Dịch giả: HƯƠNG LAN
- 3 -
MỘT CÁI CÂY ĐỔ

Trong đêm, nhiệt độ tụt xuống thấp thêm năm, sáu độ nữa. Vào sáng thứ hai, gió băng mang mưa tuyết tới trút xuống đường Filbert, làm mù mắt bất cứ ai dám liều lĩnh ra đường.
“Con không tin nổi là như thế này mà vẫn phải tới trường,” Charlie than van khi chật vật bước đi trong gió.
“Cũng phải tin thôi, Charlie, xe buýt tới rồi kìa! Chúc con may mắn!”
Mẹ Charlie gởi cho nó một nụ hôn gió rồi quay đi, hướng về phía cửa hàng rau quả. Charlie chạy tới đầu đường Filbert, nơi chiếc xe buýt đang chờ để đón những học viên khoa nhạc tới Học viện Bloor.
Charlie được xếp vô khoa nhạc chỉ vì ba nó đã từng học ở khoa này. Nhưng anh bạn Fidelio của nó thì khác. Fidelio thực sự sáng chói. Fidelio đã xí chỗ cho Charlie trên xe buýt. Ngay khi trông thấy mớ tóc hoe vàng xõa hờ và gương mặt rạng rỡ của bạn, Charlie liền cảm thấy khá hơn.
“Học kỳ này sẽ chán ngấy cho coi,” Fidelio thở dài. “Sau những chuyện sôi động vừa qua.”
“Em nghĩ chả có gì chán cả,” Charlie nói. “Chắc chắn em sẽ không vô khu đổ nát nữa đâu.”
Chiếc xe buýt đỗ lại ở một góc quảng trường rải sỏi, có vòi phun nước hình đàn thiên nga bằng đá ở giữa. Khi xuống xe buýt, bọn trẻ nhận thấy mỏ đàn thiên nga lủng lẳng những cục nước đá, và cánh chúng viền toàn sương giá. Hóa ra chúng đang bơi trên mặt hồ đóng băng.
“Nhìn kìa,” Charlie phấn khích la lên khi đi ngang qua vời phun nước.
“Phòng ngủ chung sẽ giống như tủ lạnh,” Fidelio nghiêm nghị.
Charlie tiếc là nó đã không mang theo bình nước nóng.
Thêm một xe buýt khác tấp vô quảng trường. Chiếc này sơn màu tím, và một đám trẻ con mặc áo chùng tím ùa xuống tràn ngập các bậc thang.
“Tới rồi kìa!” Fidelio kêu lên khi một nữ sinh nhuộm tóc màu chàm gần như bay về phía chúng.
“Chào, Olivia!” Charlie reo mừng.
Olivia Vertigo túm chặt cánh tay Charlie:
“Charlie, rất vui là thấy đằng ấy còn sống. Cả anh nữa, Fido!”
“Ừ, còn sống thì mừng rồi,” Fidelio đáp. “Nhưng sao lại gọi tôi là Fido?”
“Em quyết định đổi tên anh,” Olivia tỉnh bơ. “Phát âm Fidelio lưỡi phải uốn đầy cả miệng, còn Fido nghe ngầu hơn. Anh không thích à?”
“Đó là tên một con chó,” Fidelio nói. “Nhưng thôi, để anh nghĩ kỹ lại chuyện này.”
Bọn trẻ áo chùng xanh lá cây giờ cũng đã nhập vô đám đông. Lũ học trò khoa hội họa không ồn ào như tụi bên khoa kịch, cũng không kiêu kỳ như bọn khoa nhạc. Thế nhưng, nhìn những chiếc áo chùng xanh lá cây của chúng bay tốc lên, để lộ khăn quàng gắn khoen xê-quin tròn lấp lánh, hoặc những đường chỉ vàng óng trên nền áo len đen, người ta dễ có cảm tưởng rẳng đám trẻ trông im im này có khi còn vi phạm nội quy tợn hơn, nghiêm trọng hơn bọn mặc áo chùng tím hoặc xanh da trời.
