Dịch giả: Dương Tường
Chương 23

Hẳn là bọn nó đang đến gần một khóm rừng tre vừa mới đốn – chỉ còn cách chừng một cữ ném đá thôi. Kunta có cảm giác thế. Qua chiếc mũ chùm đầu, nó có thể ngửi thấy mùi tre tươi mới đẵn, sực nức. Bọn chúng lại gần hơn; mùi tre mỗi lúc một thêm ngào ngạt; chúng tới chỗ cây ngáng, rồi đi qua đó, nhưng chúng vẫn còn ở bên ngoài. Tất nhiên – đó là một lũy tre. Đột nhiên, tiếng trống dứt hẳn và đoàn người dừng bước. Trong mấy phút liền, Kunta và những đứa trẻ khác đứng sững, im lặng. Nó lắng nghe xem có âm thanh nhỏ nào khả dĩ mách cho nó biết giờ khắc lúc bọn nó dừng bước hoặc đây là nơi nào, nhưng chỉ thấy tiếng chí choé của bầy vẹt và tiếng la lối của lũ khỉ trên đầu.
Rồi bỗng nhiên, chiếc mũ chụp của Kunta được nhấc lên. Nó đứng hấp háy mắt trong nắng chiều rực rỡ, cố gắng cho quen vói ánh sáng. Nó sợ cả đến ngoảnh đầu nhìn các bạn đồng niên, bời vì đứng ngay trước mặt bọn nó là bố già Xila Ba đipha mặt nhăn nheo, nghiêm nghị. Cũng như tất cả những đứa khác, Kunta biết rõ ông và gia đình ông. Song Xila Ba đipha làm như trước đây chưa hề gặp đứa nào trong bọn chúng – thật vậy, như thể giờ đây ông thà không nhìn chúng còn hơn, cặp mắt ông lướt trên mặt chúng như kiểu nhìn vào một đám giòi đang bò lổn nhổn vậy. Kunta biết đó chắc chắn là kintangô của chúng. Đứng ở hai bên ông là hai người trẻ hơn, Ali Xiz và Xora Tura, mà Kunta cũng biết rõ. Xora là bạn rất thân của Ômôrô. Kunta lấy làm mừng rằng không có ai là Ômôrô để phải thấy con trai mình khiếp đảm đến thế.
Như đã được dạy trước, toàn thể lứa kafô – tất thảy là hai mươi ba đứa con trai – úp hai bàn tay bắt chéo trên chỗ trái tim và chào các bậc huynh trưởng theo lối cổ truyền: “Bình an!” “Duy chỉ bình an mà thôi!”, vị kintangô cao tuổi và các phụ tá trả lời. Mở rộng tầm nhìn của mình một lúc – thận trọng không ngọ nguậy đầu – Kunta thấy bọn chúng đang đứng trong một khoảng đất rào kín, điểm những túp nhà tranh vách đất, xung quanh là lũy tre cao, tươi mới. Nó có thể thấy những chỗ chữa trên các túp nhà, rõ ràng là công trình của những người cha đã mấy ngày liền mất tăm khỏi Jufurê. Tất cả những cái đó, nó trông thấy mà không đụng đậy một thớ thịt nào. Nhưng lát sau, nó giật bắn người.
“Rời khỏi làng Jufurê là lũ trẻ nít”..vị kintangô đột ngột lớn tiếng nói. “Nếu muốn trưởng thành trở về, các ngươi cần phải dẹp tan nỗi sợ, bởi vì một con người khiếp sợ là một người yếu đuối và một con người yếu đuối là một hiểm hoạ cho gia đình, cho làng bản, cho bộ lạc”. Ông nhìn bọn nó trừng trừng như thể chưa bao giờ thấy một đám thảm hại đến thế, rồi quay đi. Trong khi ông làm thế, hai người phụ tá liền nhảy bổ ra, bắt đầu vun những thanh gỗ giữa đám thiếu niên, nện vào vai, vào mông chúng đau điếng và lùa chúng như lùa dê, từng tốp dăm đứa một, vào những túp lều đất nhỏ bé.
Nép vào nhau trong căn lều trống trơn, Kunta và bốn đứa bạn quá thất đảm đến nỗi không cảm thấy cái nhói buốt dai dẳng do những nhát roi chúng vừa hứng chịu và quá xấu hổ không dám ngẩng đầu lên, dù chỉ là vừa đủ để nhìn nhau. Sau mấy phút khi xem chừng có thể được tạm tha trong giây lát không bị hành hạ thêm. Kunta bèn lén nhìn các bạn cùng hội cùng thuyền với nó. Nó ước ao là nó và Xitafa được ở cùng lều. Cố nhiên, nó có quen biết tụi kia, song không đứa nào thân thiết bằng thằng bạn nối khố, và tim nó trĩu xuống. Nhưng chắc đây không phải là chuyện ngẫu nhiên, nó lý luận thế. Có lẽ thậm chí họ không muốn cho chúng mình có được niềm an ủi nhỏ  bé ấy. Cơ chừng họ cũng sẽ không cho chúng mình ăn nữa cũng nên, nó bắt đầu nghĩ vậy khi dạ dày cất tiếng gào đói.
