tương giao
Có người thục nữ lần vào thiên thai.
Dựa vào Mai Đình:
Chàng:
Em là hoa mười phương
Anh là mây tứ xứ
Gặp nhau ở cạnh tường
Tưởng tượng về Thương Thương (có vẻ huyền hoặc)
Thương Thương em, trời cho ta kỳ ngộ
Nói cho ra thần diệu mà vàng bay.
°
Một trong những giây thần kinh (nói là bệnh hoạn đó) rất bén nhạy về âm nhạc.
Thơ Anh viết ra, lời thơ ngâm lên như điệu nhạc.
Ông Trần Thanh Mại cùng nhóm bạn thân gần Anh, đều công nhận như thế. Có nhiều người bạn ngâm thơ hay như một bài ca nhạc, chú Hiếu, em tôi cũng nổi tiếng ngâm thơ Hàn Mặc Tử rất hay.
Ông Mại còn nói: “Nhạc trong cả lối dàn chữ, trên mặt giấy cũng giống y n hư những dấu hiệu trên bản đàn.
"Trong các bài thơ khác của Hàn Mặc Tử, không có bài nào không giống theo âm nhạc. Mặt khác, thơ tám chữ của Anh được lựa chọn theo kỹ thuật ngắt quãng ở chữ thứ ba, đều thuộc trường bình thanh hoặc đoản bình thanh. Vì vậy, thơ Anh nghe như nhạc.
"Riêng về phương diện nhạc trong thơ, Anh đã ảnh hưởng to lớn đến làng thơ Việt Nam”.
Thường có những bài ưa thích, Anh Trí hay ngâm lên giọng trầm buồn, khi thì xuýt xoa tha thiết, khi thì đều đều như tụng kinh.
Có lẽ Anh ngâm theo mường tượng một bản nhạc Huế cổ điển quen thuộc mà Anh rất ưa thích, thường bảo tôi đàn cho Anh nghe với cây đàn nguyệt trong nhà.
Tuy Anh không biết đàn, nhưng rất thính tai, nghe được cả âm ba của tiếng đàn nguyệt khi giao thanh nối điệu. Nhất là trong hai bản Nam Ai và Nam Bằng, đặc biệt là bản Nam Bằng mà Anh say mê kỳ lạ.
Nam Bằng là bản cổ nhạc Huế, được tương truyền do một cung nữ theo hầu Công chúa Huyền Trân đời Trần vào làm dâu Chiêm quốc, sáng tác phỏng theo âm điệu Khơme của các sư sãi đã tấu lên trong lễ nghi phụng vụ ở đền Vua.
Âm điệu nhịp nhàng, lơ lớ như giọng “Khèn”, khi thì trầm vọng như Hồ Huyền, rời rạc và đều đều như tụng niệm gần xa.
Thời bấy giờ, hai bản Nam Ai và Nam Bằng được ưa chuộng nhất ở miền Trung do hai cô Nhơn và cô Dung (quen gọi là “Mệ Dung” đơn ca).
Một người Đức, chủ hãng đĩa hát Béka thường hay ra Huế thu âm các bản ca Huế gởi về nước.
“Mệ Dung” (không biết có phải thuộc hoàng tộc hay không) nổi tiếng với bản Nam Bằng, người Quảng Trị, trong bài ca “Nước non ngàn dặm ra đi” giọng hơi đực đực rất trầm, khiên nhiều người nghe say đắm, trong số đó có anh Trí.
Nam Bằng khác với Nam Ai ở chỗ không lả lướt trữ tình mà lại nghe như niềm tiết hận xa xưa, vì vậy khó đàn cho hay.
Thời ấy, ít người đàn được xem là tuyệt kỹ, ngoại trừ Cả Soạn có thể xem là mẫu mực, còn lại Đội Trác và Tôn Út là hai cây đàn nguyệt theo được giọng ca cô Dung.
Bản đàn theo nhịp ba, ngón tay trên phím chỉ nhấn nửa vời để lướt vội âm hưởng qua phím khác, mà vẫn giữ nguyên âm bình thường.
Tiếng đàn vì vậy nghe hơi “dựng” như nhạc Khơme, không gấp nhưng không lơi.
Nhiều đêm đang ngủ, anh Trí gọi dậy: “Bây giờ yên lặng, đàn vài bản chơi Tín nghe”. Anh thường nói: “Tao thích bản Nam Bằng. Nghe nó như sống lại với dân Hời trong nghẹn ngào tiếc hận” rồi anh ngồi thừ ra, im lặng để tận hưởng hết âm thanh.