Những bức tường xám cao ngất của Học viện Bloor giờ đã sừng sững trước mặt. Hai bên cổng vòm đi vô có hai tòa tháp nhọn và, khi Charlie bước lên những bậc thang dẫn tới cổng, chợt nó thấy mình cứ dán mắt vô cửa sổ trên cùng của một tòa tháp. Mẹ nó từng bảo bà cũng cảm thấy có ai đó đang nhìn mình từ cửa sổ ấy, và giờ Charlie cũng có cảm giác tương tự. Nó hơi rùng mình, bèn vội vã đuổi cho kịp tụi bạn – tụi này đã băng qua khoảng sân lát gạch và giờ đang lên một dãy cầu thang rộng khác. Ở trên đầu cầu thang, hai cánh cửa nặng trĩu được trang trí bằng những tượng đồng đang để mở, đón đàn trẻ đông đúc.
Bụng Charlie bỗng quặn lên khi nó đi ngang qua cửa. Nó có nhiều kẻ thù trong Học viện Bloor nhưng nó không biết tại sao lại thế. Tại sao họ lại muốn trừ khử nó? Thường xuyên muốn trừ khử nó.
Một cánh cửa bên dưới hai cây kèn trumpet bắt chéo nhau dẫn tới khoa nhạc. Olivia vẫy tay rồi biến mất qua một cánh cửa bên dưới hai chiếc mặt nạ, trong khi bọn trẻ áo chùng xanh lá cây thẳng tiến đến cuối hành lang, nơi có một cây viết chì với một cây cọ vẽ cho biết đây là khoa hội họa.
Charlie và Fidelio vô phòng để áo khoác xanh da trời trước, sau đó đi vô hội trường.
Vì là một trong những đứa nhỏ nhất nên Charlie phải đứng ở hàng đầu, bên cạnh thằng bé nhỏ nhất trong tất cả đám học viên – thằng bé bạch tạng Billy Raven. Charlie hỏi Billy ăn Giáng sinh có vui không, nhưng Billy ngó lơ. Billy là trẻ mồ côi, và Charlie hy vọng thằng bé không phải nghỉ lễ một mình trong Học viện Bloor. Theo như Charlie nghĩ, thì Billy có một số mệnh còn tệ hơn cả cái chết. Nó nhận thấy Billy mang một đôi ủng phủ lông. Một món quà Giáng sinh, không nghi ngờ gì nữa.
Mọi người đang hát đến nửa bài hợp xướng đầu tiên, thì một tiếng thét vang lên từ trên sân khấu.
“Dừng lại!”
Dàn nhạc giao hưởng ngừng chơi. Tiếng hát cũng dứt liền.
Giáo sư Saltweather, trưởng khoa nhạc, bước ra sân khấu, khoanh tay trước ngực. Ông là một người lực lưỡng, thật nhiều tóc trắng, quăn tít. Hàng giáo viên khoa nhạc đứng đằng sau ông lộ vẻ lo lắng. Giáo sư Saltweather sắp sửa la họ cũng như la bọn trẻ.
“Các người gọi đó là bài hát hả?” Giáo sư Saltweather gào lên. “Đó là những tiếng rên khủng khiếp. Những tiếng rú kinh tởm. Các người là những nhạc công cơ mà, ôi trời ơi là trời. Làm ơn hát cho có hồn, có điệu một tí! Nào… lại từ đầu nào!”
Ông gật đầu ra hiệu cho dàn nhạc giao hưởng ở góc sân khấu và giơ cây ba-toong lên.
Charlie hắng giọng. Ngay cả những lúc thuận lợi nhất nó còn không hát được, nữa là hôm nay hội trường lạnh đến nỗi nó không sao giữ cho quai hàm đừng run. Nhiệt độ cũng ảnh hưởng đến những đứa trẻ khác, ngay cả những đứa hát hay nhất cũng đang co ro và run bần bật dưới lớp áo chùng xanh da trời.
