Dịch giả: Nguyễn Hiến Lê
CHƯƠNG II - KHỔNG TỬ

1. Một bậc hiền triết đi kiếm một nước để phục vụ

Lúc sanh và tuổi thơ – Cưới vợ rồi li dị - Môn sinh và cách dạy – Hình dáng và đức độ - Một người đàn bà và con cọp – Thế nào là chính quyền tốt – Khổng tử cầm quyền – Những năm chu du thiên hạ - Những niềm an ủi khi về già

 

Khổng Khâu, mà môn sinh gọi là Khổng phu tử, sanh năm 551 tr. T.L. ở huyện Khúc Phụ, thời đó ở trong nước Lỗ, bây giờ thuộc tỉnh Sơn Đông. Truyền thuyết Trung Hoa cho biết thân mẫu ông nằm mê thấy gì[1] trước khi sanh ra ông trong một cái hang, có rồng chầu ra sao, các nàng tiên làm cho không khí ngào ngạt hương thơm ra sao[2], những truyện đó ta không có cách nào bác bỏ được. Người ta bảo lưng ông như lưng rồng, môi như môi bò [?], miệng rộng như biển. Giòng họ ông lâu đời nhất Trung Hoa, vì tổ tiên ông là Hoàng Đế, và họ Khổng còn truyền lại bất tuyệt cho đến ngày nay. Cách đây một thế kỉ hậu duệ của ông, phái nam, không kể phái nữ được mười một ngàn người; quê hương ông ngày nay đa số gồm những người họ Khổng, mà thời xưa Khổng tử chỉ có một người con trai [tức Khổng Lí]; một người họ Khổng [Khổng Tường Hi][3] làm bộ trưởng tài chánh dưới thời Tưởng Giới Thạch ở Nam Kinh.
 
Khi Khổng tử ra đời thì thân phụ đã bảy mươi tuổi; ba tuổi ông mồ côi cha. Lớn lên, ngoài những giờ học, ông phải giúp mẹ, và có lẽ ngay từ hồi nhỏ, ông đã có cái vẻ nghiêm trang mà ông giữ được suốt đời. Mặc dầu vậy ông vẫn có thì giờ học môn bắn cung và âm nhạc; ông mê nhạc tới nỗi sau này có lần [ở Tề] nghe nhạc [thiều] thích quá, suốt ba tháng không ăn thịt [Luận ngữ - Thuật nhi -13]. Nietzche cho rằng triết gia không nên có vợ; Khổng tử mới đầu không nghĩ vậy, cho nên mười chín tuổi lập gia đình, nhưng hai mươi ba tuổi li dị, và hình như sau đó không tục huyền.
 
Ông bắt đầu dạy học hồi hai mươi hai tuổi, dùng ngay nhà ông làm trường học, cha mẹ học trò muốn tặng lễ vật ít nhiều gì cũng được. Ông dạy về ba môn chính: sử, thơ và những qui tắc về chính sách (?)[4]. Ông thường bảo: “Tư cách người ta phát ra nhờ “thi”, ý chí vững vàng nhờ “lễ”, đức hạnh thành tựu được nhờ “nhạc”. Cũng như Socrate, ông dạy bằng lời chứ không bằng sách và chúng ta chỉ được biết học thuyết của ông nhờ môn đệ của ông chép lại. Ông nêu một gương quí cho các triết gia – nhưng ít người theo được – là không bao giờ chỉ trích các nhà tư tưởng khác, không mất thì giờ vào việc tranh biện[5]. Ông không dạy môn lí luận, nhưng ông mài giũa trí tuệ của môn sinh bằng cách ôn tồn chỉ cho họ sự suy luận lầm lẫn ở đâu và luôn luôn phải có tinh thần mẫn nhuệ. “Người nào chẳng tự hỏi: mình phải làm [cái này] ra sao? Mình phải làm [cái đó] ra sao? thì ta cũng chẳng có cách nào chỉ bảo cho được [Luận ngữ - Vệ Linh Công – 51]. Kẻ nào không hăng hái muốn hiểu thì ta không thể giúp họ hiểu được, kẻ nào không dám tỏ ý kiến thì ta không thể giúp cho phát biểu ý kiến được. Ta vén cho một góc mà chẳng chịu tìm ba góc kia thì ta không giảng thêm cho nữa” [Luận ngữ - Thuật nhi – 8]. Ông tin chắc rằng chỉ bậc đại ngu thì học mới không ích lợi gì, còn những người khác học thì thế nào trí tuệ và tư cách cũng được cải thiện. “Không có người nào học ba năm mà không thấy khá hơn”[6].
 
