Dịch giả: HƯƠNG LAN
- 13 -
TRÒ ĐẤU TRÍ

Trong bữa ăn sáng ngày hôm sau, Charlie nhẹ cả người khi thấy Manfred vắng mặt ở bàn ăn.
“Cứ cuối tuần là anh ta ngủ trễ,” Billy nói với nó. “Anh ta thức đến nửa đêm. Đứng từ cửa sổ phòng tụi mình là thấy nến của Manfred thắp trong phòng.”
“Lúc ấy hắn làm gi?” Charlie thì thầm.
“Luyện tập ma thuật,” Olivia đáp lời, đảo tròn mắt.
Charlie nghĩ, rắc rồi là ở chỗ, dám Olivia nói đúng lắm.
“Vậy là hắn sẽ không theo dõi tụi mình nguyên buổi sáng hôm nay, phải không?” Nó hỏi.
“Không đâu,” Billy quả quyết với nó. “Dĩ nhiên là tụi mình vẫn cần phải lên phòng và làm bài. Tất cả sách vở sẽ được sắp sẵn cho tụi mình, với một tờ câu hỏi phải trả lời, nhưng tụi mình có thể trò chuyện, vẽ tranh hay làm bất cứ việc gì tùy thích, miễn là ở đó đến 12 giờ và làm xong các câu hỏi.”
Chúng theo nhau đến phòng Nhà Vua, ở đây, Charlie thấy một tờ câu hỏi cực kỳ lắc léo đang chờ nó. Làm chưa hết một nửa, bỗng nó sực nhớ đến Fidelio.
“Mình đã hứa phải đến tháp nhạc lúc mười một giờ rưỡi,” nó nói với hai đứa kia. “Fidelio sẽ đến để ra hiệu là anh ấy đã chuyển xong cái thùng.”
“Để tụi này ở đây lo cho,” Olivia sốt sắng đề nghị. “Và nếu đằng ấy chưa trả lời xong mấy câu hỏi, thì lúc quay về cứ cóp-pi bài làm của tớ.”
“Cám ơn nha,” Charlie đáp với lòng biết ơn. Nó nhớ ra là nó không biết đường đến tháp nhạc. Sẽ phải mất cả thế kỷ mới lần ra đường tới đó mất. “Fidelio nói bồ sẽ chỉ đường cho mình, nhưng nếu bồ mắc lo cho mình ở đây thì…”
“Để tớ vẽ bản đồ cho đằng ấy.” Olivia nói.
Cô bé nói là làm. Trong khi Charlie nhấp nha nhấp nhổm với đề bài của mình, cứ năm phút lại liếc nhìn đồng hồ, thì ok hí hoáy vẽ sơ đồ đường dẫn đến tháp nhạc. Con bé dúi tờ giấy cho nó.
“Đằng ấy xem là hiểu được chớ?” Nhỏ hỏi.
Charlie nghiên cứu tấm bản đồ. “Ừ, mình sẽ đi qua cánh cửa cuối cùng ở cuối tiền sảnh.”
“Ừ, phải rồi.”
“Gần… rưỡi rồi đó.” Billy nhắc.
Charlie vọt bắn lên.
“Nếu có ai vô đây hỏi, tụi này sẽ phịa là đằng ấy mới vô nhà vệ sinh,” Olivia nói.
Charlie bước ra cửa, mở cửa và nhìn ra ngoài. Không có ai ngoài đó cả. Nó vẫy chào Olivia và Billy thật lẹ, lỉnh lẹ ra hàng lang và khép lại cánh cửa sau lưng.
Theo sơ đồ của Olivia, nó đến tiền sảnh và chạy thục mạng về phía cánh cửa nhỏ hình vòng cung, gần cổng chính. Cánh cổng trông xưa lắc xưa lơ này dường như đã bị khóa. Lòng Charlie chùng xuống. Nó vặn cái vòng sắt bự dùng làm nắm đấm cửa, tới lần thứ ba thì cánh cửa bật ngả về sau. Charlie bước vô một lối đi tối như hũ nút và cẩn thận chốt cửa lại sau lưng.
