Phần 3

Xe Dodge của hai thầy trò tôi không thể nào chạy trên đường được nữa nên Hải quẹo xuống bên đường để chạy tiếp. Bánh xe lún xuống cát tung lên tung tóe mà xe không tiến lên được là mấy, Hải phải sang số cho xe chạy cả 4 bánh để có sức kéo mạnh hơn nhưng sau cùng, chiếc xe bắt đầu tung khói lên mù mịt do nóng quá độ. Khói lên từ cái bình nước xe len qua nắp máy và cuồn lên đen nghịt, Hải lầu bầu:
-Hồi sáng bị bắn tứ tung chắc có viên trúng bình nước quá...
Tôi thì dốt đặc về máy xe nên hỏi (nhưng hỏi xong chợt thấy câu hỏi thật ngây thơ!):
-Mầy liệu có thể sửa sao đó cho xe chạy đỡ được không?
-Trời đất, ông thầy hỏi tui thiệt không biết đường mà trả lời. Họa là tui có phép thần thông chi mới có hy vọng...
Rốt cuộc Hải và tôi rồi cũng phải bỏ xe và bắt đầu đi bộ trở về hướng Quảng Trị. Hải vừa đi vừa lầu bầu chi đó mà tiếng Huế nói lí nhí tôi không nghe được nhưng tôi cũng mệt nên không buồn hỏi xem Hải nói gì. Lát sau thì Hải hỏi trống không:
-Giả sử đi về hướng Bắc cũng kẹt như đi về huớng Nam thì làm sao đây?
Vì thấy Hải nói trống không nên tôi cũng không trả lời, chỉ lầm lủi bước. Tuy nhiên trong trí tôi cũng suy nghĩ thật nhiều về câu hỏi đó: Ờ nhỉ, mình sẽ phải làm sao đây nếu đi về hướng Bắc cũng bị kẹt luôn? Hỏi mà không có câu trả lời thì... đành buông mặc xem câu chuyện ra sao? Cũng nhờ cái bình tong nước tôi lượm được nên hai người cũng không bị khát, còn cái đói hình như đi vắng tuy rằng từ chiều tối hôm qua tới giờ, tôi vẫn chưa có cái gì trong bụng.
Đường càng đi về hướng Bắc càng thưa người và dần dần trên đường chỉ còn hai thầy trò lầm lủi bước. Cũng may là không thấy bóng dáng Bắc quân đâu cả mà cũng không có một tiếng súng nổ gần. Tôi sực nhớ là hai người không có một vũ khí gì hết ngoài mấy dụng cụ tiểu phẫu lúc nào tôi cũng mang trên ngực áo. Mình không khác gì người dân thường chạy loạn cả, chỉ khác là không có gia đình cũng như mặc bộ đồ lính trên mình mà thôi... Không hiểu đơn vị ở đâu mà tìm nữa đây? Thôi kệ, tới đâu hay đó vậy...
Khi trời vừa xế bóng về phía tây thì thành phố Quảng Trị đã thấy dạng xa xa. tôi gọi Hải phải cẩn thận vì không biết Bắc quân đã chiếm đóng Quảng Trị chưa, thế là hai người bèn đi xuống lề đường để từ trong thành phố nhìn ra sẽ khó thấy hơn và bước chân cũng dè dặt hơn nhiều. Tất cả vẫn im lặng một cách ghê rợn... Rồi khi thành phố chỉ còn cách hai người trong gang tấc thì tôi chợt nhìn thấy trên cầu Thạch Hản, bên cạnh hai chiếc chiến xa M48 bị tôi công hồi đêm giờ đang nằm đó là một bóng người đang cầm súng đứng gác, nhìn rõ thì thấy anh chàng mặc đồ rằn ri, tôi mừng quá biết là Cộng quân chưa lấy được Quảng Trị, đồng thời Hải nẫu cũng nhìn thấy như tôi. Hai người cố bước nhanh và khi tới gần thì thấy anh lính mặc đồ Biệt động mà lại còn thuộc đại đội trinh sát của Liên đoàn nữa chớ. Thật tình mà nói, tôi mừng còn hơn bắt được vàng khi thấy lại đơn vị của mình...
Trở lại đơn vị thật là ấm áp đối với tôi sau những giờ xiêu lạc như đứa trẻ mồ côi giữa chợ đời tìm lại được mái ấm gia đình! Cả ngày nay, tôi đã chạy lung tung, đầu óc rối bùng, rồi mọi người lạc nhau tất cả, Bệnh viện Quảng Trị ở đâu mà tiền cứ Liên đoàn ở đâu? Bao nhiêu con người ngày hôm qua còn đầy ở thành phố Quảng Trị (thường dân cũng như lính, người lành mạnh cũng như thương bệnh binh, bao nhiêu người tục cũng như kẻ tu hành như mấy bà phước trong bệnh viện) sao đâu hết trơn rồi? Chỉ còn hai thầy trò tôi, lếch phếch trở lại đơn vị hiện đang đóng quân trong một miếng vườn hoang gần thị xã, mà chỉ là miếng vườn hoang thôi, còn ngôi nhà thường khi nằm trên miếng đất giờ cũng đã không còn nữa...
Bọn Long mập, thượng sĩ Xê, mấy đệ tử Quân Y trong bụng không biết có ưa gì tôi không nhưng ngoài mặt, rõ ràng khi gặp lại Hải nẫu với tôi thì ai cũng cười vui và lo nấu ăn tối cho chúng tôi, còn mọi người đều đã ăn xong cả rồi... Bửa ăn chỉ là khẩu phần hành quân của lính, khui ra từ trong hộp nhưng sao ăn thấy ngon quá, tôi sực nhớ ra là từ đêm qua đến giờ tôi đã có cái gì trong bụng đâu?
