Dịch giả: HƯƠNG LAN
- 13 -
NHỮNG VỊ KHÁCH CỦA LÃO EZEKIEL

Vào sáng thứ Hai, người mẹ minh tinh màn bạc nổi tiếng của Olivia Vertigo phải đi làm rất sớm, vì thế Olivia được thả xuống Học viện trước bọn bạn nó rất lâu. Con bé ngạc nhiên khi thấy tiền sảnh đầy kín người là người. Những người lao công cầm chổi và cây lau nhà đang lau quét từng ngõ ngách; giáo sư Saltweather và một vài giáo viên khỏe mạnh khác đang khiêng đồ đạc ra khỏi các vách tường; những người khác đang chăm chú săm xoi dưới những bức thảm thêu và những tấm màn nặng chịch.
“Đứng có đúng đó không, con bé kia, làm gì đi chứ!”
Olivia không chắc nó nên phải làm gì.
“Thưa, ngài giáo sư đang kiếm một thứ gì đó phải không ạ?” Nó hỏi.
“Dĩ nhiên. Chúng ta đang tìm một quả cầu. Một quả cầu kỳ lạ nhất trên đời. Đi tìm nó đi.”
“Vâng, thưa ngài.”
Olivia ném phịch chiếc ba lô xuống bên cạnh cánh cửa đi lang thang khắp tiền sảnh. Nó cứ dán tịt mắt xuống đất, nhưng gần như đến một hạt bụi cũng không còn để mà nhìn.
Sau một giờ tìm kiếm vô ích, giáo sư Bloor ra lệnh cho mọi người chuyển đồ đạc về chỗ cũ và giải tán khỏi tiền sảnh.
“Nó không có ở đây,” ong ta lẩm bẩm. “Vậy thì ai đang giữ nó?”
Olivia nghe có tiếng nói lao xao ở ngoài mảnh sanh gạch đằng sau lưng, nó bèn nhặt ba lô lên và phóng ra ngoài xem có gặp được Charlie trước khi thằng này đi vô hội trường hay không. Nó tìm thấy Charlie đang đi lên cầu thang cùng với Fidelio. Cả hai đang bàn tán về một quán ăn dành cho thú kiểng nào đó.
“Chào hai đằng ấy!” Olivia mau mắn. “Tớ có tin mới đây.”
“Coi kìa, cây rau,” Damian Smerk hét lên, suýt nữa thì húc con bé té xuống cầu thang. Damian là loại người hay bắt nạt kẻ khác, nhất là chỗ nào liên quan đến bọn con gái.
Olivia chẳng sợ gì.
“Hứ, tao thà có mái tóc xanh lá cây còn hơn có cái mặt như mặt mày.” Nó trả đũa, tay vuốt nhẹ mái tóc màu rau dền mới nhuộm của mình.
“Đồ quá dị!” Damian lầm thầm rồi bỏ đi mất.
Fidelio cau mặt với cái lưng của Damian.
“Tin gì vậy?” Nó hỏi.
Olivia kể cho chúng nghe về cuộc lùng kiếm quả cầu. “Chắc chắn đó là thứ mà đã đem anh họ của đằng ấy đến đây,” nó nói với Charlie. “Đằng ấy biết mà, Quả Cầu Xoắn Thời Gian ấy.”
Trong khi bọn con trai trân trân nhìn Olivia, nó lấy hơi rồi tiếp.
“À, tớ đã gặp cậu ấy rồi.”
“Bồ gặp anh Henry rồi?” Charlie kinh ngạc.
“Ừ, trong khu bỏ hoang. Lúc đó Manfred và Asa đang truy lùng cậu ấy đang trốn trong nhà bếp, thế nên tớ với Bindi dẫn cậu ấy trở lại đó trước khi hai thằng kia tóm được.”
“Tốt lắm,” Charlie khen.
Vừa lúc đó, Emma Tolly bước lên đến đầu cầu thang, Olivia liền quay lên và chạy theo Emma.
“Emma, dừng lại đã,” Olivia gọi. “Tớ muốn…”
Nhưng Emma đã vô tiền sảnh rồi, là nơi cấm nói chuyện.
“Tớ chả biết có chuyện gì xảy ra với con nhỏ ấy,” Olivia thở dài. “Hình như nó không muốn có bạn bè gì nữa.”
“Chắc tại với nó thì bồ quá quái dị!” Charlie nói giỡn.