Mọi người hát lại từ đầu, và lần này, giáo sư Saltweather không có gì để phàn nàn cả. Những bức tường ốp gỗ rung lên vì tiếng đàn hát. Các giáo viên cũng cố gắng hết sức. Thầy O’Connor vui tính ngả cả đầu ra sau mà hát say sưa, cô Crystal, cô Dance mỉm cười, lắc lư thân mình, trong khi thầy Paltry già nhíu cả mày lại để tập trung. Tuy nhiên, thầy giáo dạy piano, thầy Pilgrim, lại không hề há miệng.
Charlie nhận ra thầy Pilgrim không hề đứng lên. Thầy ở sát bên cô Dance, dáng nhỏ nhắn, và thấy vốn cao nên người ta khó mà nhận ra là thầy vẫn con đang ngôi. Có gì xảy ra với thầy vậy? Thầy không bao giờ nhìn vô mắt ai, không bao giờ nói chuyện, không bao giờ đi loanh quanh như những giáo viên khác. Xem ra thầy hoàn toàn không nhận thức được về những gì xung quanh mình. Gương mặt xanh xao của thầy không bao giờ biểu lộ một nét cảm xúc nào, dù thật nhỏ.
Cho đến nay là thế.
Nhưng lúc này, thầy Pilgrim đang nhìn chăm chăm vô Charlie, và Charlie có cảm giác lạ lùng rằng hình như ông thầy này biết nó, không phải như một học sinh, mà như một ai đó. Cứ như người đàn ông lặng lẽ, tăm tối này đang cố nhớ ra nó.
Thình lình, một tiếng “rắc” ghê hồn phát ra từ phía cửa sổ. Lớn đến nỗi mọi người đều nghe rõ, át cả tiếng của dàn đồng ca sôi động. Thậm chí giáo sư Saltweather cũng ngừng chỉ huy dàn nhạc. Một tiếng “rắc” nữa xuyên thủng lớp băng tuyết bên ngoài, và rồi một tiếng “ầm” kinh khủng làm rung chuyển cả những bức tường và cửa sổ.
Giáo sư Saltweather buông cây gậy xuống và chạy ào ra cửa sổ. Vài đứa trẻ nhào theo, ông cũng không buồn đuổi chúng.
“Quái lạ!” Giáo sư Saltweather thét lên, “coi cây tuyết tùng già kìa!”
Cái cây khổng lồ giờ nằm vắt ngang khu vườn, cành lá gãy văng, bộ rễ tua tủa bị tróc khỏi mặt đất. Thêm một tiếng “ầm” nữa khi cái cành dái đỡ chóp cây đổ sụp xuống, và với một tiếng rú thảm thiết, cả thân cây chìm ngập vô trong tuyết.
Đã có biết bao trò chơi từng diễn ra dưới gốc cây này; biết bao lời thì thầm bí mật đã được những tán lá rậm rạp, râm mát của nó giữ kín. Đó là cái cây yêu thích nhất của tất cả bọn trẻ, giờ thì nó đã đổ rồi, và chỗ nó đứng chỉ còn là một cái hố tuyết rộng với quang cảnh lam nham của những thành lũy lâu đài bỏ hoang. Tuyết đã phủ những gờ cao và bám vô bề mặt lởm chởm của những bức tường, nhưng cái màu đỏ như máu của những viên đá lớn vẫn nổi rõ mồn một trong khung cảnh trắng xóa.
Khi Charlie nhìn trân trân vô những bức tường lâu đài, bỗng có cái gì đó xảy ra. Đó có thể là do ảo giác vì ánh sáng, nhưng nó chắc chắn còn có một cây tuyết tùng khác, nhỏ hơn cây này, đang hiện ra ở cánh cổng hình vòm của lâu đài. Lá nó đỏ và vàng, trong khi cái cây đổ kia thì còn chiếc là nào mang màu sắc mùa thu nữa.
“Anh có thấy cái kia không?” Charlie thì thào với Fidelio.
“Cái gì?”
“Một cái cây đung đưa,” Charlie nói. “Nhìn kìa, bây giờ nó đang đứng bên bức tường tòa lâu đài. Anh không thấy à?”
Fidelio nhíu mày và lắc đầu.
