Dịch giả: Nguyễn Thành Châu & Phan Thanh Thảo
Chương 11

Jessica nhớ lại, ngay khi tỉnh dậy trong ánh sáng mờ mờ lúc rạng đông hôm ấy, nàng linh cảm thấy sắp xảy ra điều gì đó. Hầu như một đêm nàng không ngủ, đau đớn vì ý nghĩ không tin mình có thể được cứu thoát. Ba ngày qua, lòng tin khi trước của nàng vào việc cuối cùng sẽ được tự do giảm dần, nhưng nàng cố giấu không cho Angus và Nicky biết mình đang mất dần hy vọng. Song nàng tự hỏi, liệu có khả năng ở cái xó tối tăm của đất nước xa lạ này có những bạn bè nào đó sẽ tìm thấy và tìm cách đưa họ về nhà không? Mỗi ngày trôi qua, khả năng đó xem ra càng ít.
Việc chúng chặt ngón tay của Nicky một cách dã man càng làm tinh thần Jessica sa sút. Cho dù họ có ra khỏi được đây, cuộc đời Nicky không còn như trước nữa. Ước mơ đẹp nhất của nó từ khi còn nhỏ là trở thành nghệ sĩ đàn piano bỗng dưng chấm dứt một cách vô cớ, và thật sự không cần thiết. Rồi còn hiểm hoạ nào nữa, có thể bị chết, đang chờ họ trong những ngày sắp tới?
Hai ngón tay Nicky bị chặt hôm thứ ba. Hôm nay là thứ sáu. Hôm qua, Nicky đã đỡ đau hơn, nhờ Socorro thay bông băng hàng ngày, song nó vẫn yên lặng và buồn rầu, mặc dù Jessica cố sức vực nó khỏi cơn tuyệt vọng của nó. Rồi còn vách tre buộc dây thép luôn ngăn cách hai mẹ con. Sau lần Socorro cho phép nàng sang với Nicky đến giờ, nàng không được sang nữa, mặc dù nàng đã nài nỉ, van xin.
Vì thế, hôm nay tương lai càng có vẻ mờ mịt, hy vọng thì ít mà lo lắng lại nhiều. Khi đã tỉnh hẳn, Jessica hiểu dược bài thơ của Thomas Hood mà nàng học từ khi còn nhỏ, nhưng chưa bao giờ hiểu. Bài thơ kết thúc bằng câu:
Nhưng giờ tôi lại ước ao.
Giá như hơi thở bay vào bóng đêm!
Song nàng biết nếu đem áp dụng vào hoàn cảnh của nàng lúc này, ước mong đó đầy vẻ ích kỷ và cam chịu thất bại. Bất luận thế nào, nàng cũng phải gắng gượng làm chỗ dựa cho Angus và Nicky.
Sau những suy nghĩ ấy, và khi trời sáng hẳn, Jessica nghe thấy tiếng động ở bên ngoài và tiếng bước chân lại gần nơi họ bị giam. Tên đầu tiên bước vào là Gustave, cầm đầu bọn gác. Hắn đi thẳng tới cũi nhốt Angus và mở khoá.
Ngay sau hắn là Miguel. Mặt hầm hầm, hắn cũng đi về phía giam Angus, tay mang khẩu súng trường tự động trước nay Jessica chưa từng thấy hắn mang theo.
Jessica hiểu ngay điều đáng sợ sắp xảy ra. Nhìn cây súng xấu xí đầy sức mạnh ấy, tim nàng đập mạnh và hơi thở đứt đoạn. “Ôi, không! Angus! Không thể thế được!”.
Gustave vào trong, lôi xốc ông già dậy. Lúc này hắn đang trói quặt tay Angus ra sau lưng.
Jessica hét to: “Nghe tôi nói. Các ông định làm gì? Tại sao?”.
Angus quay lại phía nàng: “Jessica con, đừng buồn. Con chẳng làm gì được đâu. Bọn này là đồ mọi rợ! Chúng không biết thế nào là danh dự và lịch sự đâu con..”.
Jessica thấy Miguel bóp chặt báng súng cho đến khi tay hắn trắng bợt ra. Hắn sốt ruột ra lệnh cho Gustave: “Dese prisa! No pierdas tiempo!” (1).
Nicky cũng đứng dậy. Nhìn thấy khẩu súng trường tự động, cậu bé cũng hiểu ra và hỏi: “Mẹ ơi, họ định làm gì ông thế?”.
“Mẹ không biết”, Jessica trả lời, không tin điều nàng nói.
Angus, lúc này tay bị trói chặt, vươn thẳng người, ưỡn ngực nhìn về phía hai người và nói: “Chúng ta không còn nhiều thời gian. Hai mẹ con hãy dũng cảm và tiếp tục vững lòng tin. Hãy nhớ là, ở ngoài kia, Crawf đang làm hết sức mình. Sẽ có người đến cứu!”.
Nước mắt chảy dài trên khuôn mặt Jessica. Nàng cố gọi, giọng nghẹn ngào: “Angus! Angus thân yêu! Con yêu cha vô cùng!”.
“Cha cũng thương con lắm, Jessica… Nicky!”. Gustave đẩy mạnh Angus khỏi cũi giam. Họ hiểu rằng ông đang trên đường đi vào cõi chết.
Ông vấp ngã, rồi lại nói: “Nicky, ông cháu ta hát một bài chứ? Nào, bắt đầu nhé”. Rồi Angus cất giọng hát:
“Anh sẽ gặp lại em
Ở tất cả những nơi thân thuộc”
Jessica thấy Nicky há miệng, nhưng cũng nghẹn ngào đầy nước mắt, cả hai mẹ con nàng không hát nổi.
Angus đã ở ngoài, họ không nhìn thấy ông nữa. Song họ vẫn nghe tiếng ông hát, nỏ dần, xa dần:
“Rằng trái tim anh ấp ủ đêm ngày
Trong quán cà phê nhỏ…”
Tiếng ông tắt hẳn. Họ chờ đợi trong yên lặng. Mới chỉ mấy giây trôi qua mà họ tưởng như lâu hơn thế. Rồi tiéng súng vang lên, bốn phát, nghe rất gần. Lại im lặng, rồi một tràng dài rất nhanh, họ không đếm nổi.
 
