Dịch giả: Phan Minh Hồng - Mai Thái Lộc
Chương IX

Mary đan vớ cho cha. Người hơi nghiêng về phía trước, gương mặt xanh xao, đôi mắt nàng nhìn đăm đăm vào hai cây kim dài bằng thép sáng lấp lánh trong những ngón tay nhanh nhẹn và phát ra những tiếng kêu "clic clic". Mấy ngày qua, hình như nàng chỉ nghe thấy tiếng kêu đó, vì trong mọi giờ rảnh, nàng đều dùng để đan vớ. Mẹ nói rằng, vì quỷ sứ sẵn sàng đem việc làm đến cho những bàn tay ở không, nên Mary phải bắt tay làm việc, và bà ra chỉ tiêu mỗi tuần một đôi vớ. Và đây là đôi vớ thứ sáu.
 
Bà cụ Brodie trông chừng nàng, đôi môi mím chặt như thể chúng bị may kín lại. Bà ngồi, bàn chân đánh nhịp cho những âm thanh "clic, clic", không nói gì cả, nhưng mắt không rời Mary, vẻ mặt bí hiểm như đang nghĩ đến đủ mọi chuyện mà không ai có thể đoán ra được. Lắm khi Mary tưởng tượng cặp mắt mờ đục, đầy ghèn của bà đâm xuyên qua người nàng đầy vẻ nghi ngờ và trả thù, và khi mắt hai người gặp nhau, những con ngươi khắc nghiệt của bà cụ lóe lên một ánh sáng thù nghịch. Từ ít lâu nay, nàng có cảm giác những cái nhìn của bà giống như những cái nhìn của một mụ phù thủy cổ xưa, đã ếm bùa khiến nàng cử động không ngừng.
 
Đối với bà cụ, đó là trò giải trí thích thú và cũng là bổn phận của bà cụ trong suốt sáu tuần nay. Bà lắc đầu nhè nhẹ, nhớ đến buổi trưa con trai bà về với cánh tay băng bó và gương mặt tối sầm như bóng đêm, rồi bà nhớ lại buổi họp long trọng giữa Brodie và vợ ở đằng sau cánh cửa phòng khách được cài then kỹ lưỡng. Về vấn đề gì, bà không thể nào đoán được, nhưng chắc chắn đã có một tai họa lởn vởn trong không khí.
 
Nhiều ngày sau đó, bà còn thấy sự kinh hãi trên gương mặt của con dâu mình, đôi môi bà đã run lên khi con dâu bà giao cho bà làm phụ tá để canh chừng Mary bằng một câu nói giản dị:
- Mary bị cấm không cho ra khỏi nhà, không được đi một bước ra ngoài cổng chính!
 
Đó là lệnh "Mary bị cầm tù", chỉ thế thôi, và bà là người giữ ngục. Đằng sau bộ mặt lạnh lùng của bà, bà thích thú với ý nghĩ này, với sự trừng phạt dành cho Mary. Bà không bao giờ thương cô cháu gái của mình và công việc này đem đến cho bà những khoái cảm mạnh mẽ nhất.
 
Những ý nghĩ của bà bị gián đoạn khi bà Brodie bước vào, đôi mắt tìm kiếm Mary.
- Con đã làm xong cái gót chưa? - bà hỏi, giả vờ rất chú trọng đến công việc của Mary.
- Gần xong - Mary trả lời, khuôn mặt xanh xao vẫn luôn khép kín.
- Con làm khá nhanh đấy, chẳng bao lâu nữa, con sẽ cung cấp cho cha con những đôi vớ trong mùa đông.
- Con có thể đi ra ngoài một chút có được không?
 
Bà Brodie làm bộ liếc nhìn qua cửa sổ:
- Trời mưa như trút, Mary. Khi Nessie trở về, có lẽ trời sẽ hết mưa và con có thể dẫn nó đi dạo một vòng ở sau nhà.
 
Bà không phải là một người khôn khéo; thi hành theo ý muốn của Brodie, bà giam Mary trong sáu tuần lễ, mà mỗi tuần đối với nàng như một năm, và một năm với những ngày thật dài, dài vô tận. Bây giờ, tinh thần nàng đã sa sút, đã quá kiệt quệ khiến nàng tưởng mình bắt buộc phải xin phép để làm bất cứ điều gì, dù là nhỏ nhất.
- Vậy con có thể lên phòng con một chút không?
- Dĩ nhiên. Và nếu muốn đọc sách, con cầm lấy cuốn này.
 