Mới đầu ông có ít học trò, nhưng chẳng bao lâu người ta thấy ông đức cao, học rộng, nên về cuối đời, ông có thể tự hào rằng có tới ba ngàn môn sinh nhờ ông dạy dỗ mà thành tài, có địa vị rực rỡ trong xã hội. Một số môn sinh – có thời được tới bảy chục[7] – sống với ông như các môn sinh Ấn Độ sống với guru (tôn sư), quí mến ông lắm, ngăn cản ông khi ông muốn làm cái gì có hại cho ông, và phản đối dữ dội khi có ai nói xấu ông. Mặc dầu rất nghiêm với môn sinh, ông cũng yêu vài người còn hơn con ông nữa; khi một môn sinh, Nhan Hồi chết, ông khóc nức nở. Khi Lỗ Ai Công hỏi trong số môn sinh của ông có ai hiếu học, ông đáp: “Có Nhan Hồi hiếu học. Anh ấy không giận lây, có lầm lỡ thì không tái phạm. Chẳng may anh ấy chết sớm, nay thì không còn ai nữa, tôi chưa nghe nói có ai hiếu học nữa” [Luận ngữ - Ung dã – 2]. Lần khác Khổng tử bảo: “Anh Hồi không giúp cho ta được gì cả [nghĩa là không giúp ta suy nghĩ, tìm hiểu thêm]. Vì[8] chẳng có điều gì ta giảng mà anh ấy không vui lòng [nghĩa là hiểu ngay, làm theo ngay] [Luận ngữ - Tiên tiến – 3]. Kẻ nào làm biếng thì trốn ông vì ông không khoan hồng với họ, có lần ông đánh một tên biếng nhác, mắng cho tàn nhẫn rồi đuổi đi. “Kẻ nào cả ngày chỉ ăn no rồi ở không, chẳng dụng tâm làm việc gì thì khó mà sửa đổi được lắm” [Luận ngữ - Dương Hoá – 21]. Một lần ông mắng Nguyên Nhưỡng, một người quen cũ: “Hồi nhỏ không biết kính trọng bậc huynh trưởng, lớn lên chẳng làm được việc gì đáng khen, già rồi mà không chết đi, như vậy sống chỉ là phá hại thôi” [Luận ngữ - Hiến vấn – 46]. Được thấy ông đứng trong lớp đương dạy học hoặc vừa đi ngoài đường vừa giảng cho môn đệ về thi, lễ, triết lí, chắc là điều thú vị lắm. Các hoạ sĩ Trung Hoa vẽ ông lúc về già: đầu gần hoàn toàn hói, nét mặt như đanh lại vì kinh nghiệm, nghiêm trang một cách đáng sợ, chứ không để lộ một chút hài hước, âu yếm, hay tính đa cảm mẫn nhuệ, rất nghệ sĩ của ông, mà chính những nét này làm cho ông rất gần với chúng ta, mặc dầu đức độ ông hơn chúng ta nhiều quá. Một thầy dạy nhạc cho ông đã tả ông như sau, khi ông mới tới tuổi trung niên:
 
Tôi đã thấy Trọng Ni có nhiều nét của một bậc hiền. Mắt trong như nước sông, trán như trán rồng, khiến chúng ta nhớ tới vua Hoàng Đế. Tay dài, lưng cong như lưng rùa, cao chín thước[9] sáu tấc. Ông thường khen các tiên vương[10]. Ông theo cái đạo khiêm nhượng, lễ độ. Nhờ có kí tính phi thường, ông cái gì cũng biết, nghe rồi là nhớ liền. Kiến thức của ông mênh mông. Như vậy chẳng hiển nhiên là ông sẽ thành một bậc hiền sao[11].
 
Theo truyền thuyết, ông có “bốn mươi chín tướng quí”. Một hôm ông gặp một tai nạn, thầy trò lạc nhau. Tử Cống đi tìm ông. Một người dân trông thấy ông, mách rằng mới thấy một người tướng rất kì quái, coi vẻ thảm hại “như con chó hoang”. Khi thầy trò gặp nhau, Tử Cống kể lại lời đó, Khổng tử thích lắm, bảo: “Lạ nhỉ! Lạ nhỉ![12]
 
Ông dạy theo lối cổ, cho rằng thầy trò phải cách biệt nhau, phải giữ đúng lễ[13]. Ông chủ trương khắc kỉ, giữ đạo cho nghiêm để chống với tính ham hưởng lạc của con người. Có hồi ông có vẻ như tự đắc: “Trong một xóm mười nhà, tất có người tín như Khâu này, nhưng chẳng ai ham học bằng Khâu” [Luận ngữ - Công Dã Tràng - 27]. “Về văn chương, học thuật thì hoặc giả ta cũng bằng người, nhưng về đạo quân tử thì ta chưa thi hành cho trọn được” [Luận ngữ - Thuật nhi – 32][14]. Nếu có ông vua nào dùng ta thì trong một năm đã khá rồi, sẽ thành công” [Luận ngữ - Tử Lộ - 10]. Nhưng xét chung thì ông nhũn nhặn. Các môn đệ ông bảo không hề mắc bốn điều lỗi này: không bao giờ kết luận vội vàng quá, không quyết định trước một cách độc đoán, không cố chấp, không ích kỉ[15]. [Luận ngữ - Tử Hãn – 4]. Ông tự cho mình là chỉ truyền lại đạo của vua Nghiêu vua Thuấn đời xưa chứ không sáng tác gì mới[16] [Luận ngữ - Thuật nhi – 1].
 