Về sau, Anh có ghi nhận những cảm xúc đó trong bài “Đàn Ngọc” bài thơ tám chữ, ngắt quãng ở nhịp chữ thứ ba.
.......
Rồi muôn xuân, đã nư chiều thổn thức
Đều run lên, như thể tấm hồn mơ
Ai reo chi, thương tiếc giữa đường tơ
Cho lở dở vang lên từng tiếng nấc.
Nguồn ánh sáng lờ đi trong sự thực
Trong ảo huyền và trong cả mê ly
Ai nỡ nào cắt nghĩa tới hàng mi
Là ứ lại là trào ra nước mắt
Bằng trăm tiếng vẽ ra trăm màu sắc…
Có lẽ anh đã thực sự bị ảnh hưởng trầm buồn của bản nhạc Nam Bằng, mà Anh nghe hơi hám nhạc Hời.
Đã vậy mà hai tiếng Chăm hay Hời cũng dễ đụng chạm đến cảm xúc đó. Anh nói: “Hoan có cái tên cũng hay, nghe hơi Chăm, chắc vì vậy mà anh ưa Chế Lan Viên và hay gọi anh là Chế Bồng Hoan”.
Do đó, lối thơ 8 chữ, có chỗ bắt nguồn từ điệu Nam Bình mà “hời” bình thanh nghe cũng “dựng” như nhạc Hời.
Đây, vườn trăng, tình căng lên muốn đứt
Thương toàn thương, đương vây muôn giây hường.
.......
Nhạc điệu trong thơ tám chữ của bài Trường tương tư mà chú Hiếu hay ngâm lên như bài ca nhạc, Anh rất thích.
Hiểu gì không ý nghĩa của trời thơ
Của hương hoa, trong trăng lờn lọt bảy
Của lời câm muôn vì sao áy náy
Hiểu gì không, em hỡi, hiểu gì không?
.......
Cho rằng hường vấn vương muôn ngàn sợi
Cho em buồn trời đất úa sương khuya
Lệ Kiều ơi, em còn giữ ý thơ
Trong đôi mắt mùa thu, trong lẻo lẻo.
Ở xa xôi, lặng nhìn anh khô héo
Bên kia trời, hãy chụp cả hồn anh.
.......
Một khối tình, nức nở giữa âm u
Một hồn đau rã rời theo mây khói
Một bài thơ, cháy tan trong nắng dội
Một lời run hoi hóp giữa không trung.
2. BỆNH NAN Y
Khoảng đầu năm 1935, khi anh Trí từ Saigon trở về Qui Nhơn, trông Anh có vẻ trắng trẻo đẹp ra, nhưng nhìn kỹ thì bên má trái, có nhiều đám đỏ hồng hồng bằng đồng xu.
Ban đầu không ai để ý, nhưng một hôm Anh thay áo, Mẹ tôi trông thấy phía sau lưng có nhiều chỗ nổi dát đỏ như vậy, trông như dị ứng khi ăn phải các thứ tôm cá có độc mà vốn Anh không hề ăn được.
Bà cụ hỏi những vết đỏ có từ bao giờ, Anh bảo không hề lưu ý, nên không biết đích xác. Thật ra, những vết đó khi ẩn khi hiện.
Hỏi anh Bửu Đông, anh cho là dị ứng, một thứ phong máu (allergie) gì đó, thế rồi cũng bỏ qua.
Tuy nhiên, mẹ tôi linh cảm có chuyện chẳng lành. Bà vặn hỏi mãi Anh kể chuyện một hôm cùng người bạn đi chơi Phan Thiết, gần tối băng qua một cánh đồng, thì gặp phải cơn mưa giông dữ dội. Sợ hãi quá, cùng vào ẩn trong một chòi tranh đổ nát. Hồi lâu, mưa tạnh toan ra đi, thì thấy nhiều quả cầu lửa màu xanh từ dưới đất phọt lên, bay lơ lửng. Bấy giờ mới nhận ra đang ở trong nghĩa địa, cái chòi gần bên nấm mả mới.
Bà cụ hỏi anh về nhà có xông tắm gì không. Anh nói quên khuấy đi vì vội lên xe về Saigon.
Mọi người nghĩ là Anh bị mắc hơi dưới mộ.
Tuy lo thì cứ lo vậy thôi, không biết phải làm gì được vì đã lâu rồi.
Mấy tháng sau, những dát đỏ hơi sưng lên, như những đám ngứa sương sương mà người ta gọi là mề đay (Urticaires)
Mẹ tôi đâm lo, mời ông đông y sĩ có danh là Thầy phụ tử (nổi tiếng nhờ dám bốc một thang thuốc có một lượng phụ tử là đều cấm kỵ trong nghề thuốc)
Mẹ tôi tin ông giỏi vì đã cứu sống chị Như Lễ khỏi bệnh thương hàn đã “nhập lý” nhà thương Pháp chạy.