Ngay sau khi lặn mặt trời, các phụ tá của kintangô sục vào lều “Đi!”. Một cái tay thước quất mạnh qua vai nó và theo tiếng xuỵt ráo riết, bọn trẻ nhốn nháo bổ ra trong chiều chạng vạng, đâm xầm vào những đứa ở các lều khác và dưới những tay thước bay tới tấp, kèm những mệnh lệnh cộc cằn, chúng bị dồn thành một hàng dọc xiên xẹo, đứa sau nắm tay đứa trước. Khi cả bọn đã đứng vào chỗ, kintangô chằm chằm nhìn chúng với vẻ lầm lầm cau có và báo là chúng sẽ làm một cuộc hành quân đêm vào sâu trong khu rừng bao quanh đây.
Khi có lệnh xuất phát, đoàn thiếu niên sắp thành hàng dài bắt đầu đi theo con đường nhỏ, lộn xà lộn xộn, và các tay thước liên tục giáng xuống chúng. “Mày đi như trâu ấy!” Kunta nghe thấy thế bên tai mình. Một thằng bị đánh, kêu khóc và cả hai người phụ tá đều lớn tiếng quát trong bóng tối: “Đứa nào đấy?” và cơn mưa roi càng trút xuống dữ dội hơn. Sau đó, không thằng nào ho he lấy một tiếng.
Chẳng mấy chốc, chân Kunta bắt đầu đau – nhưng không đau sớm hoặc tệ hại như trong trường hợp mà giả sử nó không học được cách sải bước thoải mái do bố nó dạy trong chuyến du hành tới làng của Jannê và Xalum. Nó khoái chá nghĩ rằng chân những thằng kia chắc chắn phải đau hơn chân nó, vì bọn chúng chưa biết cách đi đường trường như thế nào. Nhưng tất cả những điều Kunta đã học được đều không mảy may làm nó đỡ đói, đỡ khát. Nó cảm thấy dạ dày thắt lại từng nút và khi, cuối cùng, có lệnh dừng lại gần một dòng suối nhỏ, nó đã bắt đầu cảm thấy đầu nhẹ bỗng. Bóng trăng vằng vặc phản chiếu trên mặt suối phút chốc vỡ ra lăn tăn khi bọn trẻ quỳ xuống, bắt đầu khum tay vốc nước uống ừng ực. Một lúc sau, các phụ tá của kintangô ra lệnh cho chúng tách xa khỏi bờ suối, dặn không được uống quá nhiều ngay một lúc, rồi mở những gói đội đầu ra và phân phát một số tảng thịt sấy. Bọn trẻ giằng lấy những miếng thịt chẳng khác một bầy linh cẩu, Kunta nhai và nuốt nhanh đến nỗi nó hầu như không biết vị của bốn miếng nó dành được cho mình ra sao.
Chân đứa nào đứa nấy đều phồng giộp lên những bọng nước to tướng, Kunta cũng thế, nhưng có thức ăn và nước trong dạ dầy rồi, nó cảm thấy dễ chịu đến nỗi không nhận thấy điều ấy. Ngồi bên dòng suối, nó và các bạn đồng tuế bắt đầu đảo mắt nhìn nhau dưới ánh trăng, vẫn không nói không rằng, lần này thì vì quá mệt chứ không phải vì quá sợ hãi. Kunta và Xitafa nhìn nhau hồi lâu nhưng trong ánh sáng lờ mờ, không đứa nào đủ tinh tường để nhận rõ bạn mình trông có đến nỗi khốn khổ như bản thân mình cảm thấy không.
Kunta chỉ mới kịp nhúng đôi bàn chân bỏng rát vào làn nước suối mát lạnh thì các phụ tá của kintangô đã hô chúng trở lại đội hình để bắt đầu chặng đường dài về trại. Cả đầu lẫn chân nó đều tê dại khi bọn chúng rốt cuộc nhìn thấy cái cổng tre trước lúc rạng đông một ít. Với cảm giác là mình sẵn sàng lăn quay ra chết, nó lê bước vào lều, cụng phải một thằng khác đã ở trong đó, mất thăng bằng ngã rúi xuống sàn bẩn và ngủ mê mệt ngay chỗ nó nằm kềnh ra.