°
 
Miguel đứng nhìn xác Angus Sloane ở ven rừng.
Hắn bắn bốn phát làm ông già chết ngay. Rồi, nhớ tới ông chửi hắn hôm thứ ba “Maldito hijo de puta” và mới chỉ trước đó mấy phút, ông khinh bỉ gọi chúng là “đồ mọi rợ”, Miguel tức điên lên, xả hết cả băng đạn của khẩu AK-47 do Liên xô chế tạo vào cái xác đang nằm trước mặt hắn.
Hắn đã thực hiện đúng chỉ thị mà hắn nhận được từ Ayacucho cuối đêm qua. Gustave cũng được báo về một công việc đáng ghê tởm mà họ ra lệnh cho hắn phải làm, và làm ngay với sự giúp đỡ của người khác.
Một máy bay nhỏ, chuyên phục vụ Sendero Luminoso, đang trên đường tới chỗ đỗ máy bay trong khu rừng gần đó mà từ Nueva Esperanza có thể đến được bằng thuyền. Một chiếc thuyền sẽ được phái ngay tới nơi máy bay đậu; sau đó máy bay sẽ chở cái Gustave đã làm về Lima.
 
°
 
Gần trưa hôm đó, một chiếc ô tô vội vã dừng lại bên ngoài sứ quán Mỹ trên đại lộ Garcilaso de la Vega. Một gã đàn ông ôm một hộp các tông to nhảy ra khỏi xe. Hắn để cái hộp ngay gần cổng, ngoài hàng rào sắt, rồi chạy về xe phóng đi.
Một lính gác mặc thường phục nhìn thấy việc đó, liền nổi hiệu báo động và tất cả các lối ra vào sứ quán được xây dựng giống như pháo đài, đều tạm thời đóng lại. Trong lúc đó, một đội quân tháo bom của quân đội Peru được gởi tới giúp.
Kiểm tra không có thuốc nổ, người ta cẩn thận mở hộp và thấy một chiếc đầu của một ông già có lẽ trạc độ bảy mươi bị cắt còn bê bết máu để trong đó. Bên cạnh là chiếc ví có một thẻ bảo hiểm xã hội của Mỹ, một bằng  lái xe bang Florida có dán ảnh và các tài liệu khác xác định đó là đầu của ông Angus Mc Mullen Sloane.
Vào lúc xảy ra sự kiện này ở Lima, một phóng viên của tờ Diễn đàn Chicago tình cờ đang ở trong sứ quán. Anh ta theo dõi sát các sự việc tiếp theo, và là người đầu tiên đưa tin này, có ghi rõ họ tên nạn nhân. Đài phát thanh, vô tuyến truyền hình và các báo khác nhanh chóng đưa lại tin trên của tờ Diễn đàn trên toàn nước Mỹ, và sau đó truyền đi khắp thế giới.