Và trong khi con gái bà chậm chạp bước ra, bà trao cho cô một cuốn sách gồm những bài thuyết giáo. Khi cửa phòng Mary đóng lại, hai người đàn bà còn lại nhìn nhau và mẹ gật đầu. Bà nội liền đứng dậy ngay lập tức, đi khập khiễng vào phòng khách, ngồi xuống trước cửa sổ, từ nơi đó bà có thể trông thấy bất cứ ai đi ra khỏi nhà. Sự canh gác nghiêm ngặt do bà Brodie ra lệnh được tiến hành không ngừng. Tuy nhiên chỉ một phút sau, một ý nghĩ khác lại đến với bà Brodie, kéo chiếc váy lên, bà bước lên cầu thang và đi vào phòng con gái, quyết định nói với nó "một lời nói tốt".
- Mẹ lên đây chơi và nói chuyện với con một chút. Mẹ không thể nói chuyện với con từ một, hai ngày nay - Bà nói một cách vui vẻ.
- Thưa mẹ, vâng.
Bà Brodie nhìn con gái bằng một cặp mắt dò xét.
- Con đã trông thấy "ánh sáng" chưa? - bà hỏi một cách dịu dàng.
 
Mary biết ngay điều gì đang chờ đợi nàng, nàng sắp phải chịu đựng một trong các buổi thuyết giáo do bà đặt ra gần đây. Những bài giáo thuyết lúc đầu đã làm nàng phải khóc lên hay phải phẫn nộ, không hề đem đến cho nàng một lợi ích tinh thần nào cả.
 
Không cần tìm đâu ra nguyên nhân của chúng. Sau buổi họp dữ dội trong phòng khách, Brodie đã gầm lên với vợ:
- Nó là con gái của bà. Chính bà phải khắc sâu vào trong trí não của nó ý thức biết vâng lời. Nếu không, lưng của nó sẽ bầm tím và lưng của bà cũng vậy!
- Bây giờ con đã cảm thấy mình vững vàng như một tảng đá chưa, Mary? - người mẹ nói tiếp một cách nghiêm trọng.
- Con không biết - cô gái trả lời bằng một giọng ảo não.
- "Mẹ thấy rằng con chưa đạt được kết quả đó", bà thở dài, "Cha con và mẹ sẽ vui lòng biết bao, nếu con có lòng tin nơi Chúa hơn, nhiều khôn ngoan hơn và biết vâng lời cha mẹ hơn". Bà nắm lấy bàn tay bất động của Mary. "Cuộc đời rất ngắn ngủi, con yêu của mẹ, con không phải không biết điều đó. Nếu chúng ta bị gọi bất ngờ đến trước ngai của Chúa trong tình trạng tội lỗi… Lúc đó thì sao? Không còn chỗ cho sự ăn năn nữa. Ôi, mẹ muốn con thấy được sự sai lầm của con. Thật khổ tâm cho mẹ khi phải nghe lời cha con trách mắng vì cái vẻ cứng rắn, lì  lợm luôn luôn thấy ở con… như thể con là một tảng băng. Ôi, mẹ sẽ làm bất cứ điều gì. Mẹ sẽ yêu cầu cả vị mục sư Scott đến nói chuyện với con lúc cha con đi vắng. Hôm trước mẹ có đọc một quyển sách, kể lại câu chuyện một người đàn bà lầm đường thình lình trông thấy ánh sáng nhờ một mục sư của Chúa".
 
Bà buông một tiếng thở dài thê thảm, và sau một lúc im lặng đầy xúc động, bà nói:
- Hãy cho biết con có gì trong lòng?
- Thưa mẹ, con ước muốn mẹ để cho con yên một chút. Con không được khỏe lắm - Mary nói  nhỏ.
- Vậy con không cần đến mẹ, và cũng không cần đến Đấng tối cao? - Mẹ vừa nói vừa hít mũi.
 