“Ai đang nói vậy há!” Olivia cười toét và nhảy tưng tưng lên những bậc thang vô tiền sảnh.
Charlie và Fidelio cùng nhau đi đến phòng để áo khoác xanh da trời, ở đó chúng gặp Gabriel đang ngồi trên một băng ghế dài. Gabriel đang cầm bịch quần áo cũ của Asa, và coi bộ rất lo lắng.
“Chuyện gì vậy?” Fidelio hỏi. “Asa vẫn theo đuôi hả?”
“Tôi đoán vậy,” Gabriel nói khẽ. “Tối qua có cái gì đó đã tấn công đàn dê nhà tôi.”
Charlie ngồi xuống cạnh Gabriel.
“Không có con nào bị giết chứ?” Nó hỏi nhỏ.
“Không, chúng chỉ hoảng sợ thôi, và sáng nay sẽ không vắt sữa chúng được.” Gabriel thở dài.”Tôi nghĩ mình phải trả lại cái đống này, nhưng tôi không biết bằng cách nào. Asa có thể sẽ rất hung tợn.”
“Cứ đưa nó cho Olivia,” Fidelio bàn. “Olivia sẽ đem thảy nó vô phòng để áo khoác của khoa kịch trong giờ giải lao.”
“OK,” Gabriel nhét cái túi xuống gầm ghế dài rồi đi theo hai đứa kia vô hội trường.
Sau giờ tập họp, Charlie miễn cưỡng đi qua học lớp nhạc với thầy Paltr-Kèn-Sáo. Ông giáo già này quyết định cho nó thử kèn trum-pet, thay vì thổi ống tiêu, và Charlie thích thế hơn nhiều. Giờ học nhạc của nó kể như cũng được coi là vui.
Giờ giải lao, Charlie gặp Gabriel và Fidelio đang loanh quanh ngoài sân chơi. Gabriel trông vẫn còn thấp thỏm không yên. Nó bảo với Charlie rằng nó đã đưa gói quần áo của Asa cho Olivia rồi, và theo như nó biết thì con nhỏ đã xoay xở treo được cái túi lên mắc của Asa.
“Vậy là mọi việc OK rồi,” Charlie nói.
“Không hẳn thế. Khi tôi đến lớp học dương cầm thì thầy Pilgrim không có ở đó.”
Fidelio nhắc Gabriel là trí nhớ của thầy Pilgrim tệ khủng khiếp. Thầy luôn luôn quên các thứ.
“Nhưng thầy không quên những tiết học,” Gabriel thì thào.
Olivia xăng xái đi tới, cười toe toét.
“Xong rồi,” nó thông báo. “Tớ đã treo cái túi lên móc của Asa, nhưng đoán xem cái gì nào?”
“Cái gì vậy?” Đám con trai nhóng hỏi.
“Asa vô liền ngay sau khi tớ làm xong có một giây. Trông nó the thảm hết sức. Hai bà tay nó băng bó và nó đi khập khiễng.”
Tin này chẳng khiến bọn con trai ngạc nhiên. Charlie kể cho Olivia nghe về quán Cà Phê Thú Kiểng, và chuyện Asa bị một bầy chó rượt. Olivia thấy tếu quá đến nỗi nó cứ cười nắc nẻ, rồi đâm ra nấc cụt.
Khi Charlie và Fidelio vô lớp Ngữ Văn thì Olivia (vẫn còn nấc cụt) vô lớp ngâm thơ. Gabriel đáng lý phải vô lớp toán, nhưng nó đang có cãm giác hết sức lạ lùng. Nó không mặc hay mang trên mình món đồ cũ ào, nên không hiểu tại sao mình lại cảm thấy chộn rộn trong bụng và nhoi nhói đằng sau gáy. Nhưng trước khi biết được lý do, thì nó đã tới được chái phía tây rồi và đang leo cầu thang lên đỉnh tháp. Tiếng đàn dương cầm bắt đầu vẳng xuống khu cầu thang. Rõ ràng thầy Pilgrim đã trở lại phòng mình. Khi Gabriel lên đến tầng tháp trên cùng, nó gõ cửa phòng thầy Pilgrim. Không có tiếng trả lời. Tiếng dương cầm vang rền, và một chuỗi giai điệu trầm hùng nổi như sấm dậy, kết thúc bản nhạc. Trong quãng im lặng theo sau đó, Gabriel mở cửa. Thầy Pilgrim nhìn nó chăm chăm qua cây đàn dương cầm đen bóng.
