Dịch giả: Nguyễn Thành Châu & Phan Thanh Thảo
Chương 2

Những kẻ bắt cóc, giống như nhưng con cáo quay về nơi ẩn trốn, giờ đây đã lộ mặt ra trong xào huyệt tạm thời của bọn chúng, một ngôi nhà thuê ở phía nam Hackensack bang New Jersey.
Đó là một dãy kiến trúc cũ kỹ và đổ nát, gồm một toà nhà chính và ba toà nhà phụ đã nhiều năm nay không có ai sử dụng cho tới khi Miguel sau khi nghiên cứu những khu đất xen lẫn nhau và những quảng cáo bất động sản, đã ký hợp đồng thuê thời hạn một năm, thanh toán trước đầy đủ. Một năm là thời hạn ngắn nhất mà các hãng cho thuê đặt ra. Còn Miguel vì không tiết lộ rằng ngôi nhà đó sẽ chỉ được sử dụng trong khoảng hơn một tháng một chút, đã đồng ý với thời hạn đó mà không hỏi han gì thêm.
Kiểu nhà và vị trí của nó – một vùng ngoại ô đổ nát và thưa thớt – quả là lý tưởng về nhiều phương diện. Ngôi nhà khá rộng có thể chưa được cả bảy tên trong cái băng người Colombia này, và tình trạng không được tu sửa của nó không có gì ảnh hưởng cả. Những toà nhà phụ cho phép giấu tới sáu chiếc xe khuất tầm mắt. Quanh đó không có ngôi nhà nào khác có người ở, và sự cách biệt của nó càng được bảo đảm hơn do những hàng cây cao và các bụi cây nhỏ bao quanh. Một thuận lợi nữa là nó nằm cách sân bay Teterboro chưa đầy một dặm. Sân bay Teterboro chủ yếu chỉ dùng cho các máy bay riêng, đã được tính tới kỹ càng trong kế hoạch của bọn bắt cóc.
Trước khi bắt tay vào thực hiện âm mưu này Miguel đã biết rằng sau khi các nạn nhân bị bắt giữ, khắp nơi cảnh sát sẽ chặn hỏi điều tra cẩn mật. Vì thế, hắn quyết định rằng bât kỳ một chuyến đi xa nào cũng sẽ không an toàn. Cần phải có một nơi trú ẩn tạm thời ngay sát vùng Larchmont.
Khu trại Hackensack nằm cách nơi xảy ra vụ bắt cóc khoảng 25 dặm. Việc bọn chúng đã trở về đó một cách dễ dàng và chưa thấy ai đến đây điều tra, chứng tỏ rằng kế hạch của Miguel cho đến giờ phút này đã rất thành công.
Ba người bị bắt giữ - Jessica, Nicholas và ông Angus Sloane đang ở trong ngôi nhà chính. Vẫn trong trạng thái mê man bất tỉnh. Họ được đưa lên một căn phòng rộng rãi trên tầng hai. Khác với những căn phòng khác trong căn nhà đổ nát mốc meo này, căn phòng đó đã được quét dọn sạch sẽ và sơn lại màu trắng. Những cửa phụ có khoá điện tử và có những chiếc đèn huỳnh quang trên trần. Nền nhà được trải một lớp vải sơn mới màu xanh nhạt – chả là ông cựu bác sĩ Baudelio đã chỉ định và giám sát những công việc do Rafael một gã thợ máy kéo khéo tay của cả nhóm thực hiện.
Hai chiếc giường của bệnh viện có hàng chấn song hai bên đặt ở giữa phòng. Jessica được đặt nằm trong một cái, còn trong cái kia là Nicholas. Tay chân họ bị trói chặt bằng dây da, một biện pháp phòng ngừa nếu họ tỉnh lại, mặc dù chưa hết thời gian dự tính.
Dù rằng khoa gây mê rất ít khi tỏ ra là một khoa học chính xác, Baudelio vẫn tin tưởng rằng “Các bệnh nhân” – như hắn vẫn thường nghĩ về họ - sẽ ở trong trạng thái mê man khoảng nửa giờ nữa và có thể lâu hơn.