Trong sáu đêm tiếp theo, đêm nào cũng có một cuộc hành quân, càng về sau càng dài hơn. Đôi chân phồng dộp của nó đau khủng khiếp, nhưng đến đêm thứ tư, Kunta thấy rằng, cách nào đó, cái đau cũng chẳng đáng kể lắm và nó bắt đầu cảm thấy một niềm xúc động mới thú vị: tự hào. Đến cuộc hành quân thứ sáu, nó và những đứa khác phát hiện ra rằng, bất chấp đêm đen như mực, chúng không cần phải nắm tay nhau nữa mới giữ được hàng quân ngay ngắn.
Đêm thứ bảy, kintangô đích thân dạy bài học đầu tiên cho bọn trẻ: chỉ bảo cho chúng biết những người mắc kẹt trong rừng sâu dựa vào các vì sao như thế nào để định hướng, tìm đường sao cho không bao giờ bị lạc. Trong nửa tuần trăng đầu, tất cả bọn con trai lứa kafô này đã biết nhìn sao để dẫn đoàn người hành quân trở về trại. Một đêm làm nhiệm vụ dẫn đường, suýt nữa Kunta dẫm phải một con chuột rừng trước khi nó nhận ra có người mà chạy trốn. Tuy giật mình, Kunta cũng tự hào không kém, vì điều đó có nghĩa là đoàn quân đã đi lặng lẽ đến nỗi ngay cả một con vật cũng không nghe thấy.
Nhưng loài vật – như lời kintangô nói với bọn nó – là những thầy giáo cừ nhất về nghệ thuật săn bắn vốn là một trong những điều quan trọng nhất mà mọi người Manđinka đều phải học. Khi kintangô đã hài lòng về việc bọn nó đã làm chủ kỹ thuật hành quân, nửa tuần trăng tiếp theo, ông đưa cả lứa kafô vào sâu trong rừng cách xa trại, tại đó chúng dựng những lán nhỏ để ngủ trong thời gian giữa vô số các bài học về những bí quyết để trở thành một Ximbôn (1). Kunta có cảm giác như hễ động nhắm mắt là một trong hai phụ tá của kintangô đã hô dậy để dự một buổi tập nào đó.
Các phụ tá của kintangô chỉ ra những chỗ sư tử vừa mới nằm phục kích rồi nhảy bắt linh dương đi ngay qua; chỉ chỗ sư tử đến ngủ nốt đêm, sau khi ăn. Họ lần trở ngược lại dấu chân của bầy linh dương cho tới khi gần như hiện lên trước mắt bọn trẻ một hình ảnh về hoạt động của bầy linh dương suốt ngày hôm đó, trước khi gặp sư tử. Lớp kafô xem xét các kẽ nứt rộng trong những tảng núi đá, nơi ẩn náu của sói và linh cẩu. Và chúng bắt đầu học nhiều mánh lới săn bắn mà chúng chưa bao giờ mơ tưởng tới. Chẳng hạn, chưa bao giờ chúng ý thức được rằng bí quyết đầu tiên của người Ximbôn bậc thầy là không bao giờ di chuyển đột ngột. Chính vị kintangô cao tuổi đã kể cho bọn trẻ câu chuyện về một gã đi săn rồ dại ở giữa một vùng đầy muông thú mà cuối cùng suýt chết đói, vì quá vụng về chạy hết chỗ này sang chỗ nọ, làm huyên náo cả lên, đến nỗi quanh anh ta, thú vật các loại đều mau chóng và lặng lẽ chuồn đi hết mà anh ta thậm chí cũng không hề biết là chúng đã ở kề ngay bên mình.
Trong những bài học bắt chước tiếng các loài muông thú, bọn trẻ cảm thấy mình cũng giống như gã đi săn vụng về nọ. Không khí vang rộn những tiếng huýt, tiếng gầm gừ, mà chẳng thấy chim hoặc thú nào lại gần. Thế rồi, chúng được lệnh nằm thật yên trong những chỗ nấp trong khi kintangô cùng các phụ tá phát ra những tiếng tưởng chừng cũng giống như chúng đã kêu, và phút chốc, muông thú đã xuất hiện, nghênh nghênh đầu tìm xem những con nào khác đã gọi chúng tới.