“Con xin lỗi thầy,” Gabriel ấp úng. “Nhưng lúc nãy thầy không có ở đây, nên con… ờm… con bị mất bài, và con muốn biết bây giờ con có thể học bù được không ạ?”
“Bây giờ à?” Thầy Pilgrim hỏi, vẻ lúng túng.
“Dạ phải, thưa thầy.”
“Bây giờ, ờ được.” Thầy Pilgrim nhấc chiếc ghế của cây đàn dương cầm lên để lấy đường cho Gabriel qua.
“Con cám ơn thầy.”
Gabriel ngồi xuống cạnh thầy giáo dây dương cầm, và không chờ hiệu lệnh, nó hăm hở thả hồn vô bài luyện của mình.
Khi bài nhạc kết thúc, thầy Pilgrim không nhận xét gì. Thầy kiên nhẫn ngồi lắng nghe khi Gabriel chơi hai bản nhạc phức tạp của Bach.
Càng về cuối bản nhạc thứ hai, Gabriel càng cảm nhận có một sự căng thẳng kỳ lạ lẫn quất trong phòng. Nó kết thúc bản nhạc rồi để yên hai tay lên đầu gối, chờ lời nhận xét của thầy Pilgrim. Đôi lúc ông thầy này chẳng nói gì cả.
Từ bên ngoài vọng vô tiếng gõ của chiếc đồng hồ nhà thờ lớn khi nó bắt đầu điểm 12 giờ.
“Thưa thầy, con về,” Gabriel nói.
“Hôm nay con chơi rất hay,” thầy Pilgrim chợt lên tiếng.
“Con cám ơn thầy.”
Gabriel định đứng lên thì thầy Pilgrim bảo:
“Gabriel, bọn họ bắt được cậu bé đó rồi!”
“Cậu bé nào, thưa thầy?”
“Cậu bé đã ở đây.”
Gabriel bổng nhiên hiểu thầy Pilgrim đang nói về ai.
“Ý thầy muốn nói đến Henry, phải không ạ? Anh họ của Charlie Bone ấy?”
Thầy Pilgrim nhíu mày.
“Henry? Bọn họ bắt cậu ấy rồi, Gabriel. Cậu ấy cần được giúp đỡ.”
“Vâng, thưa thầy.”
Gabriel đứng dậy. Khi nó quay đi, thầy Pilgrim bất giác níu tay nó.
“Chờ đã.”
Thầy dạy nhạc móc một vật gì đó ra khỏi túi áo và ấn vô bàn tay Gabriel.
Gabriel nhận ra đó là một viên bi lớn bằng pha lê. Viên bi hừng lên một thứ ánh sáng kỳ lạ, hắt những tia phản chiếu qua các kẽ ngón tay nắm chặt của Gabriel.
“Cầm lấy,” thầy Pilgrim nói. “Bây giờ con đi đi.”
“Vâng, thưa thầy.”
Gabriel rời khỏi căn phòng. Khi đi được nửa đường xuống các cầu thang, Gabriel ngồi bệt xuống một bậc. Nó không biết phải làm gì. Nếu thầy Pilgrim nói đúng thì Henry đã bị bắt. Gia đình Bloor đang lùng sục quả cầu này – Quả Cầu Xoắn Thời Gian. Liệu họ có định đẩy Henry tới một thời đại mà anh ấy không thể sống sót không?
Gabriel từ từ mở nắm tay ra. Nó liếc nhìn những hình ảnh và các màu sắc xoay vòng, nhưng vội khép ngay những ngón tay lại quanh quả cầu lấp lánh.
“Tốt hơn là đừng nhìn,” nó lẩm nhẩm, nhớ lại những gì đã xảy ra với Henry.
Một cái bóng chuyển động bỗng đập vô mắt Gabriel, và nó nhìn xuống khu cầu thang tối. Gương mặt nhợt nhạt của bà Bloor hiện ra. Bà ngước lên, mỉm cười với nó.
“Hôm nay cậu chơi hay lắm,” bà nói.
“Cháu cám ơn,” Gabriel đứng dậy, nắm chặt Quả Cầu Xoắn Thời Gian sau lưng.
Bà Bloor bước lại phía nó, vẻ tò mò hiện trên gương mặt.
“Cậu có cái gì vậy, Gabriel?”