Ông rất mong được nổi danh và được làm quan [để thi hành đạo của ông], nhưng ông giữ vững lập trường [về chính trị] nên không được các vua chúa dùng hoặc dùng mà không được lâu. Nhiều lần ông từ chối các chức vụ cao vì lối trị dân của các vua chúa muốn dùng ông đó không hợp với đạo của ông. Ông bảo các môn sinh: “Đừng lo mình không có chức vị, chỉ lo mình không đủ tài đức để lãnh chức vị; đừng lo không ai biết mình, chỉ lo mình không có gì đáng cho người ta biết”[17]. [Luận ngữ - Lí Nhân – 14].
 
Một vị đại thần ở Lỗ, Mang He[18], có hai người con lại học ông. Do đó mà ông được giới thiệu với triều đình Chu ở Lạc Dương; nhưng ông lánh xa chỗ cung điện mà thích đi thăm Lão tử lúc đó đã gần chết. Khi trở về Lỗ, thấy tổ quốc ông bị tàn phá vì nội loạn, ông cùng với vài môn sinh lánh qua nước Tề. Đi qua một miền núi non hiểm trở, hoang vu, ông ngạc nghiên thấy một bà lão, khóc trên một nấm mộ. Ông sai Tử Lộ[19] lại hỏi nguyên do. Bà lão đáp: “Cha chồng tôi bị cọp vồ nơi đây; rồi tới chồng tôi cũng vậy, bây giờ con trai tôi cũng mới bị nạn đó”. Khổng tử hỏi chỗ đó nguy hiểm như vậy, sao không đi ở chỗ khác, bà lão đáp: “Vì ở đây không có bọn quan lại hà khắc”. Khổng tử quay lại bảo môn sinh: “Các con nhớ đấy: chính sách hà khắc còn khốc hại hơn là hổ” [Lễ kí].
 
Vua Tề [Cảnh Công] mời ông vô triều, hỏi về cách cai trị. Ông đáp: “Vua làm hết phận vua, tôi làm hết phận tôi; cha làm hết phận cha, con làm hết phận con” [Luận ngữ - Nhan Uyên – 11]. Vua Tề khen là phải, muốn phong cho ông ấp Lin K’ew[20] nhưng ông không nhận, bảo không có công gì để đáng nhận. Nhà vua lại muốn dùng ông làm chức cố vấn, nhưng tể tướng là Gan Ying[21] can ngăn: “Hạng sĩ ấy không có óc thực tế, không thể làm gương mẫu được. Họ kiêu ngạo, chỉ cho ý tưởng của họ mới đúng, không chịu nhận những chức thấp. Ông Khổng đó là một người kì quặc, còn lâu mới chịu bỏ cái thói làm bộ làm tịch để ra vô”[22]. Vậy là Khổng tử trở về Lỗ, lại tiếp tục dạy học mười lăm năm nữa rồi mới được vời ra làm quan.
 
Qua đầu thế kỉ sau [tức đầu thế kỉ thứ V trước T.L, lúc này Khổng tử 51 tuổi], ông được làm Trung đô tể ở Lỗ [tức như chức kinh thành phủ doãn thời gần đây]. Theo truyền thuyết, ông cầm quyền thì cả kinh thành đua nhau lương thiện: của rơi ngoài đường không mất mà được trả lại cho chủ. Rồi vua Định công nước Lỗ phong ông làm Tư không [như Công bộ thượng thư], ông sai đo những đất thuộc về Quốc gia và làm cho canh nông phát triển. Sau ông cải chức làm Đại tư khấu [như Hình bộ thượng thư], các tội ác biến mất. Sử chép “không còn gian dối truỵ lạc nữa, đàn ông thì ngay thẳng, thành tín, đàn bà thì trinh tiết và nhu thuận. Người các nước khác đổ xô lại Lỗ. Khổng tử được dân chúng ngưỡng mộ”[23].
 
Thật là tốt đẹp quá, khó mà tin được, hoặc ít nhất thì cũng khó mà lâu bền được. Nếu quả thật bọn gian tà trốn hết thì chắc là để âm mưu đưa ông vào bẫy. Sử chép rằng các nước chung quanh ghen với Lỗ, thấy Lỗ thịnh lên mà lo sợ. Một đại phu quỉ quyệt nước Tề dùng kế phản gián. Vua Tề gởi qua Lỗ một đoàn mĩ nữ và 120 con ngựa tốt. Vua Lỗ say mê, không nghe lời can gián của Khổng tử (…) bỏ bê việc nước, làm cho các quan đại phu bất bình. Tử Lộ thưa với Khổng tử: “Lúc này thầy nên ra đi”. Bất đắc dĩ ông phải từ chức, rời nước Lỗ và bôn ba các nước chư hầu trong mười ba năm, sau này ông nhận thấy rằng “chưa thấy ai hiếu đức bằng hiếu sắc” [Luận ngữ - Tử Hãn – 17], mà sự thực, về một vài phương diện nào đó, hoá công đã lầm lẫn mà cho đức và sắc rất ít khi đi đôi với nhau.
 
Không được trọng dụng trong nước mình nữa, Khổng tử với một số môn sinh thân tín đi lang thang từ nước này qua nước khác, có khi được tiếp đãi trọng hậu, nhưng cũng có khi long đong, suýt nguy tới tánh mạng, hoặc bị thiếu thốn. Hai lần ông và môn sinh bị cướp đánh, và một lần bị đói, tới nỗi Tử Lộ phải phàn nàn rằng bậc quân tử sao mà bị trời đày đoạ như vậy. Vua Vệ muốn giao quyền cho ông nhưng ông từ chối, không chấp nhận cách trị dân của nhà vua[24].
 