Mary nhìn bà với một cái nhìn bi đát, nàng thấy rõ tất cả sự yếu đuối, sự kém khả năng và sự bất lực của mẹ mình. Ngay từ buổi đầu, nàng đã ao ước có một người mẹ mà nàng có thể nương tựa và gửi lời gọi thiết tha: "Mẹ ơi, mẹ là nơi con ẩn trú mỗi khi con buồn. Hãy an ủi con và giải thoát cho con khỏi sự đau thương. Hãy bao bọc con trong tấm áo choàng che chở của mẹ và bảo vệ con chống lại mọi điều bất hạnh".
 
Nhưng than ôi! Mẹ nàng không phải là người mẹ đó. Bà không có ý chí rõ ràng, chỉ phản ánh ý muốn của người khác, mạnh hơn bà. Chính bài giáo thuyết đầy tính cách luân lý này cũng chỉ là tiếng vọng của sự đòi hỏi khắc nghiệt của Brodie. Đối với bà, chỉ có một khối đá: Đó là quyền lực của chồng, cứng rắn như kim cương. Sẽ khốn khổ cho bà, nếu bà không phục tùng!
 
Bà là một tín đồ Cơ đốc giáo và với tất cả niềm tin đáng kính, đi nhà thờ đều đặn mỗi sáng chủ nhật, thỉnh thoảng tham dự một cuộc họp sùng đạo buổi chiều, kết án dùng những tiếng thô tục. Phần khác, khi để giải trí, bà đọc một cuốn tiểu thuyết, bao giờ cũng là một trong những quyển sách lành mạnh, kết thúc rất có hậu. Nữ nhân vật chính đầy đức hạnh, luôn có một ông chồng sùng đạo và duyên dáng. Tuy nhiên, bà không thể bảo vệ con gái bà trong cơn khủng hoảng này, cũng như bà không thể đương đầu được với cơn giận dữ của Brodie.
 
Tất cả những điều này, Mary đều hiểu rõ.
- Vậy con không muốn thổ lộ tâm sự của con cho mẹ sao, Mary? Mẹ muốn biết những gì xảy ra trong cái trán bướng bỉnh này.
Bà luôn luôn lo sợ con gái bà có thể bí mật trù tính một hành động nào đó sẽ gây ra cơn giận dữ ghê gớm hơn cho Brodie.
- Con không có gì để nói hết, thưa mẹ. Không có gì để tâm sự với mẹ hết - Mary trả lời một cách buồn bã.
 
Nàng chắc chắn rằng nếu nàng toan thử thú nhận sự việc thì bà sẽ chận nàng lại với một tiếng la phản đối xé tai và sẽ chạy trốn, vừa bịt tai lại: "Không, không, đừng nói gì với mẹ hết, đừng nói một tiếng nào nữa. Mẹ không muốn nghe con nói, thô tục quá!". Mary như thể đã nghe và đã thấy điều đó, nàng lặp lại một cách cay đắng:
- Không, con hoàn toàn không có gì để nói với mẹ cả.
- Nhưng chắc chắn con có một ý nghĩ trong đầu, nhìn vẻ mặt của con, mẹ biết như vậy…
- "Một đôi khi", Mary nói, nhìn thẳng vào mặt mẹ, "con nghĩ rằng con sẽ sung sướng được rời bỏ cái nhà này và không bao giờ trở lại nữa".
 