Gabriel từ từ xòe bàn tay ra, để lộ những màu sắc ngoạn mục của Quả Cầu Xoắn Thời Gian.
“Bà không nên ngó vô,” Gabriel cảnh báo,
“Đúng vậy,” bà Bloor nói khi chìa tay ra lấy quả cầu. “Cậu không nên có thứ này. Nó quá nguy hiểm.”
Những ngón tay bà bao quanh quả cầu, và rồi nó biến mất vô túi áo.
“Nó là Quả Cầu Xoắn Thời Gian” Gabriel khẽ nói. “Nó có thể đưa bà trở lại được như bà trước kia.”
“Tôi biết,” bà hạ giọng. “Bà bếp trưởng đã nói với tôi. Tận đáy lòng, tôi thành thật cám ơn cậu, Gabriel.”
Cái bóng đen mỏng mảnh của bà lướt đi khỏi, lẹ đến nỗi Gabriel không kịp thấy bà đi đâu. Giờ, nó cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều, và nhẹ nhàng lao vút xuống dưới chân tháp.
“Tời trễ rồi,” Fidelio nói khi Gabriel đặt dĩa đựng phần khoai tây chiên của nó lên chiếc bàn căn-tin.
Gabriel ngoái lại nhìn. Tiếng ồn ào trong căn-tin đủ lớn để át đi giọng nói của nó, nhưng nó vẫn cần phải chắc chắn là không có ai đang nghe ngóng. Gabriel ngồi xuống giữa Charlie và Fidelio, và nhoài người ra trước thông báo:
“Bọn họ bắt được Henry rồi!”
“Cái gì?” Charlie thét lên.
“Suỵt!” Gabriel nhìn quanh phòng. Chẳng ai mảy may để ý gì tới bọn chúng.
“Thầy Pilgrim đã nói với tôi như vậy. Tôi không biết làm thế nào mà thầy biết được.”
“Thầy ấy quái lắm, nói gì mà chẳng được,” Fidelio nói.
“Nhưng coi bộ thầy biết rất chắc,” Gabriel bảo.
“Bà bếp trưởng thể nào cũng phải biết,” Charlie đứng dậy. “Để em mang dĩa vô bếp và coi thử em có gặp được bà không.”
“Đi ngay giờ đi,” Fidelio khuyên. “Có một đám đông quanh quầy phục vụ kìa, nên sẽ không ai để ý tới cậu đâu.”
Charlie bước về phía quầy, và rồi lên nhanh qua cửa bếp.
Trong nhà bếp đầy hơi nước, và nó cứ vướng phải mấy cô phục vụ đang tất bật khiêng những chảo thức ăn nóng và những chồng dĩa.
“Mày không được ở trong đây,” một người trong số họ gay gắt.
Charlie chạy vôi ra phía sau của căn phòng, nơi nó trông thấy bà bếp trưởng. Bà ngồi, với một cái chậu đặt trên đùi, đang gọt cà rốt. Mắt bà đỏ hoe, và trông bà buồn rười rượi. Vừa trông thấy Charlie, bà liền lắc đầu.
“Có thật không bà?” Charlie thì thầm. “Bọn họ bắt anh Henry rồi à?”
“Thật, Charlie à,” Bà bếp trưởng nói. “Họ bắt Henry rồi. Nhưng sao con biết?”
“Thầy Pilgrim nói với anh Gabriel.”
“Thầy Pilgrim?” Bà bếp trưởng có vẻ sửng sốt. “Lạ thật. Nhưng thời buổi này thì ai mà biết được.”
“Bà có biết họ mang anh ấy đi đâu không?” Charlie hỏi.
“Ta không biết chắc được. Nhưng đâu đó sau nữa đêm ta thấy Zelda và Manfred đi qua cửa vườn.”
“Vậy nghĩa là anh ấy đang ở trong lâu đài.”
“Ta chẳng ngạc nhiên chút nào.” Bà bếp trưởng lại lắc đầu. “Trong đó có mấy hầm ngục gớm ghiếc, nhưng cái khu đổ nát đó rộng tới nỗi ta cũng chẳng biết phải bắt đầu tìm kiếm từ đâu. Nhưng con đừng lo, lũ mèo chắc chắn sẽ biết chỗ Henry. Chúng sẽ chăm sóc cậu bé.”