Buổi tối yên tỉnh không giống như  tối hôm qua súng nổ rền trời, tôi nằm trên cái băng ca quen thuộc mà lòng tự dưng thấy nhẹ nhỏm và đi vào giấc ngủ một cách dễ dàng... Bốn phía yên tỉnh, chỉ có tiếng côn trùng kêu đêm một cách hồn nhiên như không có chuyện gì xảy ra... Nhưng theo như thượng sĩ Xê nói (ông ta thực tình có quá nhiều kinh nghiệm hành quân vì ngay lúc nầy, ông ta cũng đã trên 40 tuổi) mỗi khi yên tỉnh như thế có nghĩa là khác thường và cái khác thường nầy bảo đảm là chuẩn bị cho đánh lớn ngày hôm sau..
30-4-1972
Quả nhiên khi trời mới vừa hừng sáng là bốn bề súng nổ vang rền. Lệnh Liên đoàn trưởng đưa ra là đơn vị bắt đầu đi về hướng nam, không biết đơn vị nào đi đầu, đơn vị nào đi cuối, chỉ biết là Quân Y của tôi thì tàng tàng đi theo Bộ Chỉ huy Liên đoàn. Thương binh không còn là vấn đề cho tôi nữa vì bao nhiêu thương binh đã di tản về bệnh viện Quảng Trị từ trước và đều... đi theo trọn cả thị xã sau trận tối qua.
Hôm nay lại đi bộ, khác với đi bộ ngày hôm qua là tôi không có cái cảm giác lạc lõng bơ vơ như ngày hôm qua. Đoàn quân lầm lũi đi, tôi mang trên lưng cái túi nhỏ (thay vì ba lô hành quân thì tôi không có) trong đó chỉ đựng có nước uống (rút kinh nghiệm hôm qua thật cần nước uống, đựng trong một cái chai Dextrose xài rồi) và một số y cụ, thuốc men. Còn đồ đạc cá nhân của tôi, từ cái quần đùi cho tới cái áo lót hay bộ đồ trận để thay đổi, tất cả đều đã mất hết. Thôi thì về tới Huế tính sau vậy. Hiện tôi chỉ lo là có đụng độ trên đường rồi có thương binh hay lính tử thương thì không biết làm sao mà khiêng vác theo đây. Tôi chỉ cố chia cho Quân Y mỗi người một chút để mang theo cho hết quân y cụ, thuốc men là tốt lắm rồi.
Đoàn người đi hàng một, không biết bắt đầu ở đâu và cuối cùng bao xa, chỉ biết rất dài và lặng thinh đi theo nhau, lúc lên đồi, lúc qua suối, có khi băng ngang những thửa ruộng lúa lên cao ngang đùi. Buổi trưa nghĩ một chút trên một ngọn đồi thông (không nhớ rõ có phải là thông hay không hay là cây dương?) để ăn trưa, cũng may Liên đoàn cũng còn lương khô hành quân mang theo chia cho mọi người trong Bộ Chỉ huy Liên đoàn nên cũng đỡ. Gió hiu hiu thổi làm xoa dịu cái mỏi mệt của đoạn đường vừa rồi. Kể ra chạy thì tôi không chạy được nhưng đi bộ thì không sao, ai tới đâu tôi tới đó. Nhớ lúc còn trong trường Y khoa, theo bạn đăng học khóa Nhảy Dù, khi thử thách “8 món ăn chơi” trong đó có món chạy 8km trong 1 giờ, tôi đã tưởng tôi bị loại vì ai cũng về trước 1 giờ, có mỗi mình tôi về khoảng 1 giờ 20 phút nhưng có lẽ phần nhờ tôi là SV Quân Y (việc nhảy dù chỉ để vui chơi văn nghệ!) phần 7 món thử thách kia tôi đã hơn trung bình nhiều nên tôi vẫn được nhập khóa...
Bây giờ thì sau khi chia nhau gói gạo sấy, uống miếng nước lã có pha thuốc lọc nước hôi rình, tôi nằm dựa gốc cây thông, nghe gió vi vu và bổng thấy mình hạnh phúc. Ôi sao cái hạnh phúc thật nhỏ nhoi và tầm thường, cái hạnh phúc là còn sống, còn ngồi giữa các anh em trong đơn vị dù cho đó là cái đơn vị đang trên đường rút lui, còn có miếng ăn dù không ngon lành gì chỉ để dằn cái bao tử cồn cào, còn có được điếu thuốc lá Quân tiếp vụ đắng tê cả lưỡi để gắn trên môi phì phà sau khi ăn, thế là nhất rồi... so với ngày hôm qua (tưởng chừng như hồi thế kỷ truớc) với đạn nổ, người chết tràn lan và hổn loạn trên đường số 1... Hôm nay thì thật bình yên...
Sau khi nghĩ một lát thì cả đoàn quân bắt đầu đi tiếp. Suốt cả buổi chiều không có chuyện gì xảy ra. Nghe truyền miệng từ Liên đoàn ra là cứ đi như thế thì chiều hôm sau, cả Liên đoàn sẽ rút quân về tới Huế hay ít ra tới được tuyến bạn, tôi thấy phấn khởi lạ...