Đặt cạnh hai chiếc giường cũi là một chiếc giường sắt có đệm đã được mang vội đến cho ông Angus. Sự có mặt của ông không được tính đến trước. Cũng là một phần của tình huống đột ngột, chân tay ông bị trói bởi những sợi dây thừng thay cho dây da. Ngay cả đến lúc này, trong khi đưa mắt quan sát căn phòng, Miguel cũng không biết rõ sẽ làm gì với ông già nữa. Liệu có nên giết lão và đem chôn ở phía ngoài khi trời tôi? Hay là cứ tính thêm cả lão vào kế hoạch ban đầu? Hắn cần phải mau chóng quyết định việc này.
Baudelio đang lúi húi quanh ba người nằm thẳng cẳng để xác định vị trí của các tĩnh mạch và tiêm những túi đựng chất lỏng vào đó. Trên một chiếc bàn con phủ vải bông xanh, hắn đã bày ra những dụng cụ, những hộp thuốc và mấy cái khay. Mặc dù chỉ cần có ống thông tĩnh mạch để tiêm vào tĩnh mạch dưới da, nhưng Baudelio có một thói quen hình thành từ lâu là chuẩn bị sẵn các dụng cụ khác để sử dụng nếu gặp tình huống nguy cấp. Giúp việc cho hắn lúc này là Socorro một phụ nữ đã có quan hệ chặt chẽ với cả tập đoàn Medellin lẫn Sendero Luminoso. Trong nhiều năm ẩn náu ở nước Mỹ, ả đã được cấp bằng y tá.
Với mái tóc đen nhánh búi thành một búi sau đầu, Socorro có một thân hình mảnh khảnh, mềm mại với nước da màu ô liu và những đường nét lẽ ra sẽ rất đẹp nếu như ả không có cái vẻ cau có thường trực trên khuôn mặt. Mặc dù ả sẵn sàng làm bất cứ việc gì người khác yêu cầu mà không mong đợi một châm chước nào về sự khác giới, Socorro rất ít nói và không bao giờ để lộ ra những gì đang diễn ra trong đầu mình. Ả cũng thường phản đối thẳng thừng những đề nghị lăng nhăng của mấy gã đàn ông.
Vì những lý do đó Miguel đã liệt ả vào “hạng người bí hiểm”. Mặc dù hắn đã được biết về tư cách hai mặt của ả và thực tế, vì Sendero Luminoso đã đảm bảo cho sự tham gia của Socorro trong nhóm bắt cóc của chúng, nên hắn không có lý do gì để nghi ngờ ả. Đôi khi hắn cũng tự hỏi liệu việc Socorro sống quá lâu ở nước Mỹ có làm giảm đi lòng trung thành kiểu Colombia và Peru của ả không.
Đó là câu hỏi mà chính Socorro cũng thấy khó trả lời.
Một mặt, ả đã từng là một người cách mạng, thoạt đầu là để tìm ra lối thoát cho lòng nhiệt tình của ả đối với lực lượng du kích M-19 của Colombia, và mới đây – vì lợi nhuận của nhóm Medellin và Sendero Luminoso. Chính kiến của ả đối với chính phủ Colombia và Peru là ả muốn giết hết tầng lớp thống trị xấu xa, nên ả sẵn sàng được tham gia vào việc giết chóc. Đồng thời người ta cũng đã nhồi vào đầu ả rằng thiết chế chính quyền của Mỹ cũng tàn bạo như quỷ dữ. Mặc dù vậy, sau ba năm sống ở Mỹ và nhận được sự thân thiện hiếu khách, ả thấy rằng thật khó tiếp tục khinh bỉ và coi nước Mỹ cùng những người dân của nó là kẻ thù.
Ngay giờ đây ả đang cố hết sức mình để tỏ ra căm ghét ba người bị bắt này – lũ tư sản giàu có đốn mạt - ả tự nhủ - nhưng không có hiệu quả… hoàn toàn không hiệu quả… tuy lòng thương hại ở một người cách mạng là một tình cảm đáng khinh.
Nhưng một khi ả thoát khỏi cái đất nước lắm chuyện này, điều này sẽ chóng diễn ra thôi, Socorro tin chắc rằng ả có thể làm việc tốt hơn, tỏ ra mạnh mẽ hơn, triệt để hơn với lòng căm thù của mình.
Ngồi trên một chiếc ghế xích đu ở tận đầu bên kia của căn phòng, Miguel nói với Baudelio “Thử nói cho tôi xem anh đang làm gì vậy?” Giọng hắn có vẻ ra lệnh.