Charlie cố chớp mắt để xua cái cây đi. Nhưng khi nó nhìn lại thì cây vẫn ở đó. Không ai khác ngoài nó trông thấy cái cây. Charlie lại có cảm giác quặn lên quen thuộc ở bụng. Cảm giác này luôn xảy ra khi nó nghe thấy tiếng nói trong hình, nhưng lần này không có tiếng nói nào cả.
Một tiếng “rầm” từ trêm sân khấu khiến Charlie ngoái lại nhìn. Thầy Pilgrim vừa mới đột ngột đứng lên, hất chiếc ghế đổ chỏng gọng. Thầy dòm lướt qua đầu bọn trẻ, nhìn ra vườn, bên ngoài cửa sổ. Rất có thể thầy đang nhìn cây tuyết tùng đổ, nhưng Charlie chắc chắn là thầy đang nhìn ra xa, tới những bức tường đỏ của tòa lâu đài. Phải chăng thầy cũng trông thấy cái cây lạ đang đung đưa?
Giáo sư Saltweather rời khỏi cửa sổ.
“Bài tiếp theo, bay,” ông vừa hô to vừa bước phăm phăm trở lại sân khấu. “Với cái đà này bọn bay sẽ không bao giờ lên lớp được.”
Sau giờ tập họp, Charlie tới lớp học của thầy Paltry-Kèn-Sáo đứng tuổi và nóng nảy. Thầy than là dạy Charlie Bone chơi nhạc cũng chẳng khác gì ráng đổ cho đầy một cái thùng lủng đáy. Ông thầy già cứ thở dài sườn sượt, hết lau kính lại vụt cây gậy đen đét lên giá nhạc, trong khi Charlie đứng sát ngay trong tầm gậy. Charlie cho rằng, nếu thầy Paltry mà cứ tần công nó theo cái kiểu này, thì cuối cùng nó sẽ mất sạch răng – và có thế nó mới được giải thoát khỏi những giờ học nhạc khủng khiếp.
“Đi, Bone, đi đi!” Thầy Paltry gầm gừ sau bốn mươi phút tra tấn lẫn nhau.
Charlie sung sướng vô ngần. Tiếp theo là mang ủng vô và bươn ra ngoài vườn tuyết lạnh. Trong giá lạnh căm căm, bọn trẻ được phép mặc áo chùng ở ngoài trời; vào mùa hè, áo chùng phải để lại trong phòng để áo khoác.
Fidelio ra khỏi lớp học vĩ cầm hơi trễ, cho nên khi hai đứa chạy ra ngoài vườn thì tuyết đã bị ba trăm đứa khác giày xéo rồi. Những thằng người tuyết đang được dựng lên, những trận chiến ném tuyết đang hồi gay cấn, và ông Weedon, người làm vườn, đang vất vả xua đuổi lũ trẻ tránh xa gốc cây gãy.
“Em muốn xem cái gì ở cạnh lâu đài,” Charlie nói với Fidelio.
“Em bảo là em không muốn đến gần khu đổ nát nữa mà,” Fidelio nhắc nhở.
“Ừ, nhưng mà… như em nói đó, em thấy một thứ. Em muốn xem có dấu chân gì không.”
“Thôi được,” Fidelio nhún vai một cách hiền lành.
Khu chúng chạy ngang qua cây tuyết tùng gãy, Billy Raven gọi to:
“Hai anh đi đâu vậy?”
Gần như không suy nghĩ, Charlie vọt mồm:
“Không phải việc của em.”
Thằng bé bạch tạng liền sầm mặt lại, và nép mình vô đám cành lá tuyết tùng r!!!13144_24.htm!!! Đã xem 108527 lần.

Đánh máy: hoalacocay
Nguồn: hoalacocay - VNTQ -Thư viện Online
Nhà xuất bản trẻ phát hành
Được bạn: Ct.ly đưa lên
vào ngày: 29 tháng 5 năm 2011

Truyện Charlie Bone TẬP I - Lúc Nửa Đêm - - 1 -- - 2 - - 3 - - 4 - - 5 - - 6 - - 7 - - 8 - - 9 - - 10 - - 11 - - 12 - - 13 - - 14 - - 15 - - 16 - - 17 - òng ở lầu trên. Tầng trệt là cả một tiền sảnh rộng mênh mông, lộng gió, một nhà nguyện, và năm sáu hội trường cùng lớp học. Henry đã thám hiểm vài căn phòng đó và thấy chúng chán phèo. Tất cả đều có những hàng bàn với ghế dị dạng cùng những kệ sách trông hết sức bụi bặm.