Charlie nhận ra mình bây giờ đang ở trong phần tòa nhà ngay dưới phòng của Manfred. Nó bắt đầu đi nhón chân.
Hành lang đã tối tăm, cuối cùng dẫn tới một căn phòng trống ở tầng trệt của tháp. Charlie trông thấy cánh cửa mà chắc hẳn Billy đã mở ra cho lũ mèo vô. Cánh cửa giờ đây được chốt chắc chắn. Đối diện cánh cửa này là một dãy cầu thang đá dẫn lên những tầng trên.
Charlie bắt đầu dò dẫm lên những bậc thang xoắn ốc, không có tay vịn hay dù chỉ một sợi dây thừng để bám vô. Cuối cùng, nó bước vô một căn phòng trống khác, có hai cửa sổ nhìn ra quảng trường. Nó chăm chú nhìn ra ngoài. Không thấy bóng dáng Fidelio đâu cả. Có lẽ tại nó leo chưa đủ cao để có được tầm nhìn tốt. Charlie leo thêm dãy cầu thang thứ hai, nó không dừng lại ở tầng kế tiếp mà lẹ làng leo tiếp dãy cầu thang thứ ba. Từ đây nó có thể thấy toàn cảnh thành phố. Sáng hôm đó trời tươi sáng, lành lạnh, và phía xa xa, ngôi nhà thờ đồ sộ nhô hẳn lên khỏi lớp lớp mái nhà chung quanh, tựa như một tạo vật nguy nga, tráng lệ; chóp tháp màu vàng óng của nó lấp lánh dưới ánh mặt trời.
Thình lình, có hai cái bóng chạy băng qua vòi phun nước ở phía dười và tới chân tháp thì dừng lại. Hai cái bóng đó vẫy tay. Vậy là Fidelio có dẫn Benjamin theo cùng.
Charlie vẫy tay đáp lại. Fidelio có giấu được cái thùng trót lọt không? Charlie giơ ngón tay cái bên phải ra ngoài cửa sổ và nhún vai. Rồi nó xòe hai bàn tay ra. Liệu bọn kia có hiểu nó hay không?
Rõ ràng là không. Fidelio và Benjamin bắt đầu hành động một cách rất kỳ dị. Benjamin kéo một sợi dây tưởng tượng, trong khi Fidelio để tay sau mông và lúc lắc tay giống như một cái đuôi. Charlie lắc đầu và nhún vai. Bọn chúng làm gì vậy? Hành song965 đó chẳng có ý nghĩa gì cả.
Cả hai thằng kia rõ ràng là đang rất hào hứng về một điều gì đó, nhưng Charlie muốn biết là cái thùng có an toàn không.
Nó thử dùng hai bàn tay tạo ra đủ loại hình, để minh họa cho câu hỏi: “Có an toàn không? Cái thùng ấy? Đâu rồi?”
Chẳng được cái tích gì. Benjamin và Fidelio hẳn đang có điều gì đó khác trong đầu. Cho dù điều đó là gì thì Charlie cũng phải đợi đến tối nay mới biết được. Nó vẫy tay thêm lần nữa và định chạy xuống cầu thang, thì chợt nghe có tiếng bước chân ở bên dưới. Nếu chạy qua cánh cửa vô hành lang hẹp, thì nó sẽ bị lộ diện ngay bên ngoài phòng Manfred. Cách duy nhất để chạy thoát thân là chạy tiếp lên trên.
Khi Charlie bắt đầu rón rén lên tầng bốn, có tiếng nhạc văng vẳng khắp khu vực cầu thang chật hẹp. Ai đó đang chơi đàn piano. Hay tuyệt. Đó là một giai điệu mê ly, vừa mạnh mẽ lại vừa réo rắt. Người nghệ sĩ này có vẻ như làm chủ tất cả mọi cung bậc trên phím đàn.