Một hôm thầy trò đi ngang qua nước Tề, gặp hai ông già chán cảnh sa đoạ thời đó, từ quan về ở ẩn sống giản dị như Lão tử. Một ông nhận ra được Khổng tử, trách Tử Lộ sao mà theo Khổng tử, bảo: “Ùa ùa như nước chảy một chiều, thiên hạ đều như vậy cả, ai mà theo mình để sửa đổi loạn ra trị? Anh chỉ theo một bực sĩ tránh người [ám chỉ Khổng tử vì Khổng tử xa lánh bọn vua quan vô đạo], sao bằng theo bực sĩ lánh đời [nghĩa là bọn ẩn sĩ như mình]. [Luận ngữ - Vi tử - 6]. Khổng tử suy nghĩ lâu về lời ấy, nhưng vẫn hi vọng sẽ gặp một ông vua dùng mình để cải tổ xã hội cho hết loạn lạc[25].
 
Sau cùng, ông đã sáu mươi chín tuổi, Ai Công nước Lỗ lên nối ngôi, phái ba viên quan kiếm ông, tặng ông lễ vật và mời ông về nước. Trong năm năm cuối cùng, ông sống giản dị, được mọi người quí trọng, thường được nhà vua hỏi ý kiến, nhưng ông lánh việc triều đình, chỉ lo san lại các kinh và viết một bộ sử về nước ông [tức bộ Xuân Thu].
 
Diệp Công có lần hỏi Tử Lộ về Khổng tử. Tử Lộ không đáp. Hay được Khổng tử bảo Tử Lộ: “Sao anh không đáp như vầy: người ấy có lúc gắng suy nghĩ về đạo lí mà tới quên ăn, tìm ra được đạo lí thì vui đến quên hết lo buồn, không hay rằng cái cái già nó sắp đến?” [Luận ngữ - Thuật nhi – 18]. Ông tiêu khiển bằng thơ và triết lí, mừng rằng cứ theo bản năng của mình mà cũng không trái với đạo lí. “Ta mười lăm tuổi để chí vào việc học, ba mươi tuổi đã vững chí; bốn mươi tuổi tâm trí sáng suốt, không còn nghi hoặc về đạo lí nữa; năm mươi tuổi biết được mạng Trời; sáu mươi tuổi nghe điều gì thì hiểu ngay, bảy mươi tuổi lòng ta muốn gì thì cũng không hề sai phép”[26] [Luận ngữ - Vi Chính – 4].
 
Ông mất năm bảy mươi hai tuổi [tính theo phương Đông, là bảy mươi ba]. Một buổi sáng, người ta [Tử Cống] nghe thấy ông hát:
 
Núi Thái Sơn sắp sụp.
Cây thượng lương sắp đổ.
Bậc triết nhân sắp mất.
 
Tử Cống lại gần ông, ông bảo: Thiên hạ loạn từ lâu, mà không một ông vua nào chịu theo lời khuyên của thầy. Thầy sắp đi đây. Ông nằm xuống và bảy ngày sau ông mất.
 
Môn sinh chôn cất ông rất long trọng, ai cũng thương xót ông, họ cất nhà lá ở chung quanh mộ ông, để tang ông ba năm, khóc ông như con khóc cha. Khi họ đi rồi, Tử Cống quí ông nhất, còn ở lại giữ mộ cho ông ba năm nữa.
 

2. Ngũ kinh và tứ thư

 

Khổng tử lưu lại năm cuốn sách có vẻ như chính tay ông viết hoặc san định mà người Trung Hoa gọi là ngũ kinh. Trước hết là cuốn Lễ kí chép những lễ nghi thời trước để hàm dưỡng những tình cảm tốt và giữ trật tự cùng sự an ổn trong xã hội. Rồi tới những thiên gọi là Thập dực để giải thích Kinh Dịch, cuốn này là sự cống hiến thâm thuý nhất của Trung Hoa vào khu vực tối tăm của siêu hình học mà ông vẫn tránh xa trong học thuyết của ông. Cuốn thứ ba là Kinh Thi trong đó ông tuyển những bài ca, bài dao, để cho người ta biết bản thể của đời sống ra sao, và phải theo qui tắc luân lí nào. Sau đó tới cuốn Xuân Thu chép lại một cách thật vắn tắt, gần như không thành câu, những biến cố quan trọng trong lịch sử nước Lỗ, quê hương của ông. Tác phẩm chính của ông là cuốn thứ năm Kinh Thư, ghi lại những biến cố và truyền thuyết về các thời vua cổ, thời mà Trung Hoa còn thống nhất một phần nào và các nhà cầm quyền là những vị anh hùng, những vị hi sinh cho dân, ông tin như vậy. Ông dùng cuốn ấy để đào tạo tư cách cho môn sinh. Trong năm cuốn ấy ông không muốn làm công việc của một sử gia mà chỉ nhắm việc dạy dỗ thanh niên, cho nên ông chỉ giữ lại những truyện hoặc những sự kiện cổ nào có tính cách làm cho tâm hồn môn sinh cao thượng lên; vậy chúng ta không nên coi những cuốn đó là lịch sử của Trung Hoa chép một cách vô tư, theo tinh thần khoa học. Có chỗ ông tưởng tượng ra những truyện, những đàm thoại chỉ để cho hợp với quan niệm đạo đức của ông. Lí tưởng hoá dĩ vãng của dân tộc ông như vậy, ông hành động cũng y hệt như ta ngày nay khi chúng ta đề cao những vị quốc trưởng mới cách chúng ta chưa đầy một thế kỉ khiến trong khoảng ngàn năm nữa họ cũng sẽ thành những vị thánh minh triết như Nghiêu, Thuấn hết.
 