Giọng nàng đầy đau đớn - Bà Brodie sợ hãi kêu lên:
- Mary, con nói gì vậy? Đáng lẽ con phải biết ơn vì đã có một mái nhà như vậy. May mắn là cha con không nghe con nói, ông ấy sẽ không bao giờ tha thứ cho một sự bội ơn như vậy đâu.
- "Sao mẹ có thể nói như vậy được?" - Mary nổi nóng kêu lên. "Mẹ cũng phải cảm thấy như con đây đâu phải là một cái nhà. Mẹ không thấy nó đè bẹp chúng ta sao? Nó như một phần ý chí ghê gớm của cha, mẹ đừng quên là con đã không ra khỏi nơi đây từ sáu tuần lễ nay, và con… Ôi, con hoàn toàn kiệt quệ", nàng khóc nức nở.
Bà Brodie xem những giọt nước mắt này là bằng chứng của sự phục tùng làm bà thỏa mãn.
- Đừng khóc nữa, Mary… Đáng lẽ con phải hối tiếc khi nói những điều điên rồ như vậy đối với ngôi nhà mà cha con đã xây cất nó. Tất cả mọi người ở Levenford đều nói đến nó.
- Phải, và họ cũng nói về chúng ta nữa, chúng ta không phải là người như bao người khác, họ không xem chúng ta như những người bình thường.
- Mẹ nghĩ đúng như vậy - Chúng ta cao hơn bọn họ nhiều - Bà Brodie kêu lên một cách đắc ý.
- Ồ, mẹ! Mẹ không hiểu những gì con muốn nói. Cha đã in sâu những ý nghĩ của ông vào tâm trí mẹ bằng cách làm mẹ sợ hãi. Ông lôi chúng ta đến một thảm họa, ông giữ chúng ta xa lánh mọi người… Chúng ta không có bạn… Con như không bao giờ được làm người… Con đã bị chối từ tất cả.
- Và cha con đã làm đúng. Một cô gái phải được hoàn toàn nuôi dạy như thế. Đáng lẽ con phải kiềm chế nhiều hơn thế.
Mary nhìn đăm đăm vào khoảng không, đi đến tận cùng ý nghĩ cay đắng của mình và nói thì thầm:
- Con đã bị giam trong một nhà tù, trong bóng tối, và khi con thoát được ra ngoài, con đã chóng mặt và bị lạc đường.
Một vẻ tuyệt vọng cùng cực từ từ tràn ngập trên khắp gương mặt nàng:
- "Đừng nói lầm bầm như vậy" - Bà Brodie la lên một cách gay gắt, "nếu con không thể nói chuyện một cách đàng hoàng với mẹ, con hãy im đi. Thật là một ý tưởng kỳ cục: Đáng lẽ con phải biết ơn cha con và cả mẹ nữa vì đã chăm sóc đến con và giữ cho con khỏi làm điều bậy".
- Điều bậy? Con không hề làm điều gì bậy từ vài tuần lễ nay!
- Mary, Mary - Bà kêu lên bằng giọng trách móc -  con phải có trí óc sáng suốt hơn. Đừng trả lời bằng cái giọng giận hờn đó. Việc những thanh niên vô giáo dục chạy theo con đáng lẽ phải làm cho con đỏ mặt vì xấu hổ. Đáng lẽ con phải sung sướng được ở đây vì đã thoát khỏi bọn chúng. Đừng mang vẻ mặt quạu quọ đó!
Bà Brodie đứng lên, và trong khi đi ra cửa, bà nói bằng một giọng đầy ý nghĩa:
- Con hãy đọc những bài thuyết giáo đó. Chúng sẽ mang lại cho con những điều tốt đẹp hơn mọi lời phóng túng mà con từng nghe được ở bên ngoài.
Nói xong bà bước ra và đóng cửa lại với một sự dịu dàng hòa hợp với những tư tưởng sùng đạo đang tràn ngập trong tâm trí bà. Mary không đụng đến quyển sách, nàng nhìn một vẻ tuyệt vọng qua cửa sổ. Từng đám mây nặng nề che phủ bầu trời, làm cho đêm tối xuống nhanh. Một cơn mưa nhỏ triền miên làm mờ cửa kính, không một làn gió, ba cây phong bạc trơ trụi lá, đứng lặng yên trong cơn mưa mù mịt và u buồn. Ít lâu nay, nàng chỉ còn có chúng là bạn, đã từng ngồi đếm từng chiếc lá vàng rơi mỗi chiều. Lá rơi bay lượn một cách buồn bã, chậm chạp như một niềm hy vọng đã bị mất, và theo từng chiếc lá rơi, nàng vơi đi một ít niềm tin. Ba cây phong đứng đó tượng trưng cho nàng và cho tới khi nào chúng còn thở bằng chiếc lá xanh của chúng, thì nàng hãy còn hy vọng… Nhưng chiếc lá cuối cùng đã rụng, và chiều nay chúng cũng như nàng, hoàn toàn trơ trụi, bao phủ trong lớp sương mù lạnh lẽo, ủ rũ trong nỗi thất vọng sâu xa.