Như thể có một sợi chỉ ma thuật kéo Charlie về phía âm thanh ấy. Nó không dừng lại ở tầng bốn, mà cứ vậy leo lên tiếp, bây giờ thì chậm lại và hơi sờ sợ, vì nhận ra mình không thể dừng lại được. Hơn nữa, nó sợ cái mà nó có thể nhìn thấy khi lên đến đỉnh tháp.
Căn phòng mà nó cuối cùng cũng bước vô không trống trải như những phòng kia. Phòng này chất đầy sách nhạc. Những chồng tập nhạc nằm dưới sàn. Các kệ sách đóng trên những bức tường xếp kín những cuốn sách giao hường đóng bìa da – chúng được xếp theo tên của các nhà soạn nhạc kiệt xuất: Mozart, Chopin, Beethoven, Bach, Liszt. Một số cái tên quen thuộc với Charlie, một số khác nó chưa bao giờ nghe nói đến.
Phía bên trong một cánh cửa nhỏ bằng gỗ sồi, một dòng suối nhạc piano trầm bổng vọng ra. Charlie sờ vô nắm đấm cửa. Nó xoay nắm đấm, mở cửa ra và cứ thế đứng ở ngưỡng cửa mà chằm chằm nhìn vô phòng. Trong phòng trống rỗng, ngoại trừ một cây đàn piano đen nhẫy, khổng lồ và người đàn ông ngồi phía sau: thầy Pilgrim. Ông thầy piano xa lạ nhìn thẳng vô Charlie; nhưng hình như ông không nhận ra là cửa mở, mặc dù gió lùa khiến vài tờ báo bay khỏi bậu cửa sổ.
Charlie không biết phải làm gì. Nó cứ đứng ngây ra, như bị thôi miên, và rồi, cuối cùng, nó bước vô phòng và khép cửa lại sau lưng. Thầy Pilgrim vẫn mê mãi dạo đàn, hết nhìn xuống đôi tay mình lại thả hồn ra bầu trời bên ngoài cửa sổ, nét mặt thầy vô định, đôi mắt đen và sâu thăm thẳm.
Xa xa, tháp đồng hồ của ngôi nhà thờ lớn bắt đầu điểm giờ cho toàn thành phố. Một, hai, ba… lúc đó là 12 giờ. Charlie nhớ ra. Nó sẽ trễ mất. Người ta sẽ thắc mắc không biết nó ở đâu. Không chừng chính Manfred sẽ đi tìm nó. Nó toan quay đi, thì bỗng nhiên, thầy Pilgrim ngừng chơi. Hình như thầy đang lắng nghe tiếng chuông đồng hồ. Đến tiếng gõ thứ mười hai thì thầy Pilgrim đứng dậy. Trong thấy Charlie đứng lớ xố bên cánh cửa, thấy nhăn mặt.
“Con… con xin lỗi, thưa thầy, con bị lạc,” Charlie lập bập nói. “Tiếng đàn của thấy rất… à… hay quá… thưa thầy, làm con chỉ muốn lắng nghe.”
“Cái gì?” Thầy Pilgrim hỏi.
“Nhạc của thầy làm con chỉ muốn lắng nghe, thưa thầy.”
“Ờ.”
“Con xin lỗi vì đã tự tiện vô phòng thầy,” Charlie lí nhí. “Thưa, con đi đây.”
“Đợi đã.”
Người thầy xa lạ vòng qua cây đàn piano, bước về phía Charlie.
“Con là ai?”
“Dạ, con là Charlie Bone.”
“Charlie sao?”
“Dạ phải.”
Charlie thấy một thoáng quan tâm nháng lên trong đôi mắt đen của thầy Pilgrim, rồi vụt tan.
“Ra vậy,” thầy lẩm bẩm. “Con nên chạy đi thì hơn.”
“Vâng, thưa thầy.”
Trong chớp mắt, Charlie đã biến khỏi. Nó phóng qua cửa, lao xuống các bậc thang xoắn ốc với thời gian chỉ bằng một nửa lúc nó đi lên. Nó chạy được đến phòng Nhà Vua mà không gặp phải ai, ngoại trừ người gác cửa nhe răng cười và nháy mắt hết cỡ với nó khi nó chạy lẹ qua tiền sảnh.