Ông đến bắt mạch cho anh Trí nói anh bị chứng phong. Chữ phong trong Đông y nhẹ thì gọi là phong sang (ghẻ ngứa v.v..) nặng là phong hủi, cũng đều là máu có chất độc. Đông y thường gọi Phong, lao, cổ, lại tứ chứng nan y.
Uống mười thang bổ huyết khu phong, vẫn không thuyên giảm.
Cuối năm, lại thấy hai tai Anh, thùy châu bắt đầu ửng đỏ. Triệu chứng phong đủ nặng, nhưng Anh vẫn cảm thấy bình thường. Cả nhà bắt đầu lo sợ, nhưng không ai nói gì cho Anh biết.
Cũng thời gian đó, con trai nhà triệu phú họ Tạ, cùng lứa tuổi với Anh đang có nhiều triệu chứng phong rõ ràng như hai tai dày, mũi lớn phồng và hai môi sưng vếu.
Cả nhà đều giấu nhẹm không cho anh Trí hay.
Anh Bửu Đông lấy máu ở tai, ở mũi đem về bệnh viện phân tích vì anh Đổng phụ trách phòng thử sâu (Bactériologie) cũng không có Hansen, một thứ trực khuẩn có tên gọi là Mycobacté rium Léprac, gây ra bệnh cùi, nhưng lại khó lây, thầy dạy của BS Hansen đã thí nghiệm chích Hansen vào máu mà không việc gì.
Phần anh Trí vẫn vui vẻ, bạn bè thường quay quần lui tới ngâm vịnh thi ca, lúc bấy giờ tại số 20 đường Khải Định. Đông đảo nhất là từ giữa năm 1936 có vẻ như các bạn anh cũng không quan tâm gì.
Cuối năm ấy Anh hồ hởi xuất bản tập thơ Gái quê, và đi lại nhiều lần giữa Saigon, Quảng Ngãi, Huế.
Ở Saigon về, Anh cho biết bà Bút Trà mời Anh vào chủ biên tờ Phụ nữ Tân văn sắp xuất bản. Anh có vẻ vội vã nôn nóng lành bệnh.
Mẹ tôi phải mời một thầy ngoại khoa tiếng tăm ở Gò Bồi xuống chữa cho Anh.
Ông xem mạch cho và bán một tể thuốc, dặn dò cẩn thận phải uống đúng liều lượng, vì thuốc mạnh lắm.
Được nữa tháng, các vết đỏ biến mất gần hết, chỉ còn hai thùy châu ửng đỏ thôi.
Anh Trí rất tin tưởng, bắt đầu nói chuyện làm báo. Anh gởi thơ cho bà Bút Trà, hẹn ngày vào nhận việc.
Vì vậy, anh càng nôn nóng muốn rút ngắn thời gian uống thuốc để kịp vào Saigon.
Bỗng một hôm, đang ngủ, Anh cong người lên ngã xuống đất. Cả nhà hoảng sợ, nhưng Anh vẫn bình tĩnh, xem như không việc gì xảy ra. Hỏi kỹ, Anh thú nhận đã uống gấp đôi liều lượng quy định để cho mau hết tể thuốc.
Vội mời ông thầy Gò Bồi xuống, ông bảo phải đưa anh lên Gò Bồi để ông chăm nom, nhất là Anh bị thuốc công phạt nên trông tiều tụy rõ hơn.
Từ đó bệnh anh như cầm chừng lại. Anh ăn rất ít và gầy sút đi trông thấy.
Năm sau, tôi phải đổi lên Đà Lạt và ở luôn trên đó chỉ thỉnh thoảng năm, ba tháng mới về thăm, nên không theo dõi được diễn biến bệnh trạng.
Bấy giờ Anh lại trở về Qui Nhơn để uống thuốc một ông Đông y sĩ chính cống khác. Ông này bảo nội tạng anh hư hỏng nặng cần phải nghỉ ngơi để bồi dưỡng.
Thuốc ông cũng công hiệu. Trong sáu tháng, Anh có da thịt lại. Thấy Anh đi hơi khập khiễng, tôi hỏi thì Anh bảo đau nhức nơi đầu gối. Có lẽ suốt thời kì anh đau, đây là lần thứ nhất tôi nghe anh kêu đau vì nhức nhối.