“Lũ mèo thì làm được gì nếu anh Henry bị nhốt rồi?” Charlie nói. “Con phải tìm cách cứu anh ấy ra, bà bếp ạ.”
“Chắc chắn là phải có ai đó đi cứu nó rồi. Nhưng tốt hơn con nên quay về ngay đi, Charlie. Chúng ta sẽ nghĩ ra cách nào đó. Tuyệt đối không được mất hy vọng.”
Charlie không có ý định đánh mất hy vọng. Nó linh lẹ về căn-tin, nhón một chiếc bánh bích quy từ quầy phục vụ rồi nhập chung vô đám bạn đang ngồi bên bàn.
“Đúng rồi,” Charlie xác nhận với cả bọn. “Bà bếp trưởng nghĩ anh Henry đang ở trong mấy cái hầm ngục.”
“Thế thì tụi mình sẽ cứu cậu ấy ra,” Fidelio quả quyết.
“Chúng ta phải tìm ra cậu ấy trước đã,” Gabriel nhắc cả bọn.
“Nào, thế đi ngay đi,” Fidelio nói. “Tụi mình còn nửa tiếng nữa thì đến tiết học kế tiếp.”
Chúng xếp dĩa lại thành chồng rồi kéo nhau ra ngoài vườn. Tuyết đã tan và mặt trời tỏa xuống từ bầu trời trong xanh. Mọi thứ trông đều có vẻ rất hứa hẹn – cho đến khi chúng ta tới khu bỏ hoang.
Chui qua cái cổng vườn lớn, chúng đụng ngay gã Weedon ở trong khoảnh sân gạch. Gã đang đóng đinh nhiều tấm ván dày chắn ngang lối vô một trong năm ngõ rẽ.
“Cút đi, Charlie Bone,” gã làm vườn đuổi. “Tao đang bận.”
“Tụi cháu sẽ không làm phiền ông đâu,” Charlie đáp.
“Tao đã bảo cút là cút,” gã Weedon quát. “Chỗ này đang trở thành nguy hiểm. Chứ tụi bay nghĩ coi, tại sao tao phải làm thế này, hả?”
Chúng biết rất rõ lý do tại sao gã Weedon đang bít một lối vô khu lâu đài hoang. Chúng nhanh chóng rời khỏi cái sân gạch.
“Bảo đảm đó là lối vô những hầm ngục,” Gabriel nhận định. “Giờ, tụi mình tính sẽ làm gì đây?”
Ba người bạn bước vòng quanh sân chơi trong im lặng chán chường. Olivia chạy lại gần và hỏi sao mà trông cả bọn não nề thế. Khi nghe chuyện Henry bị bắt, nó sững người:
“Khiếp quá. Tụi mình sẽ cứu cậu ấy ra bằng cách nào đây?”
“Tụi này cũng chưa biết,” Gabriel bảo.
Charlie thấy thật khó tập trung vô bất cứ bài học nào. Các giáo viên cứ la rầy và mắng nhiếc nó. Hai lần nó đi vô lộn phòng học. Nếu Fidelio không để mắt nhắc nhở nó, thì chắc hẳn nó đã bị điệu lên gặp huynh trưởng rồi, mà đó là điều nó dứt khoát muốn tránh.
Tối hôm đó, một bầu không khí thật tệ hại trùm trong phòng Nhà Vua. Lysander ủ dột dán mắt vô sách vở. Bindi bị một cơn cảm lạnh kinh khủng. Emma mải mê vẽ, đắm chìm trong im lặng. Và Asa rên rĩ mãi, thét nhặng xị lên mỗi khi nó phải lật một trang sách bằng bàn tay băng bó. Chỗ ngồi trống lốc của Tancred cứ như một cái lỗ trống khổng lồ, liên tục thu hút sự chú ý về phía đó, như thể một con ma đang ngồi ở đấy vậy.
Kẻ duy nhất hí hửng trong phòng là Zelda, con nhỏ liên tục phẩy cho sách vở của tất cả mọi người trôi trên bàn. Khi nó nhìn hau háu vô chỗ ngồi của Tancred, thì chỗ đó xoáy cuộn lên thành những vòng tròn, cho đến khi ngay cả Manfred cũng phải mất bình tĩnh.
“Ngừng lại,” hắn nạt Zelda. “Như thế chẳng tài giỏi gì đâu. Chỉ toàn trỏ ngớ ngẩn.”
“Đó gọi là siêu năng!” Zelda cãi lại. “Nếu anh không phiền, anh yêu quý!”