Người Trung Hoa thêm vào ngũ kinh đó bốn cuốn nữa gọi là Tứ thư, cộng hết thảy là chín cuốn. Cuốn đầu và là cuốn quan trọng nhất trong tứ thư là cuốn Luận ngữ không do Khổng tử viết, mà do các môn đệ ông viết ít chục năm sau khi ông mất, để ghi lại bằng một giọng văn cô đọng và sáng sủa những ý kiến của ông, cùng những lời ông dạy bảo. Cuốn ấy là cuốn đáng tin nhất để tìm hiểu triết lí của ông. Cuốn thứ nhì là cuốn Đại học. Chương thứ tư và chương thứ năm[27] của cuốn này có những đoạn hay nhất và đặc biệt nhất trong các kinh, thư của Trung Hoa. Theo Chu Hi [triết gia đời Tống] thì hai chương ấy của Khổng tử, còn những chương khác là của Tăng Sâm, một môn đệ trẻ nhất của Khổng tử. Theo Kea Kwei [?] một học giả ở thế kỉ thứ nhất sau T.L., thì tác phẩm ấy của Khổng Cấp [tức Tử Tư], cháu nội Khổng tử, nhưng các học giả ngày nay luôn luôn hoài nghi, bảo không biết chắc của ai viết. Nhưng tất cả các nhà chuyên môn đều nhận rằng cuốn thứ ba, Trung dung, là của Khổng Cấp. Cuốn cuối, Mạnh tử, dưới đây chúng tôi sẽ xét tới. Các kinh tịch của đạo Khổng chỉ gồm chín cuốn ấy, nhưng tư tưởng Trung Hoa trong thời đại “tử học”[28] không phải chỉ có bấy nhiêu[29]. Chúng ta sẽ thấy còn những học thuyết khác chống lại tinh thần thủ cựu trong triết học của Khổng tử.
 

3. Chủ trương bất khả tri của Khổng tử 

Một đoạn luận lí  – Triết gia và hai đứa nhỏ  – Một qui tắc minh triết

 

Phải công tâm mà nhận rằng nhân sinh quan trong triết lí Khổng tử hợp với tuổi năm mươi của chúng ta và có lẽ xét cho cùng nó hợp lí hơn những tư tưởng nên thơ của tuổi trẻ. Khi chúng ta còn trẻ, chúng ta nên dung hòa triết lí ấy với triết lí của chúng ta nếu chúng ta muốn cho người khác thừa nhận những bán-chân lí của chúng ta mà chúng ta lấy làm tự phụ.
 
Không nên tìm ở Khổng tử một triết hệ, nghĩa là một toàn thể có mạch lạc, hệ thống gồm luận lí học, siêu hình học, đạo đức học và chính trị học, hết thảy đều qui vào một ý chính, căn bản (như những cung điện của Nebuchadrezzar mà mỗi viên gạch đều có ghi tên nhà vua). Khi dạy nghệ thuật lí luận Khổng tử không dùng phép tam đoạn luận mà luôn luôn dùng sự bén nhạy của trí tuệ ông để sửa lại tư tưởng của môn sinh; học xong họ không biết gì về hình-thức-luận-lí-học (logique formelle) mà biết suy nghĩ sáng suốt và không lạc ra ngoài vấn đề. Điều ông dạy đầu tiên là tư tưởng cùng ngôn ngữ phải sáng sủa, thành thực: “Lời nói, miễn diễn đúng ý tưởng là đủ” [Luận ngữ - Vệ Linh công – 40]; bài học ấy, môn triết học không luôn luôn theo đúng.  
 
“Biết điều gì thì giữ đúng điều ấy[30], không biết nhận là không biết; như vậy là thật biết” [Luận ngữ - Vi Chính – 17]. Vì thiếu thành thực mà tư tưởng hoá tối tăm, ngôn ngữ thiếu chính xác, đó là cái hại lớn cho quốc gia. Vua không ra vua thì đừng gọi là vua nữa, cha không ra cha thì đừng gọi là cha nữa, con không ra con thì đừng gọi là con nữa, chỉ có như vậy thì người ta mới không núp sau danh từ mà làm bậy. Cho nên khi Tử Lộ hỏi ông: “Nếu vua nước Tề đợi Thầy về để giúp ngài trị nước thì Thầy sẽ làm gì trước hết?”, ông đáp: “Tất phải làm cho chính danh đã”, khiến Tử Lộ rất đỗi ngạc nhiên.
 