Hậu quả, thuốc Gò Bồi đã làm anh đau nhiều chỗ nữa mà ông Đông y cho là độc dược luyện bằng nọc độc mai gầm, rắn hổ.
Kinh tế gia đình, bắt đầu bấn loạn. Mỗi tháng tôi phụ thêm 30 đồng mà vẫn không đủ.
Thuốc đắt mà giao tế cũng tốn kém rất nhiều. Khi thì xem mạch uống đôi ba thang, lại đổi thầy khác. Đó là chưa nói “chuyện phải chăng” với ông Lý Trưởng với Cò bót, vì lâu tiếng Anh Trí có bệnh truyền nhiễm.
Vậy mà hễ nghe nói có thầy hay ở đâu là mẹ tôi cho mời có khi chữa vài tuần, có khi vài tháng lại bỏ dở.
Gia đình tôi lại phải dọn về đường Oden d’hall để tránh dòm ngó của nhà chức trách.
Tuy anh không đau đớn lở lói, nhưng thân thể gầy sọm đi, nước da thâm nâu như tô lên thứ thuốc vẽ nước màu Sépia, chỗ đậm chỗ lợt. Người ta nhìn vào, không thể không nghi là bệnh lạ. Nhất là bạn bè hay lui tới bàn tán về Anh có thể lên tiếng gây dư luận bất lợi.
Thế rồi, một võ sư kiêm thầy lang, được ông Quách Tấn giới thiệu đến cho thuốc.
Uống thuốc của ông võ sư mấy tháng anh Trí nói không thấy đau nhức gì (như thường lệ, Anh trả lời ai hỏi Anh về bệnh trạng). Nhưng anh lại không ăn uống gì khác, ngoại trừ món canh bầu anh ưa thích vì nhẹ ruột.
Một hôm ở Đà Lạt về, tôi thấy mẹ băn khoăn với mấy vị thuốc mã tiền, phượng vĩ là hai vị có khả năng trục huyết bầm. Cuối cùng thì cứ sắc cho anh uống.
Tôi mang mỗi thứ của thang thuốc vào Nha Trang, nhân dịp đi thăm bà con, để nhờ ông Bá Thảo Đường, thầy thuốc tàu quen biết xem lại.
Ông này bảo ngưng ngay, khi tôi tả bệnh trạng của Anh Trí. Ông nói: “Thuốc này chỉ chữa bệnh cấp thời các chứng bệnh bị đả thương, người yếu không thể dùng được, sợ khô hết huyết”.
Những năm 1938, 1939 nhất là năm 1939 Anh đau dữ dội hơn hết. Tâm trạng Anh biến đổi nhiều mà tôi đọc được qua thơ anh. Giai đoạn này. Anh sống nửa mơ nửa thực, thường hay xuất thần không biết gì. Có lẽ nhờ vậy mà Anh không cảm thấy đau đớn chăng?
Theo lời em Hành kể lại, thì có nhiều giờ Anh ngôi yên lặng trên ghế không cử động, nhưng khi bị gọi, thì Anh lại tỉnh táo như thường.
Anh đau ai cũng biết, nhưng không nghe Anh rên xiết vậy mà thơ anh lại có nhiều lúc hoảng hốt lạ lùng, như bị một ám ảnh nào đó phá phách xô đẩy Anh khủng khiếp, Anh viết trong bài:
HỒN LÀ AI
Hồn là ai, là ai tôi chẳng biết
Hồn theo tôi như muốn cột tôi chơi.
.......
Hồn đã cắn đã cào nhai ngấu nghiến
Thịt da tôi sượng sần và tê điếng.
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên
Và Anh chống cự:
Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm
.......
Rồi bay lên cho tới một hành tinh
Cùng ngã nghiêng lăn lộn giữa muôn hình
Để gào thét một hơi cho rởn óc.
Cả thiên đàng trần gian và địa ngục…
Những khi di chuyển đó đây, trên bờ biển hiu quạnh, trong thôn xóm trơ vơ, Anh không khỏi có lần phải hoảng sợ vì nhiều hình ảnh ma quái bám sát bên Anh, những đêm dài vô tận mà Anh ghi lại trong bài:
CÔ LIÊU
Tôi ngồi dưới bãi đợi nường mơ
Tiếng rú ban đêm rạn bóng mờ
Tiếng rú hồn tôi xô vỡ sóng
Rung từng không khí bạt vì lo
Ai đi lẳng lặng trên làn nước.
Với lại ai ngồi khít cạnh tôi
Mơ sao, ngậm cứng thơ đầy miệng
Không nói không rằng nín cả hơi
Chao ôi, ghê quá trong tư tưởng
Một vũng cô liêu cũ vạn đời.