Đứa con nàng đang sống trong lòng nàng. Nàng đã cảm thấy nó động đậy với một sự sống mỗi lúc một rõ rệt, đứa con mà không ai - ngoài Denis và nàng - ngờ đến sự hiện hữu. Bí mật chưa lộ ra, lúc đầu chỉ sợ không dễ dàng gì giấu, nhưng bây giờ nó không còn làm nàng suy nghĩ đến nữa, tâm trí nàng bị thu hút bởi một ý tưởng nghiêm trọng và ghê gớm hơn nhiều.
Tuy nhiên, trong khi ngồi im lìm bên cửa sổ, Mary nhớ lại lúc nhận ra cử động đầu tiên của đứa bé, nàng đã cảm thấy không phải là một cơn xúc động kinh sợ, mà là một niềm khát vọng cao cả. Một ánh sáng bất ngờ đã soi sáng những phần tối tăm của tâm trí nàng và nỗi ao ước nồng nhiệt về đứa bé xâm chiếm lấy nàng. Chính điều ao ước này đã khiến nàng có thêm can đảm trong những giờ đen tối, đã giúp nàng chịu đựng một cách dũng cảm tai họa gần đây. Nàng hiểu rằng, bây giờ nàng phải đau khổ vì đứa con, nhưng đó là lúc nàng còn tin tưởng nơi Denis.
Nàng đã không gặp lại chàng sau buổi xế trưa đó. Bị nhốt trong nhà sáu tuần lễ vô tận, đôi khi nàng tưởng đã trông thấy hình bóng chàng đang dò la gần ngôi nhà, nhiều khi ban đêm nàng cảm thấy có sự hiện diện của chàng kế bên nhà, một lần nàng đã giật mình thức dậy, thốt lên một tiếng kêu khi nghe một tiếng gõ yếu ớt vào cánh cửa sổ. Nhưng bây giờ nàng hiểu rõ, đó chỉ là ảo tưởng gây ra bởi trí tưởng tượng bị rối loạn của nàng, và sau cùng, nàng tin rằng chàng đã bỏ nàng.
Nàng ước muốn cho đêm mau đến để được ngủ. Lúc đầu nàng không thể ngủ được, sau đó, lạ lùng thay, nàng ngủ thật say với những giấc mộng tuyệt đẹp, đầy hạnh phúc diệu kỳ. Trong giấc mơ đó, bao giờ nàng cũng thấy mình ở bên cạnh Denis, trong những khung cảnh thần tiên, cùng chàng viếng thăm các xứ sở rực rỡ ánh mặt trời, các thành phố cổ xưa, và giao thiệp với những con người vui vẻ, nếm những món ăn ngoại quốc kỳ lạ. Những cảnh tượng thú vị này - một điềm lành cho tương lai - lúc đầu đã làm cho nàng vui thích và yên tâm, nhưng bây giờ đã hết rồi… Nàng không còn tìm kiếm những hình ảnh hư ảo nữa. Điều nàng ước muốn đó là một giấc ngủ không mộng mị, nàng đã quyết định tự sát; nàng nhớ lại rõ ràng những lời đã nói ở nhà ga Darroch.
Nàng đã giấu trong phòng mình một gói tinh thể acid clohidric lấy ở phòng bếp phụ. Đêm nay, nàng sẽ ngủ như thường lệ và ngày mai người ta sẽ thấy nàng đã chết. Đứa bé trong bụng nàng cũng sẽ chết nhưng đó là điều hay nhất có thể xảy đến cho nó. Người ta sẽ chôn nàng cùng với con nàng trong lòng đất và tất cả sẽ chấm dứt. Nàng đứng lên mở một ngăn kéo. Ừ, cái gói vẫn còn đó. Bằng những ngón tay không một chút run rẩy, nàng mở gói giấy ra và nhìn.
"Thật lạ lùng!", Mary tự nói với mình như cái máy, "Những tinh thể có vẻ hiền lành này lại có thể giết người!".