“Tôi phải chuẩn bị gấp vì loại thuốc mê tôi đã dùng sẽ nhanh chóng mất tác dụng. Khi đó, tôi sẽ tiêm propofol, một loại thuốc gây mê tĩnh mạch, loại thuốc này có công hiệu lâu hơn loại trước và thích hợp hơn đối với việc sắp tới”.
Trong khi cử động và nói, Baudelio dường như chuyển từ cái vẻ hốc hác thường ngày như một con ma sang dáng của một ông thầy thuốc và một nhà thực hành gây mê vốn là công việc trước đây của hắn. Cũng như thể sự khuấy động của nhân cách bấy lâu nay bị vứt bỏ, đã chợt trỗi dậy trong người hắn ngay khi vụ bắt cóc xảy ra. Nhưng hắn không bộc lộ một dấu hiệu nào, lúc đó cũng như bây giờ, chứng tỏ tài năng của hắn đang trở thành một tội ác đê tiện cũng như cái việc hắn đang nhúng tay vào là đáng khinh.
Hắn nói tiếp: “Profopal là một loại thuốc công hiệu, liều lượng thích hợp cho mỗi người là khác nhau, và nếu tiêm quá nhiều vào máu thì có thể dẫn đến cái chết. Vì vậy lúc đầu, cần phải tiêm một liều thử nghiệm và phải giám sát chặt chẽ”.
“Anh có đảm bảo sẽ trông nom được việc này không?” Miguel hỏi.
“Nếu anh nghi ngờ”, Baudelio nói với vẻ mỉa mai, “anh có thể thoải mái chọn người khác”.
Thấy Miguel không trả miếng được, viên cựu bác sĩ nói tiếp: “Vì những người này sẽ bất tỉnh khi chúng ta chuyển họ đi, chúng ta phải biết chắc rằng họ sẽ không nôn mửa ra và không hít lại vào phổi. Vì vậy trong lúc chúng ta chờ đợi họ sẽ phải bắt buộc chịu đói một thời gian. Tuy vậy, cũng không đến nỗi mất nước, tôi sẽ tiêm chất lỏng vào tĩnh mạch của họ. Và sau hai ngày, là thời gian anh định ra cho tôi, chúng ta có thể nhốt họ vào những cái để trong kia”. – Baudelio hất đầu chỉ về phía bức tường sau lưng hắn.
Dựng sát tường là hai chiếc quan tài để mở, vững chãi và có lót vải. Trong đó có một chiếc nhỏ hơn chiếc kia. Hai cái nắp đậy có bản lề và được trang trí đẹp đẽ đã bị tháo ra dựng cạnh đó.
Nó khiến cho Baudelio nhớ ra một vấn đề. Chỉ tay vào Angus Sloane hắn nói: “Có cần làm cho cả lão già này nữa không?”.
“Nếu có cả lão ra, liệu anh có đủ thuốc không?”.
“Tất nhiên là có. Mọi thứ đều được dự trữ trong trường hợp có gì đó trục trặc. Nhưng chúng ta cần một cái nữa…”. Hắn đưa mắt nhìn những chiếc quan tài bên tường.
Miguel nói với giọng bực bội: “Anh khỏi cần phải nhắc tôi điều đó”.
Tuy vậy, hắn vẫn còn chưa hết băn khoăn. Yêu cầu lúc đầu của Medellin và Sendero Luminoso chỉ nói đến việc bắt cóc người phụ nữ và thằng bé rồi sau đó đưa họ sang Peru càng nhanh càng tốt. Những chiếc quan tại chỉ để nguỵ trang phương tiện vận chuyển. Một câu chuyện bịa đặt đã được dựng lên để đề phòng khám xét của hải quan Mỹ. Một khi đã ở Peru rồi, những người tù nhân sẽ trở thành những con tin có giá – những khoản tiền góp vốn thoả thuận để đáp ứng những đòi hỏi kỳ quặc của Sendero Luminoso, bản chất của chúng thế là đã bộc lộ. Nhưng liệu việc bất ngờ có thêm cả ông bố Crawford Sloane có được coi là một món thêm vào hay lại là một sự mạo hiểm và một gánh nặng không cần thiết vào lúc này?