Hoặc một nỗi cô đơn dằn dặt mà Anh than thở trong bài:
NHỮNG GIỌT LỆ
Trời hỡi! Bao giờ tôi chết đi
Bao giờ tôi hết được yêu vì
Bao giờ mặt nhật tan thành máu
Và khối lòng tôi cứng tơ si
Tôi vẫn còn đây, hay ở đâu
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu
Sao bông phượng nở trong màu huyết
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu…
Có những lúc dồn ép cơn đau đến tột độ:
… Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
Mỗi lần thơ đều dính não cân ta
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
Như mê man chết điếng cả làn da
Cứ để ta ngất ngư trong vùng huyết…
Và có những lúc Anh ngất đi, mơ hồn lìa khỏi xác, mà trong bài thơ: Hồn lìa khỏi xác. Anh kể lại:
… Há miệng cho hồn vảng lên muôn trượng
Chơi vơi trong khí hậu chín tầng mây
Ánh sáng lạ sẽ tan vào hư lãng
Trời liêng thiêng cao cả gợn nồng say.
Vì không giới nơi trần gian vắng lặng
Nên hồn bay vùn vụt tới trăng sao
Sóng gió nổi rùng rùng như địa chấn
Và muôn vàn thần phách ngả lao đao
Cả hơi hám muôn xưa theo ám ảnh
Hồn chơ vơ không biết lạc về đâu
Và vướng phải muôn vàn tinh khí lạnh
Hồn mê man bất tỉnh một hồi lâu
Rồi sảng sốt bay tìm muôn tử khí
Và muôn sao xa cách cõi hoang sơ
Hồn cảm thấy bùi ngùi như rướm lệ
Thôi, hồn ơi! Phiêu lạc đến bao giờ …
Tuy nhiên, trong những cơn mê loạn đó, Anh còn tìm được một lối thoát ra ngoài thực tại, để quên đi bệnh hoạn đang dày vò và để tìm lại cái tiên phong đạo cốt của Anh, của một trích tiên bị đày đọa.
Anh chưa từng viết trong “Mộng và thực”: Tôi đang đi trên con đường sáng lạng, tìm lấy chân lý ngàn năm, mà hào quang của tinh tú, của ngọc ngà châu báu, trời tuôn xuống không biết hằng hà sa số nào… Như có một ma lực vô song, xô đẩy tôi đến bờ huyền diệu để vào một cõi vô hình…
Trong bài:
SIÊU THOÁT
Mới thay cõi siêu hành cao tột bậc
Giữa hư vô xây dựng bởi trăng sao
Xa lắm rồi, xa lắm, hải đường bao
Ai tới đó mà chẳng nao thần chí
Tòa châu báu kết bằng hương kì dị
Của tình yêu rung động lớp hào quang
Những cù lao trôi nổi xứ mênh mang
Sẽ quy tụ thâu về trong một mối
Và tư tưởng không bao giờ chắp nối…
Là vì sao? Vì sợ kém thiêng liêng
Trí vô cùng lan nghĩ rộng vô biên
Cắt nghĩa hết những anh hoa huyền bí
Trời bát ngát không cần phô triết lý
Thơ láng lai, chấp chóa những hàng châu
Ta hiểu chi, trong ánh gió nhiệm màu
Những hạt lệ của trích tiên đày đọa.
Ở nơi Hàn Mặc Tử, tâm trạng biến đổi dễ dàng từ thực qua mộng, và phong thái thần tiên trong mối tình huyền hoặc với Thương Thương đã giúp sáng tác Duyên kỳ ngộ và Quần Tiên Hội. Lời thơ vẫn còn được xem rất thoát tục tinh khôi cho đến ngày nay.
Như một đoạn dưới đây, trích dẫn từ Quần Tiên Hội
Hoa khôi:
Liên hồ tây, bốn mùa xuân cả bốn
Ngát hương đưa trong gió sớm chơi vơi
Làn nước mát và chưa bao giờ bợn
Vết phong trần đưa lại ở xa khơi…
Cát tiên:
Đây mùi đạo vẫn còn thơm ngan ngát
Mà ai cho các chị nói tình yêu
Ai cho thỏa bao niềm mong rào rạt
Mà ai cho lòng ngọc tỏa phiêu phiêu
Huyền tiên:
Nương nương ơi, biết nhau từ độ ấy
Tóc xanh thêm và tình đậm đà thêm
Tao phùng duyên đến bao giờ lại thấy
Lòng nghiêng qua sóng mắt muốn xiêu xiêu
.......
