Dịch giả: HƯƠNG LAN
- 14 -
VỤ ĐỤNG XE

Charlie không thể nhớ được nó đã khi nào có một tuần lễ kinh khủng như vầy chưa.
Fidelio phải mất gần cả tuần mới bình phục khỏi vụ thôi miên. Nó cứ đi dật dờ bên cạnh Charlie, hầu như không hé răng lấy một lời. Đôi khi nó quên luôn tên Charlie, có lúc nó còn quên luôn cả tên nó.
Ban ngày thì không thể vào khu bỏ hoang được, bởi vì gã Weedon luôn ở đó.
“Ra hết!” Gã làm vườn thường quát om. “Đi mau. Cút!”
Ban đêm, bất cứ khi nào Charlie thử rời khỏi phòng ngủ chung là bà Lucretia Yewbeam, luôn đang rình rập ở một góc nào đó, liền xồ ra chộp ngay lấy nó. Cuối cùng nó đành phải bỏ cuộc. Nhưng Henry vẫn luôn vương vất trong tâm trí nó. Anh ấy đang ở đâu? Anh ấy có đang đói đến chết không?
Bất chợt Charlie bỗng nhớ ra là Henry không có cha mẹ để họ cũng phải bổ nhào đi tìm anh ấy. Cũng sẽ không ai nhớ anh ấy, bởi vì anh ấy có thật sự tồn tại đâu. Dĩ nhiên là có bà bếp trưởng và bà vl, nhưng họ làm gì được nào, và ai mà tin bà Bloor tội nghiệp?
“Tất cả phụ thuộc vào mình,” Charlie lẩm bẩm.
“Cái gì phụ thuộc vào em?” Fidelio hỏi.
Đó là chiều thứ sáu và bọn chúng đang thu dọn đồ đạc để chuẩn bị về nhà.
Charlie ngước nhìn lên.
“Fidelio, đó là câu có ý nghĩa đầu tiên anh nói ra suốt tuần nay. Anh thấy đỡ rồi hả?”
Fidelio gật đầu.
“Đỡ rồi. Nhưng anh vẫn còn nhức đầu. Anh muốn bắt thằng Manfred phải nếm thuốc độc của chính nó.”
“Một ngày nào đó tụi mình sẽ phục thù,” Gabriel nói.
Billy Raven đi vô và Fidelio xầm xì:
“Tất cả là lỗi tại nó. Nó làm gián điệp.”
Nhưng Charlie thấy đáng thương cho Billy hơn, trông nó có vẻ cô độc và mệt mỏi.
“Đừng có mủi lòng,” Fidelio nhắc. “Nó vẫn nguy hiểm lắm.”
Ba thằng bé chạy xuống tiền sảnh và tuôn ra khỏi cánh cổng cao lớn bằng gỗ sồi.
“Lại một kỳ cuối tuần tự do!” Gabriel reo mừng. “Lũ chuột ơi, ta về đây!”
Chúng nhảy lên chiếc xe buýt màu xanh da trời của trường và mau chóng khởi hành. Đường Filbert là một trong những trạm dừng cuối cùng, và Charlie gần như không thể đợi nổi lúc về tới nhà. Nó muốn hỏi ý kiến Ông cậu xem phải làm gì trong chuyện Henry.
Ngay khi xuống xe buýt, Charlie trông thấy Benjamin và con Hạt Đậu đang phóng về phía nó. Căn cứ vào vẻ mặt của Benjamin, Charlie biết ngay có chuyện gì đó không ổn.
“Chuyện gì vậy?” Nó hỏi ngay khi Benjamin đứng thở phì phò bên cạnh.
“Ôi Charlie, thật kinh khủng. Ông cậu của bồ bị xe tông!”
“Cái gì?” Charlie buông rơi chiếc túi xách. “Khi nào? Làm sao? Ông cậu có…”
“Không, Ông cậu không chết đâu.” Benjamin ngừng để lấy lại hơi. “Ông đang nằm nhà thường. Chuyện xảy ra ở gần nhà thờ lớn,” Benjamin thở dốc. “Có người thấy Ông cậu của bồ bước xuống lòng đường trong khi đang đọc sách. Một chiếc xe từ góc đường quẹo ra và tông thẳng vô Ông cậu. Nó không dừng lại mà phóng đi luôn.”
“Ôi, không,” Charlie rên rẩm. “Mình vẫn sợ việc này thể nào cũng xảy ra mà.”
Khi chúng về đến nhà số 9, Benjamin không vô cùng với Charlie.
“Có lẽ bồ muốn ở một mình với gia đình,” nó nói. “Mình nghĩ họ sắp vô nhà thương.”
Ngoại Maisie mở cửa ra và ép chặt Charlie bằng một cái ôm thật mạnh mẽ.
“ÔI, Charlie,” bà bù lu bù loa. “Quả là tai họa. Benjamin đã cho con biết rồi hả?”
“Rồi ạ,” Charlie vặn người ra khỏi vòng tay của ngoại Maisie. “Ông cậu Paton có…? Ông cậu ổn chứ? Ý con là ông câu có nói được không?”
“Hôm qua thì ông ấy chả nói được gì,” ngoại Maisie bảo. “Đầu bị băng kín mít, cả xương sườn cũng vậy. Khổ thân Paton. Trông ông ấy thật thê thảm.”
“Họ có biết ai gây ra tai nạn không?”
“Đụng rồi bỏ chạy,” ngoại Maisie gay gắt. “Có hai nhân chứng, nhưng họ không kịp nhớ số xe