Một buổi chiều, khi bọn trẻ đang tập tiếng chim gọi nhau, bỗng nhiên một con chim mình rộng mỏ to tướng đậu xuống bụi rậm gần đó, kêu quang quác. “Nhìn kìa!” một thằng kêu lên và cười hô hố tim những đức khác giật thót lên đến tận cổ, chúng biết rằng một lần nữa thói to mồm của thằng kia lại sắp sửa khiến tất cả bọn phải phạt. Trước đó, không ít lần, nó đã bộc lộ thói quen hành động không suy nghĩ – nhưng giờ đây, kintangô làm chúng ngạc nhiên. Ông bước lại chỗ thằng bé và nói với nó rất nghiêm nghị: “Bắt sống con chim ấy mang lại đây cho ta!” Kunta và các bạn nín thở theo dõi thằng nọ khom người xuống và rón rén về phía bụi rậm, nơi con chim nặng ục ịch đang đậu một cách ngu xuẩn, đầu quay hết bên này sang bên kia. Nhưng khi thằng cu nhảy vọt lên, con chim bứt ra được khỏi đôi tay nắm bắt của nó, điên cuồng vỗ đôi cánh cụt lủn, vừa đủ nâng cái thân hình ộ ệ lên trên lớp bụi rậm – và thằng bé chồm theo, đuổi riết, chẳng mấy chốc đã khuất khỏi tầm mắt.
Kunta và bọn kia đứng ngây ra như sét đánh. Rõ ràng, những điều kintangô có thể hạ lệnh bắt chúng làm, quả là vô cùng, không có giới hạn nào cả. Trong ba ngày và hai đêm sau khi đi tập, bọn trẻ cứ đưa mắt nhìn nhau hoài, rồi lại nhìn bụi rậm gần đấy, tất cả đều băn khoăn tự hỏi về những gì đã xảy đếni Jufurê đi hai, ba ngày và trở về cũng lặng lẽ như thế, bọn con trai bèn thì thầm to nhỏ với nhau một cách căng thẳng, nhất là sau hôm thằng Kalilu Contê nghe lỏm thấy chú nó nói rằng những sửa chữa rất cần thiết đã được tiến hành ở khu rèn luyện trưởng thành vốn bỏ không, mặc cho sương gió và thú vật hoành hành trong gần năm vụ mưa kể từ khi đợt rèn luyện trưởng thành lần trước được hoàn mãn tại đó. Những chuyện rầm rì lại càng trở nên sôi nổi sau khi thấy cha chú chúng bàn tán về việc bậc huynh trưởng nào có thể được Hội đồng bô lão chọn làm kintangô – người phụ trách việc rèn luyện trưởng thành. Kunta và tất cả các bạn nó đều đã nhiều lần nghe thấy cha, chú, bác và các anh lớn chúng kính cẩn nhắc đến các bậc kintangô đã từng giám sát việc rèn luyện trưởng thành của bản thân họ bao nhiêu vụ mưa trước đây.
Đúng vào lúc trước mùa gặt, tất cả tụi con trai lứa kafô thứ ba đều khích động cơ hồ phát sốt, kể cho nhau nghe mẹ chúng lặng lẽ lấy một cái thước may đo quanh đầu xuống tới vai mỗi đứa như thế nào. Kunta cố hết sức dấu kín hình ảnh sinh động trong trí nhớ về cái buổi sáng cách đây năm vụ mưa khi mà, với tư cách là những chú mục đồng mới toanh, nó và các bạn đã sợ đến gần như bạt vía trước cảnh bọn thiếu niên kêu rống dưới những mũ vải trắng trùm kín đầu, bị một đoàn người đeo mặt nạ gớm ghiếc, cầm giáo mác vừa la hét vừa nhảy điệu kangkurang, đá túi bụi lùa khỏi làng.
Chẳng bao lâu, trống tubalô thì thùm báo hiệu mở đầu mùa gặt mới. Kunta hoà vào với dân làng ở ngoài đồng. Nó hoan nghênh những ngày dài lao động cật lực vì điều đó khiến nó quá bận rộn và mệt nhọc không còn hơi sức đâu mà nghĩ nhiều về những gì đang chờ đợi trước mặt. Nhưng khi gặt xong và bắt đầu hội mùa, nó thấy mình không thể thích thú tận hưởng những thứ nhã nhạc, nhảy múa và chè chén linh đình như những người khác – như chính nó đã từng khoái chí tham dự trong bao lâu nay. Thực tế, cuộc vui càng tưng bừng rộn rã, nó càng trở nên khổ sở hơn, đến nỗi rốt cuộc, hầu như cả hai ngày cuối hội mùa, nó chỉ ngồi một mình trên bờ bôlông lấy đá ném thia lia trên mặt nước.