Và những khi từ mộng quay về thực anh Trí cũng vẫn thong dong nhàn hạ mà bất cứ một nhà thơ lãng mạn nào cũng không thể nào tình tứ say sưa hơn.
Khi mà hiện tượng đau đớn hốt hoảng trong các bài rùng rợn như Cô liêu, những giọt lệ, hồn là ai, đã đi qua rồi, thì nhớ hương xa xôi lại trở về với Anh trong những vần thơ nhẹ nhàng tình tứ, mà chỉ cần nhìn vào một phiến ảnh thôi:
Bài thơ: Đây Thôn Vỹ Dạ là một chứng minh hùng hồn cho trường hợp đó.
Ý thơ dồi dào tế nhị như không hề bị ảnh hưởng của bệnh hoạn. Bức ảnh Hoàng Hoa gợi ý nhắc mời Anh về thăm mảnh vườn ai xanh mướt, có hàng cau tắm nắng sớm, có khóm trúc quí phái thanh cao nhất là khuôn mặt chữ Điền đoan hậu mà các cụ ngày xưa khen “diện phương tâm chính” và xứ Huế lâu đời vẫn đánh giá cao: “Mặt chữ điền tiền rửa cũng mua.”
Anh lại còn hóm hỉnh hỏi: Có chở kịp trăng về tối nay để bầu bạn cho Anh bớt cô đơn?
Thời gian Anh sáng tác hai lọai thơ nói trên, không xa cách bao nhiêu, trong một hoàn cảnh không thay đổi.
Cũng trong túp lều tranh xơ xác, dưới cây phượng vĩ tàn tạ, trên bờ biển hoang vắng xa xôi, mà cảm ứng của hai trạng thái tâm hồn hoàn toàn khác biệt nhau.
Đó là điều lạ lùng, chỉ có Anh mới sống được như vậy.
Tâm trí Anh từ ngày đau nặng, vẫn mơ ước thoát khỏi cái “ta” ghê tởm.
Anh luôn bị cám dỗ bởi một giấc mơ huyền diệu hướng về trời, vượt ra khỏi không gian. Ước mơ ngày càng mãnh liệt, và mỗi ngày lại gần hơn đến đỗi cảm thụ được trong bài:
NGOÀI VŨ TRỤ
... Ra không gian là vượt hẳn thượng tầng
Tấp tới đến ở ngoài kia vũ trụ
Nơi khí tượng bốc ngàn muôn tinh tú
Nơi không cho hồn lai vẵng quang chiêm
Sáng vô cùng, sáng lạng cả mọi miền
Không u ám như cõi lòng ma quỉ
Vì có Đấng hằng sống, hằng ngự trị
Nhạc liêng thiêng dồn trỗi khắp hư linh
.......
Tìm tới chốn chiêm bao ngoài sự thật
Mộng là mộng tràn trề muôn vạn ức
Tình thơm thơ như ngấn lệ còn nguyên
Ta ước ao đầu đội mũ triều thiên
Và tấm gội ở trong nguồn ánh sáng
Ca những điệu ngọc vàng cao sang sảng
Lời văng xa truyền nhiễm đến vô song
Bầu hạo nhiên lồng lộng một màu trong
Không rung động bởi tơ huyền nao nức…
°
Cuối năm 1939, Anh gầy hẳn, nhưng đôi mắt còn linh hoạt như không đau yếu gì. Có nghĩa là Anh còn minh mẫn, cho nên Anh vẫn còn sáng tác mạnh.
Xem bài tặng chị Mai Đình, ý thơ sâu sắc, những từ ngữ Anh sử dụng diễn tả rõ ràng tâm trạng Anh.
Rồi đến thời kỳ Anh sáng tác Duyên kì ngộ, Quần Tiên Hội, thì lúc ấy Anh hoàn toàn thoát khỏi ràng buộc của bệnh hoạn.
Nhiều lúc Anh tỏ ra bình tĩnh, chờ đợi những gì sẽ xảy đến cho Anh, không còn buồn lo ray rứt gì nữa.
Khoảng tháng bảy năm bốn mươi tôi nghe có lệnh động viên những công chức còn trẻ. Có thể sẽ bị đưa qua Lào làm con đường chiến lược (Routes Stratégiques).
Tôi về Qui Nhơn đến thăm Anh một nơi hẻo lánh trên bờ biển. Anh ngồi trầm ngâm bất động nhìn ra khơi. Cây phượng vĩ đã gần hết hoa. Trên cát trắng một ít cánh hoa đỏ đang tàn héo.