“Tới rồi!” Quý bà Bloor mở một cánh cửa và dúi Henry vô phòng.
Một thằng bé, đang quỳ trên chiếc ghế đầu gần cửa sổ, liền phóng xuống và chạy như bay lại chỗ Henry.
“Nãy giờ anh ở đâu vậy?” Bé hét lên.
“Thám hiểm tí thôi,” Henry đáp.
“Em cứ tưởng anh về nhà rồi.”
“Nhà ở cách đây bao nhiêu dặm cơ mà, Jamie.”
Henry buông mình vô chiếc ghế da sâu hoắm bên cạnh lò sưởi. Khi lim dim mắt, nó như thấy rõ căn phòng khách ấm cúng ở nhà. Và thế là nó lại thở dài.
Thím Gudrun nhăn mặt, đe:
“Liệu đấy, bọn bay,” đoạn đi ra và đóng cửa lại.
Bà thím đi rồi, bé James lại ngồi lên thành ghế của Henry.
“Anh Zeke nãy giờ đang làm cái gì đó tức cười lắm,” bé thì thầm.
Nãy giờ Henry không nhìn ra Zeke, nhưng giờ thì nó nhận thấy thằng anh họ lạ lùng của mình đang chìm trong im lặng ủ ê ở đầu kia căn phòng. Zeke đang ngồi bên bàn, đắm đuối vô những thứ trải ra trước mặt. Gương mặt xương xẩu, tím mét của nó đông cứng trong lúc tập trung cao độ. Không một cơ bắp nào động đậy, không một hơi thở thoát ra.
“Em sợ,” bé James thì thầm.
“Sao vậy? Anh ấy đang làm gì vậy?” Henry nói thầm với bé James, “À, anh ấy đang chơi trò ghép hình. Có những mảnh ghép đầy trên bàn kìa. Đó, Zeke nhìn chăm chú, rồi xếp chúng lại với nhau hết rồi kìa. À, mới gần hết thôi. Thành một bức tranh. Anh ấy có cho anh coi rồi. Đó là hình một con tàu, nhưng có vài mảnh không khớp.”
“Thì thầm là thô lỗ đấy,” Zeke nói, không rời mắt khỏi miếng ghép hình.
Henry nhấc mình khỏi ghế và đi về phía thằng anh họ. Liếc nhìn mười hai manh ghép còn lại, rồi nhìn bức tranh con tàu. Mất chưa đầy một phút nó đã biết chính xác vị trí của từng mảnh.
“Hừm.”
Henry chỉ nói thế, và không thêm lời nào nữa, nó tuần tự nhặt những mảnh ghép lên, từng cái, từng cái một, và lắp vô bức tranh; hai cái cho bầu trời và ba cái ở thân tàu, hai cái ở dây buồm, và bốn cái cho mặt biển.
Mất một lúc, Zeke đã nhìn theo bàn tay của Henry một cách thích thú. Nhưng đúng lúc Henry đặt miếng ghép cuối cùng vô đúng vị trí, thì Zeke đột ngột đứng dậy và rú lên:
“Ai khiến mày? Tao làm được mà. Tao làm được!”
“Xin lỗi,” Henry vội lùi lại. “Em tưởng anh muốn em giúp.”
“Anh Henry chơi ghép hình hay lắm,” bé James khoe.
“Hừ, tao giỏ những thứ khác,” Zeke gầm gừ.
Bé James còn quá nhỏ để mà nhận ra những dấu hiệu nguy hiểm. Tia giận dữ long lên trong đôi mắt đen của Zeke chĩa thẳng qua đầu thằng bé.
“Phép thuật đâu phải lúc nào cũng xài được đâu!” Bé James nói một cách vô tình. “Anh Henry thông minh hơn anh mà, Zeke.”