“Làm gì thế?” Olivia hỏi ngay khi Charlie hộc tốc vô phòng. “Manfred nãy giờ thò mặt vô đây hai lần, hỏi xem đằng ấy ở đâu!”
“Thế bồ nói gì với nó?” Charlie hỏi lại.
“Tớ nói như tụi mình đã mất trí với nhau. Nói bồ ở trong nhà tắm.”
“Những hai lần cơ à?” Charlie lo lắng.
“Lần thứ hai em nói anh bị đau bụng,” Billy nói rành rọt, vẻ nghiêm trang. “Nhưng em không biết anh ấy có tin hay không.”
Vừa lúc đó, thầy Paltry-Kèn-Sáo bước vô, thu lại sách và bảo bọn trẻ chuẩn bị đi ăn trưa.
Bữa trưa hôm ấy có bánh mì sandwich kẹp phó mát và một quả táo cho mỗi phần ăn. Các giáo viên trực trong ngày thứ Bảy ngồi ở dãy bàn cao, nhưng Manfred và giáo sư Bloor lại không xuất hiện.
“Vào cuối tuần họ dùng bữa trưa ở chái phía tây tòa nhà,” Billy giải thích, “cùng với bà Bloor và những người khác trong gia đình.”
Charlie kinh ngạc.
“Vậy ra còn nhiều người nhà Bloor à?”
“Có một ông lão già, già khiếp,” Billy nói. “Em chưa bao giờ thấy ông ấy, nhưng con chó của bà bếp trưởng có nói về ông ấy cho em nghe.”
“Tớ cá là đằng ấy biết rất nhiều thứ từ con chó của bà bếp trưởng,” Olivia nhận xét.
“Đúng thế,” Billy công nhận.
Sau bữa trưa, bọn trẻ được phép ra vườn và Olivia cứ nhất mực rủ cả bọn đến gần khu đổ nát. Billy không hăm hở lắm, nhưng Charlie lại tò mò.
“Thôi nào, Billy,” Olivia động viên. “Tụi mình sẽ không vô trong ấy đâu. Tụi mình chỉ nhìn thôi mà. Tớ chưa bao giờ được chơi trò hùy diệt cả.”
“Mình cũng chưa.” Charlie xen vô.
“Em cũng thế,” Billy càu nhàu, nhưng cũng miễn cưỡng theo chân hai đứa lớn ra chỗ những bức tường rêu phong, xỉn màu. Chúng cao ít nhất phải bốn mét, Charlie nhẩm đoán, và dày chắc. Những viên đá lớn lồ lộ hiện ra khỏi những rặng cây, tựa hồ như ranh giới của một thành phố cổ xưa đã biến mất. Cổng ra vô là một mái rộng hình vòm, và bên trong cổng, mấy đứa có thể thấy một mảnh sân lát gạch, phủ đầy rêu, từ đó có năm lối nhỏ râm mát rẽ ra.
Charlie nghĩ đến cô bé bị biến mất và rùng mình.
“Chuyện gì đang diễn ra ở đó vậy?” Nó lầm bầm.
Olivia đoán được những gì nó nghĩ:
“Tớ chắc chắn là sẽ không bao giờ chui vô đó một mình, dù chỉ một giây. Nó làm tớ sởn cả tóc gáy. Tớ cứ thắc mắc không biết chuyện gì đã xảy ra cho con bé tội nghiệp kia. Người ta nói là áo chùng của nó bị xé thành từng mảnh.”
“Đó là một con sói,” Billy nói.
“Sói?” Charlie và Olivia nhìn nó chằm chằm.
“Con chó của bà bếp trưởng nói với em như vậy,” Billy cho biết. “Nó không bao giờ nói dối đâu. Chó không nói dối bao giờ. Chính xác, nó nói con vật đó là một giống sói. Con sói đó vẫn sống trong trường này, nhưng ban đêm nó chạy ra ngoài khu đổ nát.”