Nhưng khi mặt trời vừa nằm ngang ngọn cây và ánh nắng không còn gay gắt nữa thì Liên đoàn đang đi ngang một ngôi làng nhỏ (dỉ nhiên tôi thì chẳng biết đấy là đâu hay cái làng nầy tên gì?) chỉ biết làng gồm dăm mái tranh sơ sài dột nát và miếng đất có cày xới chung quanh nhà. Đúng lúc tôi đang bước giữa những luống khoai mì bên cạnh một căn nhà thì súng bắt đầu nổ, tôi cũng không biết từ đâu bắn ra, ai bắn và bắn ai, tôi chỉ thấy những anh chàng Biệt động quân đi trước và sau lưng tôi nằm rạp cả xuống thì tôi nằm xuống theo mà thôi. Thật tình mà nói, tôi cũng không biết mấy anh chàng xung quanh tôi nằm xuống nhanh như vậy là để tránh đạn hay là vì đã trúng đạn? Nhưng do không có một tiếng rên siết nào cả nên tôi tạm kết luận là mọi người không sao trong khi đơn vị Bộ Chỉ huy Liên đoàn đang đi ngay vào ổ phục kích của địch. Súng bắt đầu nổ dử dội nhưng không có tiếng súng lớn, chỉ có tiếng nổ dòn dã của AK của địch và tiếng nổ cũng dòn nhưng ấm hơn của M-16 do đơn vị tôi bắn trả.
Tôi tuy căng mắt ra mà quan sát nhưng thiệt chẳng thấy địch đâu cả, chỉ biết đạn bay veo véo qua đầu, chung quanh tôi, các người lính BĐQ cũng bắn trả mãnh liệt. Thỉnh thoảng chen vào nhịp nổ dòn tan là những tiếng ì oành của lựu đạn cầm tay (tôi cũng không biết do bên nào ném ra!) Tôi chỉ biết trong thân phận một bác sĩ ngoài mặt trận, tôi không có vũ khí gì để bắn ai ngoài cây súng Colt.45 đơn vị phát cho mà theo tôi, tôi đã thấy quá nặng nề bên hông, vì vậy, tôi đã bỏ cây súng Colt trong bị mang trên lưng, trên mình tôi, dắt bên ngoài chiếc áo giáp chỉ toàn là dao kéo kềm mổ và... 1 quả lựu đạn trái chanh. Tôi thật cũng không biết mình dắt trái lựu đạn nhỏ xíu đó làm gì chỉ biết là vì tôi thấy nó xinh xinh nên mang theo chơi thôi! Tôi cũng nghe mấy anh lính nói là khác với loại lựu đạn MK-2, rút chốt ra rồi còn đổi ý gắn chốt trở vào, cái thằng trái chanh nầy tuy nhỏ con và dễ thương (giống như trái chanh mà thôi) nhưng hể rút chốt là phải ném đi, không có cái vụ đổi ý rồi đó! Lại thêm nó tuy nhỏ con mà sức nổ cũng như công phá rất khốc liệt hơn hẳn trái lựu đạn “bự con” kia nữa... Tôi thì chưa thử nhưng tôi cũng mong không có dịp để thử, chỉ mang trên cái móc áo giáp cho vui thôi! Và tôi không ngờ nó dính trên áo giáp cả tuần lễ nay mà cơ hồ tôi đã quên hẳn sự có mặt của nó. Hôm nay nằm sát đất, úp mặt, co người để tránh lằn đạn vô tình, tôi mới cảm thấy có nó, cái trái chanh cộm trước ngực tôi.
Đạn vẫn bay trên đầu, không biết cái gì văng tung toé lên người, không biết là miểng đạn hay đất cát nữa. Cái khổ của người không biết tác chiến là ai bắn ai thì bắn, còn tôi thực tình không biết đường đâu mà rờ, chỉ lo sao đạn nó vô tình, đừng ghé thăm tôi là đủ. Tại vậy mà tôi đã cúi mặt xuống đất, sợ thì thực tình tôi hoàn toàn không cảm thấy sợ hãi, tôi chỉ biết thực tế có ngóc mặt lên thì cũng không làm được gì mà có khi còn ăn đạn vô ích. Thế là tôi như  tự đóng kín con người tôi với thế giới bên ngoài, súng nổ, đạn bay, tôi không nghe, không thấy vì tôi không muốn nghe, muốn thấy, tôi thả hồn mình đi xa, thật xa về tận Saigon, nơi có cái gia đình nhỏ của tôi với tiếng cười, tiếng nói bi bô của hai đứa con trai tôi, với bàn tay dịu dàng của vợ tôi, và với tình yêu chất ngất và đầy nước mắt của người yêu của tôi...
Tôi tưởng như tất cả với tôi giờ nầy chỉ còn là mộng ảo vì có muốn đóng kín cái cảm giác thật người của tôi lại cũng không được vì chen lẫn trong tiếng súng ầm ỉ vẫn có tiếng kêu đau đớn của những người bị trúng đạn, vẫn có tiếng rên siết của những người hấp hối muốn một lần chót được thấy mặt lại người thân.
Hởi anh là người lính Bắc quân hay Nam quân, anh có biết gì đâu ngoài việc bổn phận của một con sâu cái kiến, sống ở một Miền nào là phải đi lính cho Miền đó nếu không muốn họa vào thân, anh phải cầm súng để bắn vào những người không quen biết, không thù hằn, những người nói cùng thứ tiếng với anh, cái tiếng mẹ đẻ Việt Nam. Giờ nầy, các anh đang cố bắn giết nhau, tận tình, hăng say và vô tư như chối bỏ sự thật là anh chỉ là một con cờ không hơn không kém, một con cờ vô tri giác... Anh chỉ thức tỉnh lại khi nào một viên đạn, một miểng pháo ghim vào người anh, chưa đủ để làm anh chết mà chỉ đủ cho anh bất thần ngừng lại cái trò chơi súng đạn mà người khác đã bắt anh tham gia với những từ ngữ thật đẹp, thật kêu, nào là Giải Phóng Miền Nam, nào là chiến đấu bảo vệ tiền đồn của Thế giới Tự do, còn nhiều lắm, những từ ngữ văn hoa bóng bẩy mà anh giờ có thấy gì đâu, khi nằm đây, trong cái làng hoang vắng nầy cũng như tôi, anh không hề biết tên của nó, một mình, chung quanh thật đông người đang say mê bắn giết nhau mà anh cảm thấy mình thật trơ trọi, thật cô đơn, với cái đau oằn oại gây ra do viên đạn của Kẻ Thù không biết mặt biết tên  đã ghim vào trong người. Máu anh vẫn chảy, nhưng không còn là chảy về tim mà là chảy ra nền đất Mẹ, nắm đất Việt Nam mà chỉ trong chốc lát, sự sống trong anh cũng sẽ chảy dần theo ra ngoài cái cơ thể gầy gò của anh để sau cùng thì cái đau đớn thể xác sẽ mờ đi với cái tối tăm dần dần che phủ trí óc anh và rồi anh cũng sẽ trở về cùng đất Mẹ... Gia đình anh giờ nầy chắc đang trong buổi cơm chiều, bên ngọn đèn dầu thôn quê leo lét hay ánh đèn đô thị sáng trưng, nhưng có khác gì nhau đâu, gia đình nào cũng sẽ nghĩ tới anh, tới người chồng, người cha, người yêu đang xông pha ngoài trận mạc, họ đều làm giống nhau tất cả là cầu xin cho anh hai chữ bình an, họ cầu xin bằng một ngôn ngữ giống nhau, cầu nguyện một Đức Phật, một Chúa Jesus như nhau vì họ cũng là cùng giòng giống Việt Nam...