Chính vì lời nhận xét ấy mà bé James Yewbeam tội nghiệp đã đóng dấu lên số phận của anh mình, và dĩ nhiên, cả số phận của bé.
“Cút đi!” Zeke rít lên. “Cả hai thằng mày. Đồ Yewbeam đáng ghét. Đi! Ngay! Tao không thể chịu nổi cái bản mặt tụi mày.”
Henry và James chạy vội ra cửa. Gương mặt nhợt nhạt của thằng anh họ đã có hơi hám bạo lực, và chúng không muốn ở lạu cho hắn trút cơn thịnh nộ.
“Tụi mình đi đâu đây?” James thở hổn hển khi lao theo thằng anh dọc hành lang.
“Tới tiền sảnh, Jamie. Ra đó chơi bắn bi.” Henry rút từ túi quần ra một cái bao nhỏ và vẫy vẫy trước mặt em.
Nhưng không. Chúng chưa kịp chạy thêm được bước nào thì có một tiếng quát của thím Gudrun.
“James, đi ngủ!”
Bé James giả bộ như không nghe thấy.
“Ngay lập tức!”
“Em nên đi ngủ đi thì hơn,” Henry nhẹ nhàng. “Bà ấy sẽ phạt nếu em không nghe lời.”
“Nhưng em muốn chơi bắn bi cơ,” bé James nói.
Henry lắc đầu. “Thôi mà, Jamie. Bây giờ không được rồi. Ngày mai nhé. Nhưng chút nữa anh sẽ tới đọc truyện cho em.”
“Hứa đi? Anh đọc nốt chuyện Võ Sĩ Ngốc nhé?”
“James, lại đây,” thím Gudrun quát.
“Ừ, hứa,” Henry nói và nhất định sẽ giữ lời. Thế nhưng, Zeke đã có một kế hoạch khác dành cho nó.
Đầu cúi gục, bé James thất thểu lê bước về phía thân hình to lớn đứng ở cuối hành lang.
“Còn mày, Henry!” Thím Gudrun gọi. “Đừng có gây rắc rối đấy.”
“Vâng, thưa thím,” Henry nói.
Nó vừa tính xuống cầu thang rộng dẫn xuống tiền sảnh, thì chợt nảy ra một ý. Trời buốt lạnh đến nỗi nó trông thấy cả hơi thở mình tuôn ra cuồn cuộn như những đám mây nhỏ màu xám. Dưới tiền sảnh có khi còn lạnh hơn. Và nó có thể chết cóng.
Henry quay gót trở lại, cho đến khi thấy cánh cửa một căn phòng mà nó đã điều tra. Đó là một nhà kho rộng, chứa đầy quần áo do những học sinh cũ của Học viện bỏ lại. Những hàng áo chùng xếp theo màu: xanh da trời, xanh lá cây, tím; những giá treo mũ và áo khoác; những hộp ủng da cổ xưa.
Henry chọn một chiếc áo chùng xanh da trời ấm áp và mặc vô. Cái áo dài tới đầu gối, lý tưởng để mặc ở tiền sảnh có gió lùa. Nó có thể bò lê dưới sàn nhà mà không cảm thấy nền đá lạnh toát.
Henry lao xuống tiền sảnh. Bộ sưu tập bi của nó là nỗi ghen tị của tất cả đám bạn. Cha của Henry hay đi đó đi đây, và không bao giờ về nhà mà không mang theo ít nhất một viên bi quý cho bộ sưu tập của con trai. Trong cái túi da của Henry có bi bằng inox, bi mã não lên nước bóng nhẫy, bi thủy tinh, bi đá vôi, bi thạch anh, và cả những viên bi bằng sứ có hoa văn.
Trong tiền sảnh không có đèn, nhưng mặt trăng non luồn qua những ô cửa sổ dài, mù sương, khiến những phiến đá xám lót sàn sáng nhờ nhờ như ngọc trai.