Vào cái đêm hôm trước ngày cuối cùng của hội mùa, Kunta đang lặng lẽ ăn nốt bữa cơm tối với lạc hầm trong lều của Binta, thì Ômôrô bước vào đăng sau nó. Liếc mắt nhìn, Kunta thoáng thấy bố giơ một cái gì trăng trắng lên và nó chưa kịp quay lại thì Ômôrô đã chụp một chiếc mũ dài thượt xuống, bịt kín đầu nó thật chắc. Nỗi kinh hoàng truyền khắp người Kunta khiến nó gần như tê dại đi. Nó cảm thấy bàn tay bố nắm chặt cánh tay trên nó, thúc nó đứng dậy và đi giật lùi đến lúc nó bị đẩy ngã ngồi xuống một chiếc ghế đẩu thấp. Kunta thấy sung sướng được ngồi, vì nó cảm thấy chân mình như tan thành nước và đầu nhẹ bỗng. Nó nghe thấy mình thở rốc từng hơi ngắn hụt, biết rằng nếu cố gắng cử động, nó sẽ bổ nhào khỏi ghế. Cho nên nó ngồi im phăng phắc, ráng làm quen với bóng tối. Đang cơn khiếp đảm, bóng tối dường như tăng gấp đôi. Trong khi môi trên nó cảm thấy hơi thở của chính mình vừa nóng vừa nhâm nhấp ướt bên trong cái mũ chùm, Kunta vụt nghĩ rằng chắc chắn trước kia một chiếc mũ như thế này đã từng chụp xuống đầu bố nó, cũng theo cách đó. Có thể nào Ômôrô lại cũng sợ hãi như vậy? Thậm chí Kunta không thể tưởng tượng được là bố nó lại hoảng hồn và nó cảm thấy xấu hổ đã làm nhục cho tộc họ Kintê đến thế.
Trong lều rất yên tĩnh. Vật lộn với cái sợ đang thắt ruột nó lại từng khúc, Kunta nhắm mắt và tập trung từng tế bào để nghe ngóng xem có gì xảy ra không. Nó tưởng chừng nghe thấy Binta đang đi loanh quanh, nhưng nó không dám chắc. Nó tự hỏi không biết Lamin đâu, và cả Xuoadu nữa, thằng cu này nếu có ở đây ắt phải đang vòi quấy ầm ĩ. Nó chỉ biết chắc một điều: cả Binta lẫn bất cứ ai khác sẽ không nói gì với nó, chứ kể chi đến chuyện nhấc cái mũ này khỏi đầu nó. Thế rồi Kunta nghĩ: nếu cái mũ được nhấc lên thật thì kinh khủng biết mấy, vì ai nấy sẽ thấy nó quả đang thực sự hoảng hốt đến nhường nào và, do đó, tỏ ra là một thiếu niên không xứng đáng nhập bọn với các bạn cùng lứa kafô đi rèn luyện trưởng thành.
Ngay cả những thằng bé vào cỡ Lamin cũng biết – vì Kunta đã nói cho nó hay - những gì đã xảy đến với bất kỳ đứa nào tỏ ra quá yếu đuối hoặc quá hèn nhát không dám chịu đựng cuộc rèn luyện biến các thiếu niên thành những nhà săn bắn, thành chiến binh, thành tu mi nam tử - tất cả trong vòng một thời gian mười hai tuần trăng. Giả sử như nó không đủ tư cách? Nó bèn nuốt ực nỗi sợ xuống, sực nhớ là đã được kể rằng đứa nào rớt lại không qua nổi đợt rèn luyện trưởng thành, sẽ bị coi là con nít suốt đời, dù rằng bề ngoài có thể y như người lớn. Mọi người sẽ lảng tránh nó và làng sẽ không bao giờ cho phép nó lấy vợ kẻo lại sinh ra những đứa trẻ giống như nó. Những trường hợp đáng buồn ấy – Kunta nghe nói – sớm muộn rồi thì cũng lỉnh đi khỏi làng để không bao giờ trở lại và ngay cả cha mẹ đẻ chúng, anh chị em chúng cũng sẽ không bao giờ nhắc đến chúng nữa. Kunta thử hình dung mình lẻn đi khỏi Jufurê như một con linh cẩu ghẻ, bị tất cả mọi người khinh rẻ, ý nghĩ đó thật quá khủng khiếp đối với tâm trí nó.
Sau một lát, Kunta nhận ra là mình đang lơ mơ nghe thấy tiếng trống và tiếng hò la của những người nhảy múa đằng xa. Thêm một quãng thời gian nữa trôi qua. Mấy giờ rồi nhỉ, nó tự hỏi. Nó đoán bây giờ phải đến giờ xutôba rồi, tức là giữa khoảng từ hoàng hôn đến bình minh, nhưng ít phút sau, nó nghe thấy tiếng alimamô the thé gọi dân làng cầu kinh xafo, có nghĩa là hai giờ trước nửa đêm. Tiếng nhạc dứt và Kunta biết rằng dân làng đã ngừng vui chơi và cánh đàn ông đang hối hả tới nhà thờ.