Nhưng đối với nàng, nó không phải là một mối đe dọa, mà là một sự cứu giúp; chúng sẽ giúp nàng thoát khỏi sự tuyệt vọng, và nuốt chửng nó có nghĩa là uống những giọt đắng cuối cùng của cuộc đời.
Mary đặt cái gói vào chỗ cũ, đóng ngăn kéo lại và trở về ngồi đan bên cửa sổ. Tối nay, nàng sẽ đan xong chiếc vớ cho cha. Nghĩ đến ông, nàng không còn cảm thấy một chút ác cảm nào. Tất cả những tình cảm của nàng đều đã chết hết rồi. Suốt sáu tuần lễ, ông không bao giờ nói chuyện với nàng, cánh tay ông đã lành. Cuộc sống của ông vẫn trôi đều đều, không thay đổi gì hết. Ngay cả nếu nàng có chết đi, cũng vẫn sự đều đặn bất di bất dịch đó, vẫn cái vẻ lãnh đạm đầy kiêu căng hợm hĩnh đó, hết vuốt ve xoa dịu bởi những sự xu nịnh và sự phục tùng đầy tính cách nô lệ của vợ ông.
Mary dừng tay đan một lát để nhìn qua cửa sổ. Nessie đi học về. Nàng cảm thấy thương hại đứa bé có tâm hồn nhạy cảm và xúc động ngay lần đầu trông thấy nàng đau khổ. Nàng sẽ rời nó một cách luyến tiếc. Tội nghiệp cho Nessie, nó sẽ cô độc biết bao nhiêu.
Nhưng lạ thay, cô bé không vượt qua cổng rào mà dừng lại trong bóng tối và ra các dấu hiệu đặc biệt. Đó không phải là Nessie mà là một đứa bé khác đang đứng dưới cơn mưa, giơ cánh tay lên không khí với một ý định bí mật. Mary chăm chú nhìn nó nhưng nó ngưng ra dấu và bỏ đi. Lúc đó, hai người lớn xuất hiện và đi qua, để lại con đường vắng lặng và tối tăm như trước. Mary buông một tiếng thở dài, mối hy vọng mơ hồ vừa nảy sinh trong lòng nàng liền tan mất, và nàng đưa hai bàn tay lên che mắt, không nói một lời.
Khi buông tay ra, Mary trông thấy ngay con bé đang ra hiệu, mạnh mẽ hơn và thúc bách hơn. Nàng mở to mắt, không hiểu, rồi tin chắc rằng mình là nạn nhân của một ảo giác lạ lùng nào đó và hiện tượng này đã biến mất một cách đột ngột như lúc nó xuất hiện, nàng mở cửa sổ một cách chậm chạp, không tin tưởng và nhìn ra. Lập tức, từ trong bóng tối phóng lên một vật tròn, được ném với một tài khéo léo, vật ấy trúng vào vai và rơi xuống gần chân nàng, đồng thời con đường trở nên vắng tanh, không một bóng người. Như cái máy, Mary đóng cửa sổ lại và ngồi xuống nhìn kỹ vật đó: một quả táo.
Nàng cúi xuống lượm lên. Quả táo trơn mịn và ấm áp như thể đã được cầm rất lâu trong một bàn tay, và trong khi sờ mó nó, nàng nhận ra đó là một quả táo và liền đó, một câu nói của Denis trở lại trong trí nhớ của nàng: "Gia đình anh rất thích ăn táo, trong nhà luôn luôn có một giỏ táo".
Nàng bèn xem xét quả táo kỹ lưỡng hơn. Với sự ngạc nhiên và xúc động mỗi lúc một lớn, nàng khám phá ra một đường cắt mỏng chạy vòng quanh nó, Mary rứt mạnh cuống táo đã khô và lấy ra một cách dễ dàng một phần quả táo để lộ cái ruột rỗng trong đó được nhét một tờ giấy "pơ luya".
Đôi má nàng ửng lên, nóng bừng rồi tái nhợt. Những ngón tay vội vã, run rẩy mở tờ giấy mỏng ra. Quả tim của nàng gần như muốn ngừng đập… Là thư của Denis. Chàng đã viết thư! Chàng không bỏ nàng! Mary dán chặt đôi mắt hãy còn nghi ngờ và sợ hãi vào lá thư đến vừa đúng lúc, như mệnh lệnh hoãn thi hành bản án. Nàng đọc ngấu nghiến lá thư được viết cách đây mười lăm ngày với những lời lẽ thật nồng nàn. Một niềm vui mạnh mẽ tràn ngập. Nó như ánh sáng rực rỡ chiếu vào lòng nàng, sưởi ấm trái tim tưởng đã băng giá. Nàng đã điên rồ khi nghi ngờ chàng. Đó là Denis. Denis của nàng và chàng yêu nàng.