Bỗng Anh quay lại trông thấy tôi, mỉm cười hỏi: “Về bao giờ đó?” Giọng Anh vẫn đều đều, nghe như xa vắng từ đâu. Tôi nhớ lại câu hỏi của Anh. Khi tôi vào Saigon ghé lại con đường Espagne, chờ Anh về khuya. Anh cũng hỏi: Vào bao giờ đó. Cũng vẫn giọng nói đó, thanh âm đó. Không khác đi, không vui mừng hay buồn bã mà hai hoàn cảnh rất xa vời khác biệt.
Ở Saigon là lúc Anh đang nở hoa trong lòng với Mộng Cầm.
Ở đây, Anh đang viết bài thơ:
TRÚT LINH HỒN
Máu đã khô rồi thơ cũng khô
Tình ta chết yểu tự bao giờ
Từ nay trong gió, trong mây gió
Lời thảm thương rền khắp nẻo mơ
Ta còn trìu mến biết bao người
Vẻ đẹp xa hoa của một trời
Đầy lệ, đầy hương, đầy tuyệt vọng.
Ôi giờ hấp hối sắp chia phôi.
Ta trút linh hồn giữa lúc đây
Gió sầu vô hạn nuốt trong cây
Còn em sao chẳng hay gì cả,
Xin để tang Anh đến vạn ngày
Gió biển thổi vào nhè nhẹ, nhưng cũng lấy hết cánh hoa khô héo còn đeo đẳng trên cây. Nhớ lại câu thơ Anh:
Sao bông phượng nở trong màu huyết
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu
Thôi nhé! Hoa phượng không còn rơi nữa đâu! Và tôi cũng không cầm được nước mắt, vội lấy kính râm đeo vào.
Anh trông thấy nói lảng ra: “Lúc này Anh không lần hạt được nữa, viết đã khó khăn lắm rồi”. Trong Anh bình thản như kể chuyện kẻ khác. Không phải nói về Anh.
Da Anh đã khô cứng, nhưng hơi nhăn ở bàn tay, vì phải vận dụng sức để kéo các ngón khi cầm muỗng ăn cơm. Bởi vậy, trông như mang chiếc “găng” tay bằng da thô sảm.
Toàn hình thể như một xác ướp Ai Cập trong Kim Tự Tháp. Đó là hình ảnh cuối cùng tôi trông thấy Anh.
Trước đó, tôi có đến thăm bác sĩ G. Quản đốc bịnh viện, mang biếu ông một ít hoa Đà lạt. Ông giữ tôi lại nói chuyện.
Ông nói: Bệnh cùi rất khó phân biệt. Giới y học (thời đó) chưa biết rõ lắm. Tuy triệu chứng giống nhau, nhưng lại có nhiều thứ. Ông quả quyết bệnh cùi không thể lây lan được, đã có chứng minh của B.S Daniel Sen, thầy dạy của nhà bác học Arnauer Hansen.
Ông ấy buồn rầu nói tiếp: “Anh ấy (anh Trí) không thể sống lâu hơn được nữa, mặc dầu kinh nghiệm ở các trại cùi, không có ai chỉ đau có mấy năm mà chết được. Anh ấy bị nội tạng hư hỏng.” Rồi giận dữ: “ces Charlatans I’ont tué (Bọn lăng băm đó, đã giết chết Anh ấy).”
Tôi ngỏ lời cám ơn và cáo từ. Ông nói: “Tôi rất tiếc”. Có vẻ như ông trách gia đình tôi không đưa Anh đi bệnh viện sớm hơn để chạy chữa.
(Tôi nghĩ ông nói đúng, vì tôi biết có nhiều người chạy chữa công khai, không có mặc cảm thể thống tiếng tăm nên đã lành bệnh. Có lẽ mẹ tôi quá tế nhị về điểm này. Cũng có thể mẹ tôi không nỡ để Anh có cảm nghĩ về bệnh nan y của Anh bị ruồng rẫy).
Khi tôi nói với Anh Trí, tôi có thể bị đổi qua Lào, chắc còn lâu mới trở về được. Và hỏi Anh về số bút tích của Anh mà tôi dồn lại ở nhà, sẽ giao cho ai lo xuất bản. Anh mỉm cười phó thác: “Thôi em đừng lo, em lo nhiều rồi. Anh không muốn làm phiền em… À, mà còn chút này, là cho Anh một pho tượng Đức Mẹ ban ơn bằng thạch cao. Anh ước ao lâu lắm rồi” (Đức Mẹ ban ơn có hình dáng cúi xuống đưa hai tay như nâng đỡ). Có lẽ Anh nhớ về câu thơ của Anh.