Kunta cứ ngồi thế cho đến lúc nó biết rằng việc cầu nguyện đã xong xuôi, nhưng nhạc không cử lại nữa. Nó lắng tai rất chăm chú, nhưng chỉ nghe thấy im lặng. Cuối cùng nó ngủ gật, hồi lâu sau mới giật mình thức giấc. Vẫn im ắng – và dưới cái mũ chụp, còn tối hơn cả một đêm không trăng. Sau cùng, nó dám chắc đã nghe loáng thoáng tiếng sủa sớm của linh cẩu. Nó biết cái giống linh cẩu bao giờ cũng sủa từng tiếng một trước khi bắt đầu gào rền liên tục cho đến lúc tinh mơ rạng đông, nghe xa vắng kỳ lạ.
Trong tuần hội mùa, Kunta biết trống tôbalô cất tiếng trầm vang ngay từ những tia sáng đầu tiên của rạng đông. Nó ngồi chờ điều đó xảy đến – chờ bất kỳ điều gì xảy đến. Nó cảm thấy cơn giận dữ nung nấu, lòng ngóng đợi tiếng trống tôbalô gióng lên vào bất cứ lúc nào, vậy mà chẳng thấy gì cả. Nó nghiến răng kèn kẹt và đợi thêm một lúc nữa. Thế rồi cuối cùng sau mấy lần lắc mình cho tỉnh, nó thiếp đi trong một một giấc ngủ chập chờn. Nó gần như bổ choàng khỏi thần xác khi, rốt cuộc, trống tôbalô vang lên thật. Dưới tấm vải chùm, hai má nó nóng bừng, bối rối vì nỗi đã ngủ thiếp đi.
Đã quen với bóng tối trong chiếc mũ chụp, Kunta gần như có thể trông thấy những hoạt động buổi sáng qua những âm thanh lọt vào tai nó – tiếng gà gáy, tiếng chó uôlô sủa, tiếng âm a của alimamô, tiếng chày của phụ nữ giã mạch kê làm bữa điểm tâm. Nó biết bài kinh buổi sáng này dâng lên Đức Ala, là để nguyện cầu cho thắng lợi của đợt rèn luyện trưởng thành sắp sửa bắt đầu. Nó nghe tiếng cử động trong lều và nó cảm thấy đó là Binta. Thật kỳ lạ, tuy không nhìn thấy được, nó vẫn biết đó là mẹ nó. Kunta tự hỏi, không biết Xitafa và những thằng bạn khác ra sao. Nó ngạc nhiên nhận ra rằng suốt đêm cho tới giờ, nó chưa một lần nào nghĩ đến bọn chúng. Nó tự nhủ chắc chắn chúng cũng qua một đêm dài đằng đẵng như bản thân nó.
Khi đàn kora và balafôn bắt đầu đánh rộn ràng bên ngoài lều, Kunta nghe tiếng người đi lại và trò chuyện, mỗi lúc một to. Rồi trống hoà vào cuộc huyên náo với tiết tấu đanh và sắc như dao cắt. Một lát sau, tim nó như ngừng đập khi cảm thấy có người nào đó bất thần lao vào trong lều. Chưa kịp định thần, nó đã bị nắm lấy cổ tay, kéo giật khỏi ghế một cách thô bạo và đẩy qua cửa lều ra ngoài, ngợp trong tiếng ồn ào đinh tai, nào trống nện gióng một, nào người la thét.
Những bàn tay, bàn chân đấm, đá nó. Một cách tuyệt vọng, Kunta nghĩ đến chuyện tìm kế chạy té đi, nhưng đúng lúc nó sắp sửa định làm thế, một bàn tay rắn chắc mà dịu dàng nắm lấy tay nó. Thở khò khè dưới chiếc mũ chụp, Kunta nhận ra rằng mình không bị đánh, đá nữa, rằng đột nhiên tiếng la thét của đám đông bặt đi. Không còn ở gần kề nữa. Nó đoán là người ta đã đi sang lều của một thằng khác và bàn tay dẫn dắt nó hẳn là tay của người nô lệ mà Ômôrô đã thuê như mọi người cha đều làm thế - để đưa đứa con trai bị chùm kín đầu của mình đến khu rèn luyện trưởng thành.