Nếu có cách nào hỏi được cấp trên thì ắt hẳn Miguel đã hỏi rồi. Nhưng lúc đó kênh liên lạc an toàn duy nhất không nối liền với hắn, mà gọi điện theo một trong những máy điện đàm lưu động thì câu chuyện sẽ có thể bị ghi lại. Miguel đã nhấn mạnh với tất cả mọi người trong nhóm Hackensack là chỉ dùng điệu thoại để liên lạc giữa các xe với nhau hay với trung tâm thôi. Dứt khoát không có một cú điện thoại nào được gọi tới những nơi khác. Một số ít những lần gọi ra ngoài thật cần thiết chỉ được dùng điện thoại công cộng.
Vì thế chỉ có một mình hắn quyết định mà thôi. Hắn cũng phải tự cân nhắc rằng thêm một chiếc quan tài nữa có nghĩa là chuốc thêm mạo hiểm. Liệu có đáng làm thế không?
Miguel tự nghĩ rằng như thế cũng đáng. Qua kinh nghiệm bản thân, hắn biết một điều chắc chắn là sau khi Sendero Luminoso thông báo món tiền chuộc, một trong số những người bi bắt sẽ bị giết và cái xác đó sẽ được quẳng ra một nơi nào đó mà người ta có thể tìm thấy – tất cả chỉ để chứng tỏ rằng những kẻ bắt cóc không đùa cợt chút nào. Việc có thêm cả lão Angus Sloane có nghĩa là sẽ có thừa một người để làm việc đó: để người đàn bà hay thằng bé bị hành hình sau nếu cần phải là lần thứ hai. Vậy theo cách đó thì thêm một người bị bắt cóc chỉ có lợi.
Hắn bảo Baudelio: “Được, cho cả lão già ấy đi”.
Baudelio gật đầu. Mặc dù bề ngoài tỏ ra vững vàng Baudelio vẫn cảm thấy căng thẳng khi ở gần Miguel hôm nay. Đêm trước hắn đã phủ nhận một điều mà giờ đây hắn mới nhận ra là một sai lầm ghê gớm, một kẻ hở cho an toàn của cả bọn. Trong lúc ngồi một mình với nỗi cô đơn và sự chán ngán đến tột cùng hắn đã dùng một trong những máy điện thoại lưu động gọi sang Peru. Hắn đã trò chuyện với một người đàn bà, một người bạn cùng sống trong cảnh nhếch nhác và là người bạn duy nhất vẫn thường uống rượu với hắn và lúc đó hắn nhớ đến da diết.
Chính vì vẫn còn lo lắng về cú điện thoại đó nên hắn phản xạ rất chậm chạp và bỗng nhiên, một tình huống bất ngờ xảy ra.

*

Trong lúc giằng co ở phía ngoài siêu thị Larchmont, Jessica chỉ cảm nhận được một đến hai phút đầu tiên là sửng sốt, rồi tiếp theo đó là nỗi kinh hoàng trước sự tàn bạo của sự việc đang diễn ra. Ngay cả khi tiếng hét của nàng đã bi một miếng gạt che kín mồm chặn lại, nàng vẫn tiếp tục chống cự một cách dữ dội và tuyệt vọng, biết rằng cả Nicky cũng đang bị bọn người thú vật lạ mặt bắt sau đó, khi liều thuốc mê mạnh đã hoà vào trong máu, nàng rơi vào trạng thái mê man, bất tỉnh sâu thẳm.
Nhưng giờ đây, không ý thức được bao lâu đã trôi qua, nàng đã tỉnh lại và dần nhớ lại mọi chuyện. Nàng nghe thấy, lúc đầu thì mơ màng nhưng sau đó rõ dần, những âm thanh xung quanh mình. Nàng thử cựa quậy, thử nói, nhưng rồi nàng thấy rằng mình không tài nào làm nổi. Nàng bèn cố mở mắt ra, nhưng hai mắt vẫn nhắm chặt. Jessica cảm thấy như thể nàng đang nằm dưới đáy một cái giếng tràn ngập bóng tối, cố làm một cái gì đó, cái gì cũng được, nhưng chẳng thể làm được một điều gì.
Rồi, vài phút trôi qua, những giọng nói nghe đã rõ hơn, cái hồi ức kinh khủng về những gì xảy ra ở Larchmont lại nhói lên.