Bất giác cả bọn ngóc cổ ngước nhìn lên bầu trời, những đám mây chiều đang ùn ùn kéo tới.
Olivia thụt lùi lại một bước, rồi quay đầu chạy thục mạng qua bãi cỏ, miệng thét lên thảm thiết:
“Khôôôôôông! Khôôôôông!”
Hai thằng con trai chạy theo sau, bật cười hịch hịch trước đôi chân trắng đang chạy trối chết và tiếng thét thất thanh, nghe thiệt tức cười của cô nàng, tuy Charlie thầm thú nhận là trong tiếng cười của chính nó có pha chút sợ hãi.
Chúng phóng bừa qua cửa vườn và đâm sầm vô Manfred.
“Olivia Vertigo, đi sắp xếp đồ đạc,” hắn lạnh lùng ra lệnh. “Bone, đi theo anh.”
“Tại sao?” Charlie hỏi, cúi gằm mặt xuống sàn nhà.
“Tại vì anh đã nói thế thì mày phải đi,” Manfred trịch thượng.
Charlie rất muốn chạy lên phòng ngủ chung cùng với Olivia. Chẳng còn lâu nữa, mẹ nó cũng sẽ đến cổng đón nó. Rõ ràng là Manfred sẽ không thể ngăn nó về nhà. Nhưng biết đâu, hắn cũng có thể làm việc đó lắm chứ.
Manfred quay đi và bật ngón tay tanh tách. Charlie nhe răng cười một cách căng thẳng với hai đứa bạn rồi đi theo thằng lớn kia.
“Chúc may mắn!” Olivia thì thầm.
Manfred dẫn đường đến phòng huynh trưởng. Hôm nay phòng vắng lặng và Manfred cho phép Charlie ngồi trên một trong mấy cái ghế dựa, trong khi hắn ngồi ở vị trí thường ngày của mình ở sau chiếc bàn giấy lớn.
“Đừng có đờ ra thế, Charlie!” Manfred cố giãn ra một nụ cười, nhưng xem ra nó không được giỏi trong chuyện này cho lắm. “Anh không có ăn thịt mày đâu.|”
Charlie chả tin. Mắt nó vẫn ngó tịt xuống đất.
“Anh chỉ muốn biết mày giấu cái thùng mà bà Ingledew đã đưa cho mày ở đâu. Nó là của bọn anh, mày biết mà.” Giọng Manfred nhẹ nhàng và đầy vẻ dụ dỗ, nhưng Charlie không bị mắc lừa.
“Tôi chả hiểu anh đang nói gì,” nó chối phắt.
“Đương nhiên là mày biết chứ, Charlie. Nó không có gì hay ho cho mày đâu. Thực ra nó chỉ đem phiền phức đến cho mày thôi. Nào, nói đi, nó đâu rồi?”
Charlie không trả lời, Manfred bắt đầu mất kiên nhẫn.
“Nhìn tao đây, thằng kia!” Nó quát lên.
Mắt Charlie vẫn dán chặt xuống đất.
“Mày nghĩ mày tiếp tục được như thế trong bao lâu nữa, hả?” Manfred chế nhạo. “Này, nhìn tao đây. Này, chỉ nhìn một cái thôi mà. Chả có đâu đớn gì đâu.”
Charlie nhận ra ánh mắt mình đang từ từ bị hút về phía khuôn mặt nhợt nhạt của Manfred. Nó không thể cưỡng lại được. Nếu Manfred mà thôi miên được nó, thì mọi thứ sẽ tiêu tan. Nó biết mình sẽ phun ra cho thằng đó tất tần tật. Và sau đó, một ý nghĩ khác bật ra trong đầu nó. Rằng nó có thể chiến đấu với Manfred lắm chứ. Nếu nó đọc được nét mặt và lắng nghe được ý nghĩ của Manfred, thì có thể nó sẽ bẻ gãy được sự kiểm soát của thằng già kia.