Chàng đã cố gắng  hết sức mình để gặp nàng, đã tìm cách gởi đến nàng một lá thư qua cửa sổ. Mary hiểu rằng trước đây nàng đã có lý khi cảm thấy sự hiện diện của chàng ở gần đâu đây, nhưng tiếng kêu sợ hãi ngu ngốc của nàng đã xua đuổi chàng. Song lúc này, điều đó không quan trọng gì trước những tin tức tuyệt diệu ấy. Trái tim nàng đập mạnh khi đọc thấy chữ "đã thuê xong nhà". Một ngôi nhà nông thôn ở Garshake! Họ sẽ đến đấy vào ngày một tây tháng Giêng. Nó có tên là Vườn Hồng; về mùa hè, đó là một giàn hoa hồng, và mùa đông, là nơi trú ẩn ấm cúng. Chàng đã làm tất cả những gì trong khả năng của chàng, Mary xúc động vô cùng vì những cố gắng đó. Chàng đã làm việc thật hăng say, đã tìm cách gặp nàng tại nhà, nếu kế hoạch đó không bị chặn lại. Họ cần phải có một mái nhà và từ đây đến đó chàng cần phải thận trọng. Còn nàng, nàng cần phải chờ đợi một thời gian ngắn nữa, cho đến khi xong chuyến du hành chót của chàng trong năm. Lúc đó chàng sẽ đem nàng đi theo chàng, mãi mãi chăm sóc nàng, bảo đảm cho nàng một cuộc sống sung túc và an toàn. Đôi mắt Mary ướt đẫm những giọt lệ hạnh phúc khi đọc những lời hẹn ước yêu thương này.
Đọc xong lá thư, Mary ngồi im lìm một lúc lâu, như thể cái hạnh phúc bất ngờ đã làm cho nàng sững sờ đến cứng đơ như một pho tượng bằng đá. Rồi dần dần, máu huyết nàng chuyển động mạnh mẽ, như được đẩy bởi những dòng chữ trong thư, gương mặt lấy lại màu sắc của sự sống, đôi mắt sáng rực, đôi môi hé mở một cách dịu dàng. Những tiếng đập rộn rã của trái tim là một điệu nhạc đầy hoan lạc, hai bàn tay xanh xao đang cầm lá thư trở nên linh hoạt. Những ngón tay nhanh nhẹn viết vội vã sau mặt tờ giấy.
Đó là vài hàng ngắn gọn, báo tin nàng vẫn mạnh khỏe và rất sung sướng nhận được tin chàng. Nàng không nói đến những đau khổ tinh thần mà nàng đã chịu đựng. Nàng hứa sẽ sẵn sàng ở lại ngôi nhà này để chờ đợi chàng, miễn là chàng sẽ đến với nàng vào tháng Chạp.
Mary không có thì giờ viết nhiều, bởi vì trước nhà, trong những tia sáng cuối cùng của buổi chiều, nàng thoáng thấy hình dáng của đứa bé đang đưa đôi mắt lo lắng nhìn lên cửa sổ. Đó chỉ có thể là Rose, cô em gái tận tâm mà chàng đã có dịp nói tới. Nàng cầu cho nó được phước lành. Đặt mảnh giấy vào quả táo rỗng, mở cửa sổ ra và ném trở xuống. Mary trông thấy quả táo bay trong không khí, và tưng lên hai lần trên con đường trước khi dừng lại. Nàng mơ hồ trông thấy Rose chạy theo lượm nó lên, rút lá thư đút vào túi, vẫy tay với vẻ chiến thắng, rồi vừa chạy vừa ăn quả táo bị bầm dập. Mary rùng mình thán phục nhìn theo hình dáng bé nhỏ của nó xa dần, bước đi một cách mạnh dạn với cùng vẻ bất khuất, cùng một vẻ nhanh nhẹn, can đảm như Denis. Một kỉ niệm làm nàng mỉm cười xúc động, nàng nhớ lại lối chơi dương cầm cẩu thả của Rose. Thật điên rồ nếu đánh giá cô bé đưa thư dũng cảm đó theo lối đánh đàn của nó!