…Toan ngất đi trong cơn mê khoái lạc
Mẹ dấu yêu liền vội đến tay nâng…
Tôi nói: “Ở Việt Nam không có mẫu tượng đó, phải gởi mua ở Pháp. Để có dịp đi Saigon tìm thử”.
Thấy tôi buồn bã, Anh cười triết lý: “Đằng nào thì cũng phải đến đó. Cầu nguyện cho Anh với… Nghĩ lại mình cuồng dại quá, đã bỏ phí nhiều thì giờ vô ích, chạy theo những cái mà mình phải bỏ lại.” Rồi Anh cười vui vẻ.
Anh càng bình tĩnh, lòng tôi càng chua xót, không cầm được nước mắt, vội vã ra về như chạy trốn, mà lòng tan nát. Nhớ lại mấy câu thơ Anh viết:
Ôi ngông cuồng, ôi rồ dại, rồ dại!
Ta đi thuyền trên mặt nước lòng ta
Ôi ngông cuồng, ôi rồ dại, rồ dại
Ta cắm thuyền chính giữa vũng hồn ta.
°
Tháng 9 năm ấy, tôi nhận được thư chú Hiếu báo tin: Anh Bửu Dỏng đã đưa anh Trí vào nhà thương Quy Hòa, có mẹ tôi và em Hành đi theo.
Anh Dỏng và thầy Hứa Chánh văn phòng bệnh viện ra tiễn và trao hồ sơ bệnh lý cho tài xế. Anh Trí còn đùa: “Tập hồ sơ mỏng quá”. Anh Dỏng cười: “Cậu có đau gì đâu mà ghi cho nhiều.”
Thế là hết!
Về sau tôi còn hỏi anh Dỏng: “Có thật đã tìm thấy vi trùng Hansen không?” Anh nói: “Cậu Trí vô phương rồi, không còn hy vọng gì nữa,… mà…. không có vi trùng ai cho vào nhà thương Quy Hòa.”
Sau lễ đình chiến, tôi xong công tác sở, trở về Đà Lạt, nhận được điện tín nhà báo tin Hàn Mặc Tử qua đời hôm lễ.
Đánh điện về sở, tùy phái mang về nhà cho tôi đã chiều tối. Tôi không thấy xúc động bằng khi tôi đến thăm Anh ở Gành Ráng.
Hình ảnh tàn tạ của Anh, từ đó tôi mang theo mãi, nên không thể hình dung những gì khác hơn được nữa.
Ngôi trên chiếc ghế đã bên bờ hồ, tôi cố nhớ lại một bài thơ nào của Anh, một cử chỉ, một lời nói của Anh cho thấy mối quan hệ giữa Anh và gia đình, nồng nàn nhạt tẻ ra sao, thật khó mà tìm thấy rõ rệt.
Có điều không quên được một lần, Anh biểu lộ hớn hở vui mừng một cách bộc trực, khi mẹ và tôi đồng ý giao tiền cho Anh in tập Gái quê thì Anh ôm tôi hôn thắm thiết rồi đi tìm hôn mẹ tôi náo động cả lên.
Làm sao mà giận Anh được. Đối với Anh thơ là trên hết. Đêm nay Đà Lạt tháng chạp, trời quang sáng, nhưng sương xuống nhiều trăng mờ đi, tôi nhớ đến bài thơ Đà Lạt trăng mờ:
Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu…
Quả thật, Anh đã đi vào cõi thiêng liêng, không còn bận bịu gì ở trần thế.
Theo tôi, thì Anh đã chết lâu từ ngày ngoài bờ biển và đã vào cõi thiêng liêng của riêng Anh rồi.
Xin thứ tha những câu thơ tội lỗi,
Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng.
°
Anh Trí mất đi, để lại cho tôi một bổn phận thiêng liêng quá lớn đối với bạn bè thân hữu, mà ân tình, ân nghĩa còn ràng buộc lâu dài.
Nhân viết lại hồi ký này, tôi ước ao gởi đến những thân hữu của Anh còn sống hay đã quá vãng, đã từng giúp đỡ viếng thăm Anh tôi, trong nhiều năm bệnh hoạn nghèo nàn, đặc biệt là những người bạn cũ con đường Khải Định Quy Nhơn một tấc lòng tri ân trong tập sách này cho đến đời sau mãi mãi.
Nhớ đến em Phạm Hành, tôi chân thành kính cẩn tạ ơn chú Phạm Thân tôi đã để em ở lại bên cạnh Anh Trí, thay thế tôi mấy năm làm việc xa nhà.
Tôi xin dành trọn một chương sau đây để ghi nhớ công ơn và tình nghĩa của em Hành tôi.