“Tao cóc cần biết nó là cái quái gì,” Manfred sủa. “Nó chỉ tổ khiến tao bực mình. Thôi, dẹp đi.”
Zelda nhăn nhó và trở lại với đống bài tập của mình.
Nếu không phải lo lắng, thì Charlie chắc hẳn đã thấy chuyện đó thật tức cười. Từng phút trôi qua chậm chạp, đến mức nó tin chắc là ai đó đã nghịch cho hư đồng hồ rồi. Nó nhìn vô bức tranh vẽ Vua Đỏ treo phía trên chỗ ngồi của Tancred. Nếu là ngài thì ngài sẽ làm gì? Charlie nghĩ.
Đôi mắt đen bí hiểm ngó ra nhìn nó chằm chằm. Chiếc vương miện đội trên đầu nhà vua lóe lên như thể bằng vàng thật. Những mảng tối động đậy trong các nếp gấp trên chiếc ao chùng đỏ chói. Sau đó, không thể tin nổi, dáng người cao to ấy bắt đầu thay đổi hình dạng và cả màu sắc. Cho đến khi Charlie tin chắc rằng mình đang nhìn một cái cây màu đỏ và vàng. Tại sao mình không thể nghe thấy ngài nói nhỉ? Charlie tự hỏi. Nó nhắm mắt. Và khi mở mắt ra thì cái cây đã biến mất. Tâm trí đánh lừa mình, nó nghĩ.
Cho đến lúc đồng hồ điểm 8 giờ, Charlie gần như không thể ngăn mình được nữa. Nó lao vù ra khỏi phòng Nhà Vua, với Gabriel phóng chạy theo sau.
“Cậu nghĩ ra được cái gì chưa?” Gabriel thì thào khi chúng vội vã lên phòng ngủ chung.
“Em chẳng nghĩ được kế hoạch nào ra hồn cả,” Charlie thú thật. “Nhưng đêm nay em sẽ vô khu bỏ hoang, cho dù cái gì có xảy ra.”
“Để tôi đi cùng với cậu.”
“Không,” Charlie gạt đi. “TỐt nhất chỉ một người trong tụi mình đi thôi. Anh có thể trông chừng các thứ trong phòng ngủ chung.”
“Tôi không thích vậy,” Gabriel nói. “Bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra ở ngoài đó.”
“Asa bị thương rồi. Hắn sẽ không nguy hiểm đâu.” Charlie không tự tin lắm nhưng cứ làm bộ nói.
Khi Fidelio nghe kế hoạch của Charlie, rất tự nhiên, nó cũng muốn đi cùng.
“Không,” Charlie nói. “Hai tụi mình đi sẽ gây chú ý. Em nghĩ em nên đi một mình. Henry là anh họ của em.”
Billy Raven vô phòng ngủ chung và dòm dòm ba thằng bé đang ngồi trên giường của Charlie.
“Trông các anh như đang bàn tính chuyện gì đó,” Billy noi.
“Bọn anh đang bàn tính về ngày tàn của mày,” Fidelio bảo.
Billy sa sầm mặt:
“Anh tưởng anh thông minh tới cỡ đó sao, Fidelio Gunn?”
Phòng ngủ chung bắt đầu đầy bọn trẻ chuẩn bị đi ngủ. Và va người bạn không nói với nhau thêm lời nào nữa.
Khi đồng hồ nhà thờ lớn gõ mười một tiếng, Charlie mặc thêm áo cùng xanh da trời ra ngoài chiếc áo choàng, và xỏ vội giày, đi vớ vô. Đi kiễng gót trong đôi giày nặng không phải dễ, nhưng Charlie cũng lẻn được ra khỏi phòng ngủ chung mà không gây quá nhiều tiếng ồn. Nó bắt đầu cảm thấy hơi phấn khích về cuộc phiêu lưu phía trước. Nó chắc mẩm là thể nào cũng sẽ tìm được Henry. Thế rồi, nó quẹo vô một góc quanh và va sầm vô… bà cô Lucretia Yewbeam.
“Mày đi đâu vậy?” Bà giám thị hạch hỏi.
“Con nghĩ con bị mộng du,” Charlie đáp.
“Vớ vẩn. Mày có cái gì đó?”
“Không có gì.”
Charlie giấu cây đèn pin bà bếp trưởng cho nó ra sau lưng.