Mãi suy nghĩ miên man mà trận chiến quanh mình không còn nằm trong trí tôi, tôi thả hồn theo dòng suy tư cho tới khi chiến trường đột nhiên trở nên im lặng tuyện đối một cách lạ lùng làm tôi chợt bừng tỉnh trở về thực tại. Trời đã tối mịt, xung quanh không còn một tiếng động, cái im vắng kỳ lạ và tự nhiên tôi thấy rợn người, tôi có cảm giác sợ hãi hơn là còn tiếng súng bắn nhau, bây giờ thì ngửa bàn tay không thấy mà quờ quạng chung quanh cũng không đụng một ai, mấy đệ tử đi ngay phía trước và phía sau tôi biến mất đâu cả rồi?
Tôi gọi nhỏ nhỏ: Ê, có đứa nào đó không?  Không có ai trả lời cả. Chỉ có tiếng côn trùng trong đêm vắng như đáp lời Tôi mà kêu to lên thôi. Không hiểu tình hình chiến sự tới đâu rồi sao kỳ lạ vậy?
Tưởng chừng như tôi đã nằm yên lâu lắm nhưng thực tế nhiều lắm chừng 5, 10 phút thì chợt có ánh đèn pin lập lòe chiếu ngang chiếu dọc rồi ẩn hiện những bóng người đi tới đi lui, họ còn hô to "Hàng sống chống chết!" om sòm. Rồi họ nói chuyện với nhau bằng tiếng Bắc “rặc,” cái thứ tiếng Bắc không giống như những người Bắc di cư vào Nam năm 54 mà nặng hơn nhiều và ‘khó ngửi’ hơn nhiều. Đó là những anh lính Bắc quân đã làm chủ chiến trường ở ngôi làng vô danh vào một đêm mờ sương Quảng Trị.
Họ bắt đầu nói với nhau về cách đi tìm xem có thằng địch nào chưa chết thì giúp cho nó chết, còn thằng nào còn sống khoẻ thì bắt sống làm tù binh, lục soát tìm tài liệu v.v... Rồi họ chia thành hàng ngũ để tiến hành lục soát. Tôi không hiểu những người lính BĐQ  của đơn vị tôi giờ ở đâu mà mọi bề đều im lặng, do bản năng sinh tồn cộng thêm bao nhiêu năm sinh hoạt ngoài trời trong Phong trào Hướng đạo nên tôi nhè nhẹ lăn đi từ từ để cố lánh xa dần cái phía của những người lính Bắc quân cho tới khi tôi đụng phải những cái rể xù xì gai góc của một bụi tre thì hết đường, tôi bèn nằm lại giả chết, tôi sửa soạn một tư thế nào cho thích hợp với một xác tử trận để nằm, rồi trong khi bọn Cộng quân đang xì xồ đàng xa, cách tôi chừng vài mươi thước thì tôi tiếp tục suy nghĩ xem làm thế nào cho giống mình đã chết, nếu không qua mặt được họ thì mình làm gì, nếu lỡ bị bắt sống thì làm sao, ôi, trăm ngàn câu hỏi trong đầu nhưng làm gì có câu trả lời, tôi chỉ còn biết cầu vong hồn Cha tôi giúp tôi cho qua cơn hoạn nạn nầy mà thôi...
Bổng nhiên trên trời có tiếng phi cơ! Tiếng động cơ vang lên rất rõ và rất trong trẻo trong cái yên lặng của đêm. Ngay cả tiếng Bắc nặng nề của bọn Cộng quân cũng ngừng lại, thay vào tiếng "Hàng sống chống chết!"  thì là Các đồng chí coi chừng, có thể cái bọn Ngụy trước khi rút chạy còn gọi phi cơ tới đánh bom chúng ta đấy! Có người nói chúng nó mà đánh bom tại đây thì chết bố cả cái bọn bị thương hay còn sống sót nằm lại đây sao?  Có đứa trả lời chúng nó mà kể gì anh em đồng đội...
Có một giọng nói cất lên có vẻ là người cầm đầu cả bọn: "Các đồng chí nói nhiều quá, nhiệm vụ là lục soát chiến trường thì cứ lo mà hoàn tất, còn phi cơ có đánh bom xuống đây hay không thì chỉ chốc nữa biết ngay thôi mà!" Thế là bọn họ bắt đầu lục soát trở lại, tuy họ vẫn còn xa chỗ tôi nằm nhưng cái khoảng cách cũng không cách nào tránh khỏi bị thu ngắn dần, lòng hồi hộp hết chỗ nói nhưng biết làm gì được?