Vì ông chỉ ham áp dụng đạo của ông vào việc cư xử và trị nước, cho nên ông lánh phần siêu hình học, rán gạt các thuyết tối tăm, mù mờ đi, không cho môn sinh nghĩ tới. Mặc dầu đôi khi ông cũng nói đến Trời và việc cúng vái [như Luận ngữ - Bát dật – 13] và khuyên môn sinh phải giữ đúng tục tế lễ tổ tiên và các thần của quốc gia, nhưng khi môn sinh hỏi về thần học thì những câu trả lời của ông có tính cách phủ nhận, cho nên các học giả ngày nay đều coi ông là có chủ trương bất khả tri [nghĩa là chủ trương rằng con người không hiểu nỗi những cái tuyệt đối như có Thượng đế không, có linh hồn bất tử không, ai sinh ra loài người…]. Khi Tử Cống hỏi: “Người chết, còn biết không?”, ông không trả lời một cách quả quyết[31]. Khi Quí Lộ hỏi về đạo thờ quỉ thần, ông bảo: “Đạo thờ người còn chưa biết, sao biết được đạo thờ quỉ thần”. Quí Lộ lại hỏi thêm: “Xin thầy cho biết về sự chết”, ông đáp: “Sự sống còn chưa biết, biết sao được sự chết” [Luận ngữ - Tiên tiến – 11]. Phàn Trì hỏi thế nào là “trí” [sáng suốt], Khổng tử đáp: “Chuyên làm việc nghĩa giúp người, kính trọng quỉ thần, nhưng xa ra, như vậy có thể gọi là trí” [Luận ngữ - Ung dã – 20]. Môn sinh của ông bảo ông không thích nói tới “những cái quái dị, dõng lực phản loạn và quỉ thần” [Luận ngữ - Thuật nhi – 20].
 
Thái độ triết lí khiêm nhượng đó làm cho môn sinh ngạc nhiên vì chắc chắn là họ muốn được ông vén cho ít nhiều bí mật của Trời. Cuốn Liệt tử chép truyện hai đứa nhỏ hỏi ông mặt trời gần trái đất hơn khi mới mọc – vì lúc đó nó lớn hơn – hay là khi giữa trưa – vì lúc đó nó nóng hơn – ông không đáp nổi và chúng cười ông: “Vậy mà người ta bảo rằng ông biết nhiều chứ”[32]. Về siêu hình học, Khổng tử chỉ khuyên chúng ta tìm một sự đồng nhất nào đó giữa các hiện tượng và gắng sức phát kiến được sự hoà hợp và quân bình giữa đạo làm người với luật thiên nhiên, tức đạo trời[33]. Một hôm ông hỏi Tử Cống: “Này anh Tứ, chắc anh cho rằng thầy muốn học cho thật nhiều mà nhớ cho hết, phải không?”. Tử Cống đáp: “Dạ, nhưng không phải vậy sao?”. – “Không, thầy chỉ muốn tìm một mối mà thông suốt hết cả” [Luận ngữ - Vệ Linh công – 2]. Thì tinh tuý của triết lí chính là vậy.
 
Ông chú trọng nhất tới luân lí. Ông cho rằng thời đó loạn lạc là vì đạo đức suy vi; có thể là do các tin tưởng thời cổ đã kém rồi, hoặc do bọn nguỵ biện và hoài nghi truyền bá những ý niệm của họ về thiện và ác; có thể vãn hồi được trật tự, không phải bằng cách trở lại những niềm tin thời xưa, mà bằng cách thành tâm tìm một tri thức viên mãn hơn [chắc tác giả muốn nói: cách vật, trí tri] và phục hồi lại đạo đức bằng một đời sống gia đình được qui định chặt chẽ, vững vàng hơn. Chương trình vãn hồi trật tự đó được ông trình bày một cách mạnh mẽ và thâm thuý trong đoạn bất hủ dưới đây trong cuốn Đại học:
 
Đời xưa muốn làm sáng đức trong thiên hạ thì trước hết phải trị nước mình [nghĩa là làm cho nước mình được trị], muốn trị nước mình thì trước hết phải sửa thân mình; muốn sửa thân mình thì trước hết phải tề nhà mình, muốn tề nhà mình thì trước hết phải chính cái tâm của mình; muốn chính cái tâm của mình thì trước hết phải làm cho tinh thành cái ý của mình, muốn làm cho tinh thành cái ý của mình thì trước hết phải có tri thức xác đáng; tri thức xác đáng ở chỗ xét kĩ mọi vật.
 
Mọi vật đã xét kĩ thì tri thức mới xác đáng; tri thức đã xác đáng thì sau cái ý mới tinh thành; ý đã chính thì sau cái tâm mới chính; cái tâm đã tinh thành thì sau cái thân mới được sửa; cái thân đã sửa thì sau nhà mới tề; nhà đã tề thì sau nước mới trị; nước đã trị thì sau thiên hạ mới bình[34]. Từ thiên tử cho đến thứ dân đều phải lấy sự sửa mình làm gốc; gốc loạn mà ngọn trị là chưa hề có; cái gốc mình đáng hậu mà lại bạc, cái ngọn mình đáng bạc mà lại hậu là điều chưa hề có[35].
 