“Đưa đây cho ta. Ngay!”
Charlie lừng khừng đưa cây đèn pin ra.
“Hừ, hay ra phết,” bà Lucretia xoay xoay chiếc đèn pin trong tay.
“Mày lấy nó ở đâu?”
“Con thấy nó ở nhà.”
“Thế à? Ừm, nó bị tịch thu. Trở lại giường ngay.”
“Nhưng con không thấy đường được nếu không có cây đèn pin của con.”
“Thì cứ đi mà mộng du. Bước!”
Charlie quay trở lại và lần tìm đường dọc theo những hành lang tối mù. Nó gần về đến phòng ngủ chung thì vấp phải cái gì đó và ngã oạch xuống ván sàn. Tự nhổm người đứng lên, Charlie sờ soạng trong đêm tối cho đến khi nó sờ trúng thứ vừa ngáng nó té: một cơ thể nằm thông thượt, vắt ngang hành lang.
Dù là ai thì cái người đang năm bất động này cũng có nhiều tóc, và hình như cao hơn Charlie một chút.
“Fidelio,” Charlie thở hổn hển. “Fidelio, dậy mau!”
Charlie vỗ vầng trán lạnh toát và lay cánh tay của bạn, mới đầu còn lay nhẹ, về sau nó lắc lấy lắc để.
“Dậy! Dậy mau!”
Thân hình đó vẫn không cựa quậy.
Charlie chạy vô phòng ngủ chung và lần tìm giường của Gabriel.
“Gabriel,” nó thì thào khẩn cấp. “Gabriel, giúp em với!”
Gabriel ọ ẹ rồi ngồi dậy.
“Chuyện gì đó?”
“Fidelio đang nằm trong hành lang,” Charlie nói. “Em không đánh thức anh ấy dậy được.”
Gabriel chụp lấy cây đèn pin của mình, nhảy phóc xuống sàn và chạy theo. Charlie ra hành lang. Mỗi đứa một bên, hai đứa hè nhau cố nhấc Fidelio lên và khiên trở vô giường. Fidelio vẫn ngủ im. Nó mềm oặt, lạnh ngắt và gần như không thở. Gabriel rọi cây đèn pin vô mặt Fidelio. Mắt Fidelio mở lớn, nhưng trợn trừng trừng một cách vô cảm và không thay đổi.
“Anh ấy bị thôi miên rồi,” Charlie thều thào. “Tụi mình không thể để anh ấy như thế này cho đến sáng mai, kẻo anh ấy sẽ không bao giờ tỉnh dậy mất.”
Gabriel chạy vô nhà tắm và trở lại với một ca nước lạnh.
“Xin lỗi phải làm vầy,” nó phều phào trong hơi thở gấp. Rồi, nó dội nước lên đầu Fidelio.
Với một cái rùng mình và một tiếng rên, Fidelio mở mắt ra thậm chí còn to hơn và ngước nhìn Charlie.
“Chuyện gì vậy?” Nó hỏi.
“Anh phải nói cho bọn này biết mới đúng,” Charlie bảo. “Bọn này tìm thấy anh ở ngoài hành lang.”
“Anh đã lén đi theo em,” Fidelio mấp máy môi. “Manfred tóm được anh. Hắn giơ cây đèn pin lên soi sát mặt hắn, xong rồi hắn bắt anh phải nhìn hắn. Đôi mắt hắn thật kinh khủng – giống như than, đen xỉ và rừng rực.”
“Anh bị thôi miên đó,” Charlie bảo. “Bây giờ anh thấy khỏe chứ?”
“Buồn ngủ. Phải ngủ ngay đây.”
“Tôi cũng thế,” Gabriel nói. “Ngủ ngon nhe, hai dứa.”
Charlie lên giường. Phải mất một lúc lâu nó mới thiếp ngủ đi. Nó lo lắng. Bây giờ, ngay cả các bạn nó cũng đang bị theo dõi. Có người nhất quyết ngăn không cho nó cứu Henry.
ở đầu đằng kia phòng ngủ chung, Billy Raven cũng nằm tỉnh như sáo. Khi chắc chắn rằng tất cả mọi người đã ngủ say, thằng bé tuột khỏi giường. Đã đến giờ đi gặp lão Ezekiel. Nó biết chờ May Phúc là vô ích. Con chó già này bây giờ đã là kẻ thù của nó, và Billy hơi buồn lòng vì chuyện này.