Tiếng nổ trái bom đầu tiên là tiếng nổ lớn nhất mà tôi nghe được từ bé đến giờ. Cái tiếng như lụa xé, như kính vỡ, tiếng chói chang và tức thở như lấp đầy không gian và làm đứng lại thời gian. Quả là phi cơ đã thả bom xuống ngôi làng nơi hai bên “đụng” nhau ngay hồi vài tiếng đồng hồ trước. Chắc là hai anh cố vấn Mỹ còn đi chung với bộ chỉ huy Liên đoàn gọi không yểm chớ chẳng không. Mà không phải chỉ thả có một trái bom, tôi thì có rành gì về không quân thả bom đâu nhưng tôi biết qua sách vở hay phim ảnh rằng phi cơ đi thả bom thường thường bay ít nhất là hai chiếc và không phải mỗi chiếc phi cơ chỉ có một trái bom, mà thực vậy, tiếng ồ ồ của phi cơ hồi nãy nghe văng vẳng nay đến gần nghe rền cả bầu trời và bom rớt xuống cũng không cho tôi đếm được là bao nhiêu trái.
Ánh sáng đi theo mỗi tiếng nổ sáng đỏ bầu trời đêm tuy ngắn trong vài giây nhưng chớp nháy liên tiếp theo loạt bom mơ hồ như trời chớp khi chuyển mưa nhưng ở đây, ánh sáng chớp lóe màu vàng đỏ chứ không sáng trắng và  trong cái ánh sáng đỏ đó có hàm chứa một cái gì ghê rợn. Lý thuyết thì điểm thả bom là điểm thấp nhất của phi cơ rồi sau đó nó sẽ bay vút lên. Nếu không thả bom, người ở dưới đất vẫn bị chói tai vì tiếng động cơ quá lớn khi phi cơ xà xuống thật thấp, ở đây, thật không thể biết được có bao nhiêu chiếc phi cơ vì tiếng bom nổ quá lớn và ào ạt, át hẳn mọi sự sống dưới đất!
Đất hay đá hay miểng bom không biết nữa, cứ rơi ào ào, vi vút chung quanh tôi, rơi cả trên người tôi kèm theo tiếng nổ không dứt, tôi cố thu người vào gốc bụi tre, không hiểu đám rể tre nầy có che chở cho tôi được gì không nhưng dù sao đó là việc duy nhất tôi có thể làm được ở thời điểm nầy mà thôi. Nhờ vào ánh sáng của bom nổ mà tôi vẫn nhìn thấy được chung quanh mình còn có nhiều bộ đồ rằn ri cũng đang thu hình “đà điểu” giống như tôi trong đám rể tre. Tuy ở cảnh gần cái chết trong đường tơ kẻ tóc nhưng chợt thấy mình còn có nhiều người đồng cảnh, nhất là những người đó cùng chung một đơn vị với tôi, tôi thấy lòng như ấm lại phần nào...
Sau loạt bom thứ nhất thì không gian trở lại hoàn toàn yên lặng, không một tiếng động từ bất cứ phe lâm chiến nào. Tôi không biết những anh Cộng quân giờ ở đâu, có rút đi chưa hay đang chúi đầu giống như tôi đâu đây để chờ yên hẳn sẽ trở lại lục soát tiếp, hay nằm yên chờ cho những người lính Nam quân ngây thơ, đứng lên, tạo ra bất kỳ tiếng động gì để họ có thể tiếp tục bắn giết. Cái chuyện bom nổ vừa rồi, tôi nghĩ, nếu tôi không hề hấn gì thì bên phía VC cũng không thể nào lăn đùng ra chết hết được. Chắc là chúng chờ bên nầy lên tiếng trước chớ chẳng không. Nghĩ thế tôi tiếp tục nằm yên và có thể những người lính trong đơn vị tôi cũng nghĩ vậy nên tôi không nghe tiếng động nào hết ngay cả gần sát bên tôi, nếu không có ánh sáng do bom nổ, thật không tài nào tôi tưởng tượng là có bao nhiêu người đang nằm sát trong cái đám tre nầy cùng với mình. Còn bọn Cộng quân thì đang nghĩ gì, tại sao họ cũng nằm yên không nhúc nhích?
Câu hỏi chưa trả lời được thì loạt phi cơ trở lại bỏ bom lần thứ hai đã bắt đầu. Lần nầy thì không bất ngờ bằng và nhờ có “kinh nghiệm” hơn nên tôi không thấy sợ như lần trước, cũng ánh sáng chớp giật từng hồi kèm theo tiếng nổ xé trời, cũng đất đá hay miểng bom (?) rơi ào ào tứ tung. Cũng may, ngay chỗ tôi nằm không hề  trúng một trái bom nào cả vì nếu có thì cái bụi tre với cái đám rể tre mong manh nầy thì làm sao chịu nổi? Tôi nghĩ lan man, nếu một trái bom rơi trúng ngay bụi tre nầy thì mình ra sao nhỉ? Không biết cái xác mình còn có cái gì để lượm chôn được hay không (nếu người nhà mình tìm được tới cái bụi tre nầy) hay tất cả mọi người đang núp ở đây sẽ đồng loạt biến mất khỏi mặt đất, không biết mình sẽ có cảm thấy đau đớn gì hay không nhỉ? Chắc là không kịp nghe đau đâu, à mà chết như thế cũng không khổ bằng bị thương lê lết mất máu mà không được chữa trị rồi chết dần chết mòn... Mãi suy nghĩ lung tung rồi tôi thiếp đi lúc nào không biết và bọn Cộng quân cũng không biết có lục soát tiếp không hay sau khi bị bom đánh hai lần, họ đã rút đi rồi?