Đó là cái tinh tuý mà cũng là chìa khoá của triết lí Khổng tử. Dù chúng ta không còn giữ được tất cả những lời giảng dạy khác của ông và các môn đệ ông, thì chỉ mấy hàng ấy cũng cho ta được cái “cốt yếu của vấn đề” và hướng dẫn ta trong trọn đời ta rồi. Khổng tử bảo thiên hạ loạn lạc vì các nước không được khéo trị, mà nước không được khéo trị vì luật pháp dù nhiều tới đâu cũng không thay thế được trật tự tự nhiên trong xã hội, trật tự này đặt cơ sở trên gia đình; gia đình bê bối, không làm được nhiệm vụ duy trì trật tự xã hội kể trên là vì người ta quên rằng nếu mình không sửa được mình [tu thân], không thể tề gia được; họ không tu thân được vì lòng họ bất chánh, không gột được hết những dục vọng hỗn độn trong tâm hồn; lòng họ bất chánh vì tư tưởng của họ không ngay thẳng, không tuân theo sự thực mà tìm cách giấu bản thể thực của họ; tư tưởng của họ không ngay thẳng vì họ để cho dục vọng làm sai sự kiện do đó mà kết luận sai, chứ không chịu phát triển kiến thức thật rộng bằng cách vô tư tìm hiểu bản thể thực của sự vật. Vậy chúng ta cứ nên tìm hiểu sự vật một cách bất vị lợi thì tư tưởng sẽ ngay thẳng; tư tưởng ngay thẳng rồi thì lòng không còn những dục vọng hỗn độn nữa; lòng được gột như vậy rồi, cái ngã của chúng ta sẽ thấy qui tắc tự nhiên của nó[36], thân đã sửa rồi thì tự nhiên nhà được tề - không do những lời giảng luân lí dài dòng hoặc những cách trừng trị nghiêm khắc, tàn bạo, mà chỉ do mình im lặng làm gương cho người nhà; khi nhà được tề bằng sự trí tri, thành ý và sự nêu gương, thì trật tự trong xã hội sẽ tự nhiên được tăng cường rất mạnh mà nhà cầm quyền thành công trong việc trị nước; khi trong nước được trị, công bằng và yên ổn, thì thiên hạ sẽ sống sung sướng trong sự thanh bình.
 
Khổng tử khuyên chúng ta phải rán thành người hoàn thiện; lời khuyên đó rất quí, nhưng ông quên rằng loài người là một loài thú dữ; cũng như Ki Tô sau này, ông vạch cho chúng ta một mục đích, bắc một cái thang cho chúng ta leo. Đoạn đó là một trang bất hủ trong lịch sử triết học.