Cuối cùng Jessica cũng mở được mắt ra. Baudelio, Socorro và Miguel đều đang nhìn đi nới khác nên không nhận thấy điều đó.
Biết rằng những cảm giác đã trở lại với thể xác, nhưng Jessica không hiểu tại sao cả chân tay nàng đều không cử dộng được, dù chỉ nhúc nhắc. Rồi nàng nhìn thấy cánh tay ở gần mình, tay trái, bị trói bởi dây da và nhận ra rằng nàng đang nằm trong một cái gì đó giống như một chiếc giường bệnh viện và giăng cả cánh tay kia, cũng như hai chân nàng cũng bị trói như vậy.
Jessica khẽ quay đầu sang bên cạnh và bỗng cứng người lại vì kinh hoàng trước cảnh tượng mà nàng thấy.
Nicky đang nằm trên một chiếc giường khác, cũng bị trói như nàng. Cạnh nó là ông Angus cũng bị trói chặt bằng dây thừng. Và kia nữa – Ôi! Không – lạy chúa! – hai chiếc quan tài mở nắp, một chiếc nhỏ hơn, rõ ràng là để dành cho nàng và Nicky.
Đột nhiên nàng bắt đầu la hét và cựa quậy dữ dội. Và trong nỗi hoảng sợ điên cuồng, nàng đã rút được cánh tay trái ra.
Khi nghe tiếng la hét, cả ba tên cùng nhảy bổ về phía nàng. Lúc đó Baudelio lẽ ra phải có phản ứng mau lẹ, lại sững sờ đến mức đờ đẫn. Đến lúc đó, Jessica đã kịp nhìn thấy tất cả bọn chúng.
Trong lúc tiếp tục vùng vẫy dữ dội, nàng vươn tay trái ra, cố gắng một cách tuyệt vọng tìm một cái gì đó khả dĩ dùng làm vũ khí để bảo vệ cho Nicky và cho chính bản thân mình. Chiếc bàn để dụng cụ nằm ngay cạnh nàng. Những ngón tay nàng mò mẫm một cách điên cuồng và cuối cùng, nàng vớ được cái gì đó giống như một con dao xén ở nhà bếp. Đó là con dao mổ.
Lúc đó, Baudelio đã kịp hoàn hồn lại và lao về phía nàng. Nhìn thấy cánh tay đã tuột khỏi dây trói của Jessica, hắn cố gắng trói cánh tay ấy lại với sự giúp đỡ của Socorro. Nhưng Jessica đã nhanh hơn hắn. Trong cơn tuyệt vọng, nàng vung cái vật bằng kim loại lên chém loạn xạ, rạch vào mặt Baudelio rồi vào tay Socorro. Lúc đầu một đường mảnh màu đỏ xuất hiện. Sau đó, máu phun vọt ra. Baudelio nén đau đớn và cố trói lại cái cánh tay đang khua dữ đội. Miguel vội vàng lao tới, đánh tới tấp vào người Jessica rồi quay sang giúp Baudelio. Trong lúc đó máu từ vết thương của Baudelio nhỏ xuống người Jessica và xuống giường. Cuối cùng, bọn chúng cũng trói được tay nàng lại. Miguel lấy lại được con dao mổ. Và cho dù Jessica vẫn cố vùng vẫy, nhưng thật là vô vọng. Thật bại và bất lực, nàng oà lên khóc.
Tiếp đó lại đến một việc rắc rối nữa. Liều thuốc mê của Nicky cũng đang hết hiệu lực. Nghe thấy tiếng kêu và biết rằng mẹ đang ở bên mình, Nicky nhanh chóng tỉnh lại. Cậu bé cũng bắt đầu la hét, nhưng dù vùng vẫy rất mạnh, cậu cũng không thể thoát được những sợi dây trói.
Còn ông Angus bị tiêm thuốc mê sau hai người thì vẫn nằm bất động.
Lúc này, trong phòng trở nên ầm ỉ, rối loạn nhưng cả Baudelio và Socorro đều biết rằng phải lo vết thương của chúng trước tiên. Socorro dán một mảnh băng dính lên cánh tay bị rạch của ả rồi quay sang giúp Baudelio. Ả đặt một miếng gạc lên mặt Baudelio, nhưng chỉ lát sau nó đã ướt đẫm máu.