Henry quyết định chơi trò Thiện Xạ, trò mà nó thích nhất. Dẫu không có đối thủ, nó vẫn hay luyện bằng cách chơi một mình. Chỉ với một mẩu phấn, luôn có sẵn trong túi, Henry vẽ một vòng tròn lớn ở ngay giữa tiền sảnh. Xong, nó vẽ thêm một vòng tròn nhỏ hơn bên trong vòng đầu tiên. Chọn ra mười ba viên bi trong túi, nó xếp chúng thành hình cây thánh giá bên trong vòng tròn nhỏ.
Giờ thì Henry quỳ xuống nền đá lạnh băng, ngay bên ngoài vòng tròn lớn. Đôi tay đã tím ngắt vì lạnh, nó không sao kìm cho hàm răng thôi và nhau cầm cập. Nhét vạt áo chùng xanh da trời xuống dưới đầu gối, nó lôi ra viên bi yêu quý nhất của mình – viên bi trong,m màu xanh da trời, có một lằn bạc bên trong, tựa nhứ ánh sao. Đó luôn luôn là hòn bị cái, hay hòn bi xạ thủ.
Đặt những khớp ngón tay phải xuống sàn, lòng bàn tay ngửa lên, Henry đặt viên bi xanh da trời lên đầu ngón trỏ và giơ ngón cái búng nó về phía hàng thánh giá bi. Một tiếng “cách” thật đanh, nó bắn bật viên bi màu cam ở bên phải ra khỏi hai vòng tròn.
“Hoan hô!” Henry hét lên.
Có một tiếng két nhẹ sau lưng, Henry nheo mắt nhìn vô những mảng tối đen trên những bức tướng ốp ván gỗ sồi. Đó là do nó tưởng tượng? Hay một bức thảm thêu dài vừa rung lên? Ở đầu kia của bức thảm thêu, có một cánh cửa dẫn đến chái phía tây. Henry thích cầu thang chính hơn. Còn hàng lang đằng sau cánh cửa kia tối quá và ma quái quá.
Một cơn gió lạnh lùa qua đầu gối Henry, và bức thảm thêu lại cuộn lên một lần nữa. Một loạt mưa đá nện rầm rầm lên những cánh cửa sổ, và gió rít thê lương, luẩn quẩn quanh mảnh sân ngập tuyết.
“À, gió.”
Henry run tay, kéo áo chùng lên sát người hơn. Rồi nó kéo chiếc mũ lên, trùm kín đầu.
Trong hành lang phía sau tấm thảm thêu, Ezekiel Bloor đứng, một tay cầm đèn lồng, và tay kia cầm một quả cầu pha lê lấp lánh. Những tia màu sáng chói, xoáy cuộn, tỏa ra từ quả cầu, thành một cầu vồng được viền vàng và bạc. Ánh mặt trời và ánh trăng nối tiếp nahu vần vũ trên quả cầu. Zeke hiểu rằng nó tuyệt đối không được nhìn vô đấy. Nó đang cầm một trong những viên bi cổ xưa nhất thế giới.
Ngày trước, trên giường hấp hối, bà cô Beatrice của Zeke, một phù thủy, đã ấn quả cầu này vô tay nó.
“Quả Cầu Xoắn Thời Gian,” bà thều thào bằng giọng của người sắp chết. “Để du hành xuyên thời gian. Không được nhìn vô đó, Ezekiel, trừ khi con muốn du hành.”
Ezekiel không muốn du hành. Nó lớn lên trong tòa nhà lớn âm u của gia đình, và rất hiếm khi có ai thuyết phục được nó rời khỏi nơi này.
Tuy nhiên, nó ao ước muốn biết điều gì sẽ xảy ra nếu ai đó nhìn vô Quả Cầu Xoắn Thời Gian. Vả theo như Zeke nghĩ, thì không có ai xứng đáng để làm một chuyến xuyên thời gian hơn là thằng em họ kém cỏi Henry Yewbeam của nó.
Henry tình đến giờ đã búng bay thêm được ba viên bi nữa ra khỏi vòng tròn nhỏ. Nó không bắn hụt viên nào, mặc cho những ngón tay tê cứng. Nó đang chuyển vị trí, lùi lại bên ngoài vòng tròn, thì một viên bi pha lê lăn về phía nó. Viên này to hơn viên xạ thủ xanh da trời của Henry, và có những tia sáng đủ màu sắc, lung linh nhảy múa xung quanh.