Tiếng hò la của đám đông rộ lên với một âm độ điên cuồng mỗi khi một thiếu niên khác bị lôi ra khỏi lều và Kunta mừng thầm là nó không phải nhìn thấy những người nhảy điệu kangkurang đang khoa giáo và phốc thật cao lên trên không với những động tác nhào lộn ghê sợ cơ hồ đến đông cả máu lại. Trống lớn, trống con – dường như là tất cả các trống trong làng – nện liên hồi trong khi người nô lệ dẫn Kunta mỗi lúc một nhanh qua những hàng người la hò hai bên nó, kêu lên những câu như “Bốn tuần trăng!” “Chúng sẽ trở thành những đấng tu mi nam tử!” Kunta muốn oà lên khóc. Nó cuồng nhiệt ước có thể với tay ra, chạm vào người Ômôrô, Binta, Lamin – thậm chí cả thằng cu Xuoađu khóc nhè nữa – bởi vì nó cảm thấy sắp sửa phải qua bốn tuần trăng đằng đẵng trước khi gặp lại những con người nó yêu thương tới mức mà cho tới nay, nó chưa bao giờ ý thức được đầy đủ, đó quả là điều quá sức chịu đựng. Tai Kunta mách cho nó biết rằng nó và người dẫn đường đã nhập vào một hàng người chuyển động, tất cả đều bước theo nhịp trống gấp gấp. Khi đi qua cổng làng – nó biết thế vì tiếng ồn ào của đám đông bắt đầu ắng dần – nó cảm thấy những giọt nước mắt nóng hổi dâng lên và chảy xuống hai gò má. Nó nhắm nghiền mắt lại như để chính bản thân nó khỏi trông thấy những giọt lệ ấy.
Cũng như lúc nãy nó đã từng cảm thấy sự có mặt của Binta trong lều, giờ đây nó cảm thấy nỗi sợ của các bạn đồng tuế với nó – gần như thể nỗi sợ ấy có mùi vậy đằng trước đằng sau nó trong hàng người và nó biết chúng cũng sợ không kém gì mình. Cách nào đó, điều này làm cho nó cảm thấy bớt xấu hổ. Trong khi hì hụi đi, trong cái mù loà mầu trắng của chiếc mũ chùm đầu, nó biết rằng nó đang để lại sau lưng hơn cả bố mẹ và các em nó và làng quê chôn nhau cắt rốn của nó, và điều đó khiến lòng nó tràn đầy u buồn cũng như khiếp hãi. Nhưng nó biết là cần phải làm thế, như cha nó đã từng làm thế, trước nó và một ngày kia, con trai nó cũng sẽ làm thế. Nó sẽ trở về, nhưng chỉ khi nào thành một trang nam nhi thật sự.

Truyện Cội Rễ LỜI NHÀ XUẤT BẢN ng an lạc của nhóm tuỳ thuộc ở mỗi đứa chúng nó – cũng như hạnh phúc của bộ lạc sẽ tùy thuộc vào mỗi đứa chúng nó, một ngày kia. Vi phạm quy tắc giảm dần xuống tới mức chỉ còn là một thiếu sót năm thì mười hoạ và cùng với việc đánh đập bớt đi, nỗi sợ đối với kintangô dần dần được thay thế bằng một niềm kính trọng mà trước đây chúng chỉ cảm thấy đối với cha mình.
Nhưng ít có ngày qua đi mà không xảy ra điều mới lạ khiến Kunta cùng các bạn lại cảm thấy mình vụng về và dốt nát. Chẳng hạn, chúng lấy làm ngạc nhiên khi được biết một miếng vải gấp và treo theo kiểu nào đó gần lều một người đàn ông là tín hiệu thông báo ngày giờ anh ta dự định trở về, hoặc những chiếc dép xếp chéo nhau theo kiểu nào đó ngoài một túp lều có thể nói lên nhiều điều mà chỉ những người đàn ông khác mới hiểu. Nhưng  điều bí mật mà Kunta thấy là đặc sắc hơn cả, là tiếng xirakangô, một kiểu hội thoại của đàn ông trong đó âm của các từ ngữ Manđinka được biến đổi đi sao cho đàn bà, trẻ con hoặc những người không thuộc bộ tộc Manđinka, không tài nào hiểu được. Kunta nhớ lại những lần nó nghe thấy cha nó nói rất nhanh với một người đàn ông khác những điều gì mà nó không hiểu và cũng chẳng dám yêu cầu giải thích. Bây giờ bản thân nó đã học được, chẳng bao lâu nó cùng các bạn sẽ nói được hầu hết những điều mà cha anh chúng nói bằng thứ thoại ngữ bí mật của đàn ông.