Đã bình tĩnh lại Baudelio khẽ gật đầu cảm ơn. Chỉ tay vào dụng cụ đã được bày biện, hắn lẩm bẩm: “Giúp tôi một tay”.
Socorro siết chặt lại sợi dây bên trên khuỷu tay trái của Jessica. Rồi Baudelio cắm một mũi tiêm vào tĩnh mạch dưới da và tiêm liều thuốc mê mà hắn đã chuẩn bị trước đó, Jessica nhìn hắn, la hét, ra sức chống lại công dụng của liều thuốc cho tới khi hai mắt nàng díp lại và một lần nữa nàng lại mê man bất tỉnh. Baudelio và Socorro, quay sang Nicky và lại làm đúng như vậy. Cậu bé cũng ngừng bặt những tiếng kêu đau đớn và rũ xuống. Giây phút tỉnh táo ngắn ngủi của cậu đã chấm dứt.
Rồi để tránh việc ông già cũng tỉnh lại và gây nên những chuyện rắc rối, bọn chúng tiêm thêm một liều thuốc như thế cho ông.
Không tham gia vào công việc của hai người Miguel bỗng nổi cơn giận dữ. Hắn sỉ vả Baudelio “Đồ khốn kiếp, vô tích sự” – Hắn chửi rủa, mắt toé lên dữ tợn: “Đồ khốn! Anh có thể làm hỏng hết mọi việc. Anh có biết là anh đã gây nên chuyện gì không?”.
“Tôi biết” – mặc dù đã có miếng gạc, mấu vẫn tiêp tục chảy ròng ròng trên mặt hắn. “Tôi đã định liều nhầm. Tôi xin hứa sẽ không để xả ra việc như thế này nữa”.
Không thèm đáp, Miguel oai vệ bỏ ra ngoài, mặt đỏ bừng vì giận dữ.
Khi Miguel đã bỏ đi, Baudelio dùng một chiếc gương bỏ túi để xem xét vết thương bết máu của hắn. Ngay lập tức hắn nhận thức ra hai điều. Thứ nhất là hắn sẽ phải mang một vết sẹo dài suốt trên mắt trong quãng đời còn lại. Và điều thứ hai, quan trọng hơn, là vết thương đang há miệng cần được khép lại và khâu ngay lập tức. Trong tình cảnh của hắn lúc này, hắn không thể đến một bệnh viện hay nhờ một bác sĩ nào khác. Baudelio biết rằng hắn không còn cách lựa chọn nào khác hơn là tự khâu lấy, dù việc đó có khó khăn và gây đau đớn đến mức nào đi nữa. Socorro sẽ giúp hắn trong chừng mực có thể.
Cảm thấy mình đang dần dần đuối sức, Baudelio ngồi xuống trước gương và bảo Socorro mang túi thuốc thông dụng của hắn đến. Hắn chọn ra từ trong túi vài chiếc kim khâu, chỉ lụa và một loại thuốc tê tại chỗ là lidocaine.
Hắn giảng giải cho Socorro nghe công việc mà hắn và ả sẽ làm. Như mọi khi, ả không nói gì thêm ngoài mấy từ “được” hay “biết rồi”. Rồi không nói gì thêm nữa, Baudelio bắt đầu tiêm lidocaine vào bên cạnh vết rách.
Công việc kéo dài gần hai tiếng đồng hồ, và mặc dù đã có thuốc tê trên vùng da đó, vết thương vẫn làm hắn run liên tục làm cho những mủi khâu không đều. Thêm vào đó là sự lúng túng vì bị ngược hình khi làm việc trước gương. Socorro đưa cho hắn những thứ hắn cần và một đôi lần, khi hắn gần như ngã gục, ả đã giúp hắn. Cuối cùng hắn cũng cố khâu xong vết thương, và mặc dù những mũi khâu vụng về sẽ làm cho vêt sẹo còn thảm hại hơn lúc ban đầu hắn tưởng, vết rạch trên má hắn cũng đã liền lại và hắn biết rằng vết thương rồi sẽ lành.
Sau cùng, ý thức rằng phần khó khăn nhất của công việc đã thoả thuận với Medellin và Sendero vẫn còn ở phía trước, và hắn cần nghỉ nghơi Baudelio tiêm cho mình 200 mg seconal và lăn ra ngủ.