Mary đứng dậy, vươn mình một cách thích thú, giơ hai cánh tay lên đầu trong một tư thế hít vào, và đầu ngửa ra sau, mắt nhìn lên trời, gương mặt biểu lộ niềm biết ơn sâu xa. Nàng đã sống lại với một sức mạnh mới, chứa chan hy vọng. Và thình lình, khi buông hai cánh tay xuống, cho gân cốt giãn ra, nàng cảm thấy đói bụng. Từ nhiều tuần nay, nàng chỉ nếm vài thức ăn vô vị, nhạt nhẽo. Bây giờ, khi niềm tin trở về, nàng cảm thấy thèm ăn dữ dội.
Trong bụng nàng, đứa bé lại cử động, như để bày tỏ niềm biết ơn vì sự sống của nó được gia hạn.
Và, cảm thấy bất lực của lòng biết ơn này, nàng bỗng xúc động, tự trách mình một cách mạnh mẽ, bước đến ngăn kéo, lấy cái gói ra với vẻ ghê tởm rồi vội vã đi xuống. Khi ngang qua cánh cửa hé mở của phòng khách, nàng thấy bà nội đang ngủ gật, và vui mừng nghĩ rằng Rose đã không bị bắt gặp. Vào phòng bếp, nàng không để lại cái gói vào chỗ cũ mà trút nó vào buồng rửa chén và mở mạnh vòi nước. Sau đó thoát nợ, nàng pha cho mình một ly sữa, cắt một lát dày bánh pudding lạnh còn lại sau bữa ăn trưa và cắn nó một cách ngon lành. Nàng cảm thấy sữa thơm ngon như mật ong, tươi mát như tuyết. Nàng thích thú kéo dài bữa ăn, uống từng ngụm nhỏ và lượm hết những mẩu cuối cùng của lát bánh. Khi mẹ nàng bước vào, bà rất đỗi ngạc nhiên:
- Con đói bụng à? Mẹ ao ước được ăn vụng như con. Các bài thuyết giáo đã giúp cho con ăn ngon.
- Mẹ ăn bánh không?
- Không, mình sẽ hâm miếng bánh này vào ngày mai, con đừng lo cho mẹ.
Thái độ này của bà Brodie có ý muốn cho nàng biết rằng nàng đã tỏ ra ích kỉ khi ăn bánh, rằng tuy bà cũng muốn ăn nhưng bà đã hy sinh sự thỏa mãn cá nhân cho quyền lợi chung của gia đình. Mary có vẻ bối rối, ngượng ngùng; miếng ăn đầu tiên mà nàng có thể nuốt ngon lành từ nhiều tuần nay đã khiến cho nàng bị xem như một kẻ háu ăn.
- Mẹ rất vui mừng khi thấy con có tinh thần tốt hơn. Hãy giữ tình trạng đó trước mắt cha con tối nay. Mẹ muốn ông ta nhận thấy mẹ đã khuyên bảo con có kết quả.
Chợt có tiếng chân bước nhẹ nhàng ở phòng ngoài. Lần này đúng là Nessie, toàn thân ướt đẫm nước mưa. Con bé kêu lên:
- Con bị ướt hết trơn và con muốn ăn một lát bánh mì phết mứt!
Mẹ âu yếm nhìn nó:
- Con có đôi má tươi sáng quá, mẹ muốn các con gái của mẹ cô một nét mặt như vậy, chớ không phải cái vẻ mặt xanh xao bệnh hoạn.
Bà cho Nessie lát bánh mì phết bơ với những lát thìa là Ai Cập.
- Món thìa là ngon tuyệt! - con bé kêu lên - Và con đã không ăn cắp nó. Ồ, Mary, tối nay chị có vẻ khỏe hơn. Em rất mừng, rồi chị cũng sẽ mập như em.
Nessie nói cười, nhảy nhót vui vẻ.
- Con nói, con đã không ăn cắp nó, nghĩa là sao?
- "Thế này", Nessie nói với vẻ quan trọng, "Hồi xế trưa nay, ông thanh tra đến lớp con bắt trả bài thuộc lòng, và ai đứng nhất, mẹ biết không?"
- Ai vậy? - Bà Brodie hỏi
- Con - Con bé kêu lên, vừa vung miếng bánh trong tay.
- Cha con sẽ rất vui lòng, mẹ đảm bảo với con.
Và bà liếc mắt về Mary như thể nói: "Đó là loại con gái mà mẹ thích".
Sự thật, không phải bà hớn hở về sự thành công của Nessie, điều làm cho bà hân hoan là cái tin này sẽ làm cho vị chúa tể vui vẻ.
Mary nhìn Nessie một cách âu yếm, nghĩ rằng nàng suýt vĩnh viễn rời bỏ nó.
- Thật tuyệt vời! - Nàng nói, vừa thân ái đưa má vào mặt ướt nước mưa của em gái.