01-5-1972
Mặt trời chưa mọc nhưng ánh sáng đã chan hoà trên mặt đất, trên bãi chiến chiều qua. Tôi bừng tỉnh dậy cũng đúng vào vị trí đêm qua nhưng hiện tại thì mọi sự đều trông thấy rõ ràng, tôi thấy mình nằm sát vào những rể tre chằng chịt của một bụi tre to tướng, xung quanh tôi là những người lính BĐQ trong BCH LĐ, có người đã mở mắt nhưng cơ hồ chưa biết mình đang nằm mộng hay sao mà gương mặt như ngơ ngác (chứ không phải còn ngáy ngủ) có người thì đã ngồi dậy và mặt mủi đăm chiêu, và có cả những người vẫn còn nằm yên, không biết đang còn ngủ hay đã chết từ đêm qua rồi?
Có điều, mọi người đều cùng mặc một thứ quân phục như tôi vì rõ ràng chứ không phải nằm mơ, Liên đoàn đã bị phục kích trong cái làng nhỏ nầy chiều qua, tôi dụi mắt đôi ba lần như muốn chối bỏ thực tại thật đen tối như bây giờ. Nhìn ra xa xa cách bụi tre vài mươi thước thì thấy cái liếp khoai mì chiều qua giờ đã bị bom đạn đốn ngã rạp xuống, thấp thoáng có những bóng người nằm trong những tư thế ngược ngạo vì cái chết đã đến quá bất ngờ cũng như sức chạm của đạn bom rất mạnh nên thân xác con người chỉ là những mảnh giẻ bị xé tung toé ra mà thôi. Khi bom đạn rơi xuống từ trời cao thì có phân biệt địch hay bạn? Quân phục những xác chết thì màu sắc rằn ri của đơn vị tôi chen lẫn có quân phục màu xanh olive của Cộng quân, không biết bị đạn Nam quân bắn chết hay chết vì bom của Hoa Kỳ? Trong đó có ai là người đã lớn tiếng hô hào "Hàng sống chống chết" đêm qua hay không? Mọi người thức tỉnh hay chưa thức tỉnh đều trong vị thế yên lặng và quan sát vì có lẽ cũng như tôi, không ai biết mình phải làm gì trong tình trạng nầy?
Rồi bổng có một đám lính Biệt động quân kéo đến mà người dẫn đầu là Đại úy Xê, trưởng ban Truyền tin của Liên đoàn. Xê là sĩ quan tốt nghiệp khóa 19 Võ Bị Dalat, theo lẽ ở tác chiến cầm quân thì cũng ở cấp thiếu tá nắm ít nhất là tiểu đoàn phó trở lên nhưng không hiểu vì sao anh đã chuyển ngành sang truyền tin nên giờ nầy cũng còn mang lon Đại úy và chỉ là trưởng ban Truyền tin mà thôi trong khi Liên đoàn có 3 Tiểu đoàn  thì trừ Thiếu tá Danh (Tiểu đoàn  33) là khoá đàn anh (VBQG khóa 18) còn lại hai Tiểu đoàn trưởng kia (30 và 38) là các Thiếu tá Thủy và Khang đều là bạn đồng khóa của anh. Nay Đại úy Xê đứng ra tập họp đám tàn quân lại để dẫn đường trở về, không cần nói là cấp bậc anh cao nhất đám mà chỉ việc anh xuất thân khoá 19 Dalat cũng đủ cho  vừa thấy tin tưởng vừa vững dạ hơn lên rất nhiều.
Anh Xê cho tập họp tất cả đám tàn quân lại để kiểm điểm và tổ chức lại hàng ngũ (không ngờ có những hơn 70 người -kể cả tôi - sống sót qua đêm vừa rồi mà hồi đêm tôi cứ ngỡ chỉ còn mình mình!) Rồi lệnh anh Xê đưa ra là tất cả chỉnh đốn đội hình theo anh để lên đường tiếp tục tìm về tuyến bạn. Lúc đó khoảng chừng 6 giờ sáng.
Trên đường đi, tôi có hỏi anh Xê là mình đang ở đâu và tuyến bạn ở đâu? Còn bao xa nữa mới bắt liên lạc được với phe ta thì được anh trả lời là máy móc vô tuyến giờ mất sạch, có cách gì liên lạc được với ai? Anh hiện chỉ tìm hướng nam mà đi, dùng mọi thủ thuật di hành của quân đội để đi, mọi người ai cũng chỉ còn súng cá nhân mà thôi (M16) riêng tôi thì lượm được một cây carbine M -2 cũng cầm cho có với mọi người - không lẽ đi tay không? đồ đạc cá nhân mọi thứ của tôi giờ không biết đâu mất cả rồi mà nhìn chung quanh mọi người cũng giống như tôi, không ai còn cái gì khác ngoài bộ đồ lính trên mình cùng ít đạn dược và một khẩu súng cá nhân - Tôi phân vân trong bụng không biết rồi ăn cái gì và uống cái gì để sống mà đi tiếp? Vì dưới con mắt quan sát của tôi, tôi không thấy ai mang cái gì có thể ăn được cả cũng như tôi thấy chỉ vài người rải rác có bình tong nước mà thôi... Nhưng mặc kệ, ai sao thì mình vậy, quý hồ là còn sống trở về tuyến bạn được là tốt rồi...
Khoảng gần 9 giờ sáng thì đám tàn quân dưới sự hướng dẫn của Đại úy Xê đang đi về hướng đông bổng đến một chiếc cầu nằm theo hướng đông-tây đã gãy sập khúc giữa tự lúc nào. Dòng sông chảy theo hướng bắc-nam không lớn lắm, bề ngang chỉ chừng 3, 4 mươi mét nhưng nước chảy khá mạnh. Anh Xê ra lệnh cho mọi người làm phao cá nhân từ những chiếc poncho, ai biết bơi thì bơi và nhường poncho lại cho người không biết bơi. Tuy nhiên số poncho vẫn không đủ cho số người không biết bơi.