“Ui trời,” Henry nín thở.
Nó ngây ra như phỗng trong khi viên bi lạ vẫn lăn, cho tới khi chạm vô chân nó.
Henry nhặt viên bi lạ lên. Nó nhìn trân trối vô những lằn sáng bên trong viên bi. Nó thấy những mái vòm bằng vàng, những thành phố rực nắng, những bầu trời không một gợn mây, và nhiều, nhiều thứ nữa. Nhưng ngay cả khi đang bị cuốn theo cảnh tượng diễn ra trước mắt, Henry vẫn nhận ra rằng có một sự thay đổi đang xảy ra trong cơ thể mình, và nó biết mình không nên nhìn vô những hình ảnh khó tin và ngoạn mục này nữa.
Những bức tường ốp ván gỗ sồi đang toác ra. Ánh trăng giá lạnh mờ dần. Đầu óc Henry quay cuồng và bàn chân nó bắt đầu hổng lên. Xa, rất xa, một con mèo cất tiếng meo meo. Và rồi, thêm một con mèo khác, lại một con nữa.
Henry nghĩ đến thằng em bé bỏng của mình. Liệu nó có đủ thời gian để đến bên em trước khi bị cuốn trôi đi hẳn?
Và nếu thế… Nếu bé James trông thấy anh mình biến mất ngay trước mắt, liệu bé có hoảng sợ mà đến nỗi bị ác mộng suốt đời không? Henry quyết định chỉ để lại một lời nhắn.
Trong khi vẫn còn sức lực, Henry móc mẩu phấn từ trong túi quần ra và bằng tay trái (tay phải nó vẫn kẹp chặt Quả Cầu Xoắn Thời Gian), viết vội lên nền đá, “XIN LỖI JAMES, BI…”
Đó là tất cả thời gian mà Henry có. Chỉ một giây sau, nó dừng lại ở năm có sinh nhật thứ 11 của mình mà lao về phía trước, rất nhanh, tới một năm mà hầu hết những người quen của nó khi đó hẳn đã chết hết rồi.
Trong căn phòng lạnh giá, nhỏ tí ở lầu trên cùng chái phía tây, bé James đang chờ anh mình. Thằng bé lạnh đến nỗi phải tròng thêm áo khoác ra ngoài áo ngủ bằng vải nỉ. Trên bàn ngủ bên cạnh, ngọn nến run rẩy trước cơn gió từ ngoài cửa lùa vô. Anh Henry đang ở đâu? Sao anh ấy lại lâu thế nhỉ?
Be james dụi mắt. Nó mệt lắm, nhưng lạnh quá không tài nào ngủ được. Nó kéo tấm trải giường lên tận cằm và lắng nghe tiếng mưa tuyết rít gióng, đập ình ình vô kính cửa sổ. Và rồi, ngọn nến tắt phụt.
Bé james ngồi im thin thít trên giường, kinh khiếp đến mức không dám gọi to lên. Thím Gudrun sẽ nổi cáu, còn ông anh họ Zeke sẽ chế giễu nó là đồ con nít. Chỉ có anh Henry là hiểu nó thôi.
“Anh Henry! Anh Henry! Anh đang ở đâu?” Bé James nhắm mắt lại và ụp mặt vô gối khóc nức nở. Trước khi cạn hết nước mắt, James chợt ngừng run rẩy. Căn phòng đang ấm dần lên. Nó mở mắt và nhận ra mình có thể nhìn thấy chiếc gối, thấy bàn tay mình và thấy cửa sổ. Một luồng sáng dịu quét kh - 20 - - 21 - TẬP III - CẬU BÉ VÔ HÌNH - 1 - Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chương 16 Chương 17 Chương 18 Chương 19 Tập 4 - Lâu Đài Gương - 1 - -2 - - 3 - - 4 - - 5 - - 6 - - 7 - - 8 - - 9 - - 10 - - 11 - - 12 - - 13 - - 14 - - 15 - - 16 - - 17 - - 18 - - 19 - - 20 - - 21 -