“Chẳng ích gì.” Nó lầm bầm, quấn mình trong chiếc áo choàng ngủ mới màu xanh da trời.
Tia sáng cực mạnh từ chiếc đèn pin mới giúp nó nhanh chóng dò ra đường đi qua tòa nhà, nhưng khi vô đến khu vực hành lang có đèn khí ở chái phía tây, thì Billy tắt đèn pin đi. Hầu như ngay khi vừa tắt đèn thì nó dẫm phải một hũ mứt không. Hình như còn có cái gì đó nữa sống ở trong lãnh địa tăm tối này của lão Ezekiel, và thình thoảng cái đó thảy những hũ mứt không xuống những bxuong6hang ọp ẹp dẫn lên gác xép. Billy không chắc đó là ma, hay là cái gì đó còn tệ hơn cả ma. Nó chạy về phía phòng của lão Ezekiel, nhưng khi đến nơi, nó nghe thấy nhiều tiếng quát tháo, giận dữ Billy bèn áp tai vô cánh cửa.
“Đứa nào đó đang cất giấu nó!” Lão Ezekiel thét lên the thé. “Một trong cái bọn nhãi chết tiệt kia chứ ai.”
“Bọn trẻ về nhà hết cả rồi,” một giọng nói. “Ngoại trừ Billy, tất nhiên.”
Billy cứng đờ người. Nó nhận ra giọng nói của bà Yewbeam, bà giám thị.
“Ta muốn nó,” lão già gầm gừ. “Ta phải có nó.”
“Xin bình tĩnh, thưa ngài Ezekiel. Có nhiều cách khác để tống khứ thằng ranh đó đi.”
“Charlie đã xem bức tranh đó chưa?”
“Rồi,” bà giám thị nói mau. “Chúng tôi đảm bảo điều đó.”
“Bà nghĩ nó sẽ muốn đi vô chứ?” Giọng của lão Ezekiel đã chuyển thành độc địa pha chút háo hức.
“Tôi chắc chắn. Nhưng ai mà biết nó có lấy con dao găm hay không.”
“Dĩ nhiên nó sẽ lấy,” lão Ezekiel nói. “Con trai đứa nào mà chả ham chọn dao găm – sắc và sáng mà.”
“Bọn tôi gặp chút rắc rối với Paton,” bà Lucretia nói. “Tôi nghĩ hắn biết nhiều quá mức cần thiệt.”
“Bà sẽ phải làm gì đó với thằng em dở hơi của bà đi. Nó đọc quá nhiều đấy.”
Bà giám thị bật cười khá ố.
“Ô, phải phải, nó hay đọc sách,” bà ta giễu cợt. “Và đó sẽ là nguyên nhân khiến nó tiêu tùng. Cứ để đó cho bọn tôi.”
Tiếng cười của bà Yewbeam như bệnh truyền nhiễm, và thoáng chốc cả hai cùng bị cuốn vô một chầu cười không sao nín nổi.
Billy chọn khoảnh khắc này để gõ cửa.
“Ai đó?” Lão Ezekiel hỏi, vẫn cười khục khục.
“Billy Raven, thưa ông,” Billy nói.
“A, tao muốn có vài lời với mày,” lão Ezekiel khịt khịt.
Billy bước vô phòng. Nó đang tràn trề hy vọng, đinh ninh rằng mình xứng đáng được thưởng một món quà. Nhưng nó vô để nhậ một cú sốc nảy bật cả người.
Vừa trông thấy thằng bé, lão già liền tru tréo.
“Đồ khốn nạn. Mày đá con chó con của tao.”
“Nhưng cháu đã giúp bắt được cái thằng từ đâu đâu mà,” Billy nói, lùi lại.
Lão Ezekiel thây kệ điều đó.
“Tại sao mày đá con Thương Hại của tao?”
“Nó không chịu nói chuyện với cháu.” Billy bắt đầu mất hy vọng. “Khi nào thì cháu sẽ có cha mẹ mới?”
“Mày không được làm đau con cún con của tao. Đừng hòng có cha mẹ nào cho mày. Mày cần phải tỏ ra được việc hơn nữa. Giờ, cút đi!”
Khi Billy quay đi, nó thấy vẻ khinh miệt hằn rõ trên gương mặt bà giám thị Yewbeam. Điều đó rõ rành rành là bà ta không thích trẻ con một chút xíu nào.