Cũng may, hồi còn bé, tôi vẫn thường hay trốn học đi tắm sông. Nhà tôi hồi trước ở Bà chiểu, không có sông nào ngoài sông Saigon thì cấm bơi, sông cầu Bông tức rạch Nhiêu Lộc thì quá dơ nên anh em tôi vẫn thường cùng đám bạn nhỏ trong xóm đi bơi ở cầu Bình Lợi, sông vừa rộng vừa nước chảy mạnh nên nói chung, nguyên cái lũ trẻ năm xưa đứa nào cũng bơi rất giỏi với cái giá là lần nào về nhà, hai anh em tôi cũng bị Mẹ đánh đòn nên con sông nhỏ ở Quảng Trị nầy không làm tôi lo lắng chút nào. Tôi mang cả nón sắt, không bận tâm cởi cả đôi giày trận mà nhảy đùng xuống nước nguyên con.
Sau bao nhiêu căng thẳng tối qua, mặc dù chưa đi thoát tới đâu cả nhưng vẫy vùng dưới nước làm cho tôi thấy rất sảng khoái! Trong khoảnh khắc, tôi đã sang đến bờ phía đông, tôi còn nhìn quanh quất trên bờ và dưới nước với ý nghĩ  tìm xem Đại úy Xê ở đâu. Bổng có tiếng kêu lớn: Anh Ấn ơi, cứu em với!  Nhìn xuống nước thì tôi thấy Thiếu úy Bình (thuộc Ban 3 BCH/Liên đoàn) đang chới với tuy sắp đến bờ. Có lẽ Bình không biết bơi nên dùng poncho làm phao nhưng sắp đến bờ thì tuột tay hay sao đó nên đang lùng bùng dưới nước, không kịp nghĩ gì cả, tôi phóng trở xuống nước, bơi tới Bình để dìu anh vào bờ. Cũng may, Bình cũng biết nguyên tắc cấp cứu thủy nạn nên không làm trở ngại gì cho tôi trong việc cứu anh ta. Khi Bình với tôi chỉ còn vài sải tay nữa là tới bờ thì bổng tiếng súng nổ dòn dã và tiếng đạn bay veo véo rền cả buổi sáng yên tỉnh. Ngoái nhìn lại bờ phía tây, tôi thấy có 2 chiếc chiến xa của Cộng quân đang đậu lại với bao nhiêu lính ngồi đứng lổn ngổn trên đó, họ dùng súng cá nhân cũng như đại liên trên xe để bắn đám lính BĐQ hoặc đang chạy tháo thân bên bờ hoặc còn đang vật vả chiến đấu với dòng nước chảy...
Nói thì lâu nhưng thật ra chỉ trong tích tắc, tôi đẩy Bình vào bờ với ý nghĩ Bình sẽ chắc chắn không còn bị chết đuối nữa (còn có sẽ ăn đạn Cộng quân hay không thì chỉ có Trời biết) còn tôi thì quyết định phải tự cứu lấy thân, tôi lặn ngay thật sâu xuống nước và bơi thật mạnh xuôi theo dòng nước, khi hết hơi, tôi nổi lên và hít thật sâu và thật nhanh trước khi lặn trở lại. 3 lần nín hơi để lặn sâu và bơi theo dòng nước chảy và 3 lần nổi lên để thở, tôi ước lượng mình cũng đã đi xa khỏi vùng chiếc cầu gãy hơn 100 mét là ít, tôi nổi lên và thả ngửa theo dòng để nhìn lại thì thấy 2 chiếc chiến xa giờ đã nhỏ xíu, tôi không còn thấy hình dáng người nào rõ ràng nhưng tôi thấy được họ vẫn còn bắn theo những người lính đã tan hàng, đang chạy nhốn nháo như đàn kiến vỡ tổ hoặc đã lên được bên kia bờ hoặc đang còn đang bì bõm dưới nước.
Tôi không thấy cần lặn nữa mà bơi nhè nhẹ theo dòng nước để đi xa thêm nữa cho tới khi tôi chỉ còn nghe tiếng nổ xa xa nhưng không còn thấy ai nữa hết nhờ con sông đã quẹo sang hướng khác, tôi bắt đầu cặp vào bờ hướng đông rồi lên bờ. Người ướt sũng nhưng không thấy lạnh, lạ là tôi cũng không thấy sợ hãi gì cả mà lòng còn thấy vui mừng là mình vừa thoát chết một cách linh hoạt, bây giờ phải định hướng mà đi tiếp để tìm trở về tuyến bạn. Tôi nghĩ sở dĩ Đại úy Xê đi về hướng đông thay vì hướng nam là con đường gần hơn trở về tuyến bạn có lẽ vì anh ta biết được khu nầy có lẽ có nhiều quân Bắc vì hiện vẫn còn không xa quốc lộ 1 là mấy. Do đó tôi quyết định cứ tiếp tục đi về hướng đông cho tới khi nào cảm thấy đã xa quốc lộ 1 thì lúc đó tôi sẽ đổi về theo hướng nam thôi. Thế là tôi bắt đầu tiến bước nhìn về phía mặt trời trước mặt.