Thế là, Charlie nhìn vô khuôn mặt mỏng dính, lạnh lẽo và đôi mắt đen như than đá, rồi cố nghe tiếng nói từ những ý nghĩ của Manfred. Nhưng không có giọng nói nào cả. Thay vô đó là một hình ảnh loang dần trong đầu Charlie, hình ảnh một người đàn ông đang chơi piano.
“Ngừng lại!” Manfred ra lệnh. “Ngừng việc đó lại, Bone!”
Nhưng Charlie cứ bám chặt vô hình ảnh đó, và giờ đây nó có thể nghe được tiếng nhạc, sâu lắng, mượt mà và tuyệt đẹp.
“Ngừng lại!” Manfred rít rống lên.
Một ly nước bay vèo qua đầu Charlie và đập mạnh vô bức tường sau lưng nó, vỡ tan tành. Charlie nhảy khỏi chiếc ghế nó đang ngồi khi đến lượt một cuốn sách bự chảng bay vô nó. Thứ vũ khí tiếp theo Manfred vớ được để ném là cái chặn giấy bằng thủy tinh, nhưng trước khi hắn ném thì cửa bật mở, và giáo sư Bloor ngó vô.
“Chuyện gì thế này?” Ông ta hỏi.
“Nó không đáp ứng,” Manfred rít lên. “Nó cứ ngăn con. Thằng này lại con chơi được trò đấu trí nữa.”
“Thật thú vị,” giáo sư Bloor nói. “Rất thú vị. Con không nên nổi điên như vậy, Manfred à. Ta cảnh báo con đấy. Con phải kiềm chế bản thân chứ.”
Charlie liếc nhanh lên tường. Cái ly vỡ nằm vất lên thành chiếc ghế lúc nãy nó ngồi, và một vệt bẩn lớn, ướt nhèm nhẹp làm loang lổ tấm giấy dán tường màu hoa hồng.
“Charlie, mẹ trò đang chờ đó,” giáo sư Bloor tử tế nói với nó. “Đi sắp xếp đồ đạc ngay đi.”
“Vâng, thưa ngài,” Charlie hăm hở trả lời. Nó ra khỏi phòng lẹ hết mức mà nó dám.
Billy đang chờ nó trong phòng ngủ chung. Thằng bé không ở đó một mình. Bên cạnh giường của nó, một con chó già nhất mà Charlie từng thấy đang nằm dưới sàn nhà. Con chó mập ù, và bộ mặt nâu, dài ngoẵng của nó nhúm nhíu lại, gấp nếp nhiều đến độ khó mà nhận ra mắt với mõm nằm ở đâu. Nó đang thở như kéo bễ - cũng chẳng có gì ngạc nhiên vì chắc hẳn nó đã phải leo lên gần chục cái cầu thang từ nhà bếp tới đây. Cái mùi của nó nhắc Charlie nhớ đến mùi rau cải thối của mẹ.
“Nó được phép vô đây hả?” Charlie lo lắng hỏi.
“Không ai biết đâu,” Billy trấn an. “Em được ở một mình vào những ngày cuối tuần, ngay cả bà giám thị cũng về nhà vào thứ bảy.”
Charlie bắt đầu thảy đồ đạc vô túi.
“Phải chi em có thể về nhà với anh,” nó buồn bã. “Ở đây vào ban đêm chắc chắn là kinh khủng lắm.”
“Em quen rồi,” Billy đáp. “Em đã có con May Phúc để trò chuyện. Hôm nay tụi em có nhiều chuyện phải bàn với nhau.”
“May Phúc?” Charlie nhìn sinh vật nhăn nhúm, béo núc ních dưới chân Billy.
“Cái tên đẹp chứ hả?” Billy hỏi.
Charlie không muốn tranh luận. Nó rất muốn xem Billy giao tiếp với cho như thế nào, nhưng nó không thể đợi được, phải về nhà thôi. Nó chào tạm biệt Billy và phóng như bay qua nhiều hành lang và cầu thang xuống tiền sảnh.