[1] Bà họ Nhan, thấy một con kì lân nhả một tờ ngọc thư có hàng chữ này: “Con của thuỷ tinh, nối nhà Chu đã suy mà làm vua không ngôi”. Bà lấy lụa buộc vào sừng nó, được mấy ngày nó đi mất. (ND).
[2] Sách Trung Hoa chép là có năm ông lão là năm vì sao trên trời xuống đứng giữa sân. Ở trong phòng bà Nhan, có tiếng âm nhạc, tiếng chuông, và tiếng nói rằng: “Trời cảm lời cầu nguyện mà cho sinh ra con thánh”. (ND).
[3] Tuy Durant muốn ám chỉ Khổng Tường Hi, nhưng trong cuốn Sử Trung Quốc, viết sau bản dịch Lịch sử văn minh Trung Hoa này, có lẽ cụ Nguyễn Hiến Lê không tin chắc là Khổng Tường Hi là cháu của Khổng tử, nên viết: “Khổng Tường Hi tự xưng là cháu đời thứ 75 của Khổng Tử”. (Goldfish).
[4] Bản tiếng Pháp: Les règles de la propiété des termes: chính danh. (ND).
[5] Một lần ông mỉa mai Tử Cống, một môn sinh có tính hay phê bình người khác: “Anh có đức cao nhỉ! Thầy tự xét mình để sửa lỗi còn chưa xong, có đâu rãnh mà xét người” (Luận ngữ - Hiến vấn – 31), rõ ràng nhất là câu này trong Luận ngữ - Vi chính: “Công kích đạo khác thì chỉ hại thôi”. (ND).
[6] Có lẽ câu: “tam niên học bất chí ư cốc, bất dị đắc dã” (Luận ngữ - Thái Bá – 8) mà Durant dịch ra như vậy. Nhưng thực ra nghĩa khác hẳn: “Ít người học đạo trong ba năm mà chẳng có chí cầu bỗng lộc”. Khổng tử có ý chê người ta chỉ mong sớm ra làm quan, mặc dầu làm quan có thể là để giúp nước, giúp nhà. (ND).
[7] Tác giả muốn trỏ thất thập nhị hiền? (ND).
[8] Bản tiếng Pháp dịch là nhưng. (ND).
[9] Mỗi thước hồi đó bằng khoảng một gang tay. (ND).
[10] Như Nghiêu, Thuấn, Văn vương, Võ vương… (ND).
[11] Durant trích một đoạn trong cuốn Life của Legge. Tôi không tra ra được chữ Hán. (ND).
[12] Có sách chép rằng Khổng tử cười và bảo: “Người đó tả hình dáng ta không biết có đúng không, nhưng cái vẻ ta thảm hại như con chó hoang thì đúng lắm”. (ND).
[13] Khổng tử trang nghiêm mà vẫn khoan, thân mật với môn sinh. Tôi chưa thấy triết gia nào yêu học trò và được học trò yêu lại như ông. Coi cuốn “Nhà giáo họ Khổng” – Cảo Thơm – 1972. (ND).
[14] Theo tôi, hai lời đó của Khổng tử có giọng khiêm tốn hơn là tự đắc. (ND).
[15] Nguyên văn: vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã. Có sách dịch là vô ý: khi xét việc gì, không đem ý riêng của mình vào, mà cứ theo lẽ phải; vô tất: không quyết rằng điều đó tất đúng hoặc việc đó tất làm được; vô cố: không cố chấp; vô ngã: phải quên mình đi, đừng để cái “ta” làm mờ ám. (ND).
[16] Thuật nhi bất tác. (ND).
[17] Tôi không có cuốn Luận ngữ nên không biết trong cuốn đó cụ Nguyễn Hiến Lê dịch chương Lí Nhân (tức chương IV) - bài 14 ra sao. Nhưng trong cuốn Khổng tử, chương III, cụ bảo: “ông (tức Khổng tử) không cần ai biết mình (IV.14)”. (Goldfish).
[18] Mang He, chữ Hán là gì? Các sách đều chép là Trọng Tôn Cồ có hai người con là Hà Kị và Nam Cung Quát theo Khổng tử học Lễ. (ND).
[19] Tử Lộ hay Tử Cống? (ND).
[20] Không rõ chữ Hán là gì, chỉ biết sử chép là Ni Khê. (ND).
[21] Có lẽ Yến Anh. (ND).
[22] Đều trích trong cuốn Life của Legge. Tôi không tìm ra được chữ Hán. (ND).
[23] Đều trích trong cuốn Life của Legge. Tôi không tìm ra được chữ Hán. (ND).
[24] Theo Legge trong cuốn Life. Có sách nói vua Vệ không dùng ông. (ND).
[25] Luận ngữ chép thêm lời này của Khổng tử: Nếu thiên hạ mà được thái bình, thì ta cần gì phải sửa đổi? (ND).
[26] Trong cuốn Khổng tử, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch như sau: “Ta mười lăm tuổi để chí vào việc học (đạo); ba mươi tuổi biết tự lập (tự mình theo chính đạo); bốn mươi tuổi không nghi hoặc (biết sự việc nào phải hay trái, tốt hay xấu); năm mươi tuổi biết mệnh trời (ngũ thập tri thiên mệnh); sáu mươi tuổi đã biết theo mệnh trời; bảy mươi tuổi theo lòng muốn của mình mà không vượt ra ngoài khuôn khổ đạo lí”. (Goldfish).
[27] Chương thứ tư bàn về gốc và ngọn (bản mạt); chương thứ năm bàn về “cách vật trí tri” sẽ trích dẫn ở sau. (ND).
[28] Thời đại “tử học” là thời đại của các nhà sáng lập ra các triết thuyết, tức thời “Tiên Tần” (Xuân Thu và Chiến Quốc). Từ Tần, Hán trở đi là thời “Kinh học”, nghiên cứu, phát huy thêm các kinh nghiệm trong thời đại “tử học”. (ND).
[29] Chúng ta đã có đủ bản dịch của Tứ thư. Về Ngũ kinh, như trên chúng tôi đã nói, kinh Thi, kinh Dịch đã được dịch, kinh Xuân Thu mới có một bản dịch dở dang của Hoàng Khôi – Bộ Quốc gia Giáo dục – 1969. Kinh Thư có hai bản dịch: của Nhượng Tống – Tân Việt - 1963; và Thẩm Quỳnh. Kinh Lễ có cả chữ Hán và phiên âm chưa ai dịch – Bộ Quốc gia Giáo dục – 1965. (ND).
[30] Tri chi vi tri, thường được dịch là: biết thì nhận là biết. (ND).
[Trong cuốn Khổng tử, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch là: biết thì nói là biết. (Goldfish)].
[31] Ông trả lời: “Nếu nói chết rồi mà còn biết thì sợ những con cái hiếu thảo sẽ liều chết theo ông cha; nếu nói chết rồi mà không biết thì sợ con cháu bất hiếu, cha mẹ chết, bỏ không chôn. Anh muốn biết chết rồi còn biết hay không, chuyện đó không cần kíp, để rồi sau sẽ biết”. (Khổng tử gia ngữ). (ND).
[32] Coi bài Khổng tử cũng lúng túng trong Liệt tử - Lá Bối – 1972. Truyện này không đáng tin. (ND).
[33] Đây là chủ trương “Thiên nhân tương dữ” (trời và người quan hệ mật thiết với nhau), tin tưởng chung của loài người trong thời nông nghiệp. (ND).
[34] Bản dịch ra tiếng Pháp có hơi khác một chút, nhưng không quan trọng, như hai chữ “trí tri” (tri thức xác đáng) thì dịch là phát triển cái trí đến cùng cực. (ND).
[35] Câu cuối do tôi chép thêm vô. (ND).
[36] Đoạn này Durant chỉ giảng cho rõ thêm những lời trích ở trên. Ông muốn nói đến việc “tu thân” đây. (ND).