Lúc đầu thì tôi cứ lầm lũi bước không thấy mỏi mệt chi cả. Bốn phía không một bóng người. Cũng may địa thế ở đây chỉ là những độ dốc không cao và đất có trộn lẫn nhiều cát, tôi nghĩ có lẽ tôi còn cách bờ biển không xa lắm. Chừng gần trưa thì mặt trời lên cao, áo quần ướt đẫm nước sông của tôi đã khô tự bao giờ và tôi bắt đầu thấy khát. Cái đói cũng như những chuyện vệ sinh thường ngày (tiểu tiện hay đại tiện) sao không thấy là vấn đề gì, chỉ có cái khát bắt đầu trở lại làm tôi nhớ buổi sáng trên đường số 1, khi đoàn người và xe cộ bị pháo đánh tan tác và tôi chạy vào cánh đồng cát bên đường, lúc đó thật cái khát nước giống như bây giờ... Bốn phía là cát, lấy nước ở đâu ngoài cái ráng mà chịu đựng? Khi mặt trời ở trên đỉnh đầu thì chung quanh chỉ toàn là cát và cát, cái cát trắng to hạt và nóng bỏng... Rải rác có những lùm bụi nho nhỏ đong đưa theo gió. Tới gần tôi thấy những chùm hoa tím và có cả những trái nho nhỏ cũng màu tím mà mấy hôm trước tôi đã có dịp biết đó là bụi hoa sim, tuy chưa bao giờ ăn thử nhưng nhớ hồi còn ở Saigon có hai câu thơ tôi vẫn nghe hàng triệu lần:
Đói lòng ăn nửa trái sim
Uống lưng bát nước đi tìm người thương...
Tôi cũng ngắt một hai trái bỏ vào miệng. Vị không ngọt lắm nhưng cũng dễ chịu nhất là làm dịu cơn khát của tôi phần nào. Thế là tôi hái tất cả trái ở cái bụi sim đó ăn liền.
Không bao giờ tôi nghĩ có lúc mình cũng phải ăn trái sim đỡ đói khát như bây giờ và trớ trêu là tôi đang tìm về tuyến bạn trong khi đơn vị tôi hiện đã tan tác phương nào chớ không phải tìm người yêu nào cả!
Cái khát tạm giải quyết xong thì cái đói chừng như thức dậy. Tôi nằm nghĩ trên cát dưới cái bóng mát nhỏ xíu của bụi sim để tránh bớt cái nóng nung người của buổi trưa Quảng Trị, bốn phía chỉ cát và cát, không một bóng người, trên mình chỉ còn lại có một bộ đồ trận và vài cái dụng cụ tiểu phẫu, thử hỏi lấy cái gì mà ăn đây? Thôi thì nhịn đói cũng được, để nghĩ một chút rồi sẽ tính tới. Tưởng về gặp được đơn vị thì vững bụng rồi ai ngờ mình cũng trở lại cái cảnh cùng cực cô quạnh một mình giữa cái chốn không biết là đâu.
Một lúc sau, tôi bắt đầu đi tiếp về hướng đông (nhờ nhìn theo mặt trời). Khi mặt trời lên gần tới đỉnh đầu thì ước chừng mình đi cũng đã được 5, 3 cây số gì đó nên tôi định hướng mặt trời để quay về hướng nam. Có lẽ nhờ Trời thương nên chừng lát sau, tôi nhìn thấy có một chiếc xe thiết giáp nằm trên bãi cát, chiếc xe rõ ràng là của phe ta (kiểu gì thì cũng không biết, chỉ biết không phải là M-48 vì M-48 của Thiết đoàn 20 Kỵ Binh đóng quân chung với tôi mấy hôm trước nên tôi nhìn nó là biết liền) Tôi liền đi tới gần xem thử.
Tới nơi, thấy chiếc xe hoàn toàn vắng lặng như không có người, tôi liền leo lên pháo tháp nhìn vào thì chỉ có mùi khói xông ra, chắc là xe bị bắn trúng làm hư hại nên bị bỏ lại. Không có tăm dạng của người sống cũng như không có cả xác chết của ai cả, chiếc xe đứng lẻ loi một mình giữa đồng cát mông quạnh giống như tôi vậy. Tôi leo vào bên trong lục tìm xem có cái gì ăn được không. May quá, tôi thấy được mấy hộp đồ ăn của quân đội Mỹ nằm lăn lóc ở một góc liền túm cả bỏ vào trong một cái bị bằng vải lều cũng ở trong xe.
Sau đó, tôi liền rời khỏi xe và đi thật nhanh cho xa vì tôi sợ chiếc xe nằm chơi vơi giữa đồng cát thật dễ là mục tiêu cho mọi người chú ý và dĩ nhiên nếu đơn vị VC nào mà thấy nó thế nào chúng cũng sẽ tới lục soát. Ở giữa đồng cát mênh mông nầy thật không có chỗ núp nên nếu tôi ở gần đâu đó một vài cây số vẫn có thể bị nhìn thấy, vì vậy tôi liền tìm đến một bụi sim trên đường và khuất bóng chiếc thiết giáp chắc cũng đã xa để nằm trốn. Qua những sách vở tôi đã đọc, tôi biết được trong trường hợp của tôi, ban ngày nằm trốn đâu đó và di chuyển ban đêm là cách tốt nhất nhất là ở vào cái địa hình bốn bề trống trải như cái đồng cát nầy. Và tôi cũng không quên nhắm sẵn hướng để có thể đi đúng hướng nam đêm nay khi không còn có mặt trời để làm chuẩn nữa... Trăng hay sao gì thì chắc sẽ không có vì đêm qua, tôi nhớ rõ ràng trời đã tối đen như mực khi tôi nằm trong bụi tre khi máy bay oanh tạc...
Nằm trong bụi sim, tìm cách khui một lon thịt heo (mà mấy anh lính thường gọi là Heo nút lưỡi) lại còn tráng miệng một lon Fruit Cocktail nữa chớ, thật sang (có điều cái thịt heo nút lưỡi nầy ăn không thiệt là mặn mà cái mặn nầy sẽ hành hạ tôi cho khát chết bỏ chớ chẳng không!). Tôi nghĩ mình đã sẳn sàng cho cuộc dạ hành, bây giờ tới đâu hay đó, tôi nằm nhắm mắt để tìm giấc ngủ để còn có thể đi sáng đêm nay...