Ở tất cả các lều, cứ mỗi một tuần trăng qua đi, bọn trẻ lại bỏ thêm một hòn đá vào một cái bát để đánh dấu thời gian chúng đi xa khỏi Jufurê đã được bao lâu. Mấy ngày sau khi hòn đá thứ ba được bỏ vào bát, một buổi chiều, bọn trẻ đang đánh vật trong khu rào, đột nhiên chúng nhìn về phía cổng trại và thấy sừng sững đứng đó một toán từ hai mươi lăm đến ba mươi người đàn ông. Đám thiếu niên há hốc miệng thở hổn hển khi nhận ra đó là bố chúng, các chú các bác và các anh lớn chúng. Kunta nhẩy bật lên, không thể tin ở mắt mình, niềm vui như một mũi tên xuyên suốt người nó khi nhìn thấy Ômôrô lần đầu tiên sau ba tuần trăng. Song hình như có một bàn tay vô hình nào đó giữ nó lại và dập tắt một tiếng kêu mừng rỡ, ngay cả trước khi nó thấy mặt bố nó không lộ vẻ gì là nhận ra con trai của mình.
Chỉ có một thằng lao ra, kêu tên bố, và chẳng nói chẳng rằng, ông bố đó với lấy chiếc roi của người phụ tá kintangô đứng gần mình nhất, vừa quật thằng con vừa nghiêm khắc quát mắng nó về tội đã phơi bày nỗi xúc động của mình, tỏ ra vẫn còn là một thằng bé. Trong khi đánh những nhát roi cuối cùng, người đó cảnh cáo thêm thằng con trai một cách không cần thiết rằng nó đừng có hy vọng được bố ưu đãi. Rồi đích thân kintangô hô một mệnh lệnh cho toàn thể lứa kafô nằm sấp bụng xuống thành một hàng và tất cả những người khách đi dọc theo hàng đó, lấy gậy đi đường của mình quất xuống những cái mông chổng lên. Lòng Kunta xáo lộn cả lên, nó không phản đối chuyện đánh đòn vì biết đó chỉ là một kỷ luật nghiệt ngã khác của việc rèn luyện trưởng thành, song nó đau đớn không được ôm ghì lấy bố thậm chí nghe tiếng bố nói, đồng thời lại thấy hổ thẹn vì nó biết rằng ngay cả việc mong muốn những nuông chiều ấy cũng không phù hợp với khí phách nam nhi.
Xong mục đánh đòn, kintangô hạ lệnh cho bọn trẻ chạy, nhảy, múa, vật nhau, cầu nguyện như chúng đã được dạy, và đám phụ huynh lặng lẽ theo dõi tất cả, rồi nhiệt liệt ca ngợi kintangô cùng các phụ tá vừa ra về không buồn ngoái lại nhìn bọn trẻ đứng ngẩn ra, mặt ỉu xìu. Trong giờ ấy, chúng còn bị đánh một trận nữa vì dỗi không chịu chuẩn bị bữa ăn tối. Chúng càng bất bình hơn vì nỗi kintangô và các phụ tá làm như không hề có ai đến thăm cả. Nhưng quãng đầu đêm hôm ấy, trong khi bọn trẻ đánh vật trước giờ đi ngủ - lúc này chỉ miễn cưỡng thôi – một phụ tá của kintangô đi ngang qua chỗ Kunta và đột nhiên thì thào nói với nó: “Mày có một thằng em mới đẻ, tên là Mađi”.
Bây giờ, chúng mình có bốn đứa, Kunta nghĩ bụng, đêm ấy nó thức khuya hơn. Bốn anh em – bốn con trai cho bố mẹ nó. Nó ngẫm nghĩ không biết trong tương lai hàng trăm vụ mưa sau, khi các graiốt kể lại lịch sử gia đình Kintê, chuyện đó sẽ gợi lên âm hưởng như thế nào. Sau Ômôrô – Kunta nghĩ – nó sẽ là người đàn ông đầu tiên trong gia đình khi nó trở lại Jufurê. Không những nó đang học để trở thành một người đàn ông, mà nó còn học rất nhiều điều mà nó có thể dạy lại cho Lamin, như nó đã từng dạy thằng em bao nhiêu điều về tuổi niên thiếu. Chí ít, nó cũng sẽ dạy Lamin những gì mà bọn thiếu niên được phép biết, rồi Lamin sẽ dạy cho Xuoađu và Xuoađu lại dạy lại thàng em mới tên Mađi này mà Kunta còn chưa biết mặt. Và một ngày kia Kunta vừa nghĩ vừa chìm dần vào giấc ngủ - khi đến tuổi Ômôrô, nó sẽ có những đứa con trai của chính mình, và mọi sự lại bắt đầu như thế.
 
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy: nhan ngan han, MrTranK4A, blueberry, um-um (thuthao), cnguyen (chinh nguyen), ynguyen, picicrazy, luklak.
Kiểm tra chính tả: nhan ngan han, yendieu.
Nguồn: www.thuvien-ebook.com
NXB: TÁC PHẨM MỚI – 1985
Được bạn: Ct.ly đưa lên
vào ngày: 30 tháng 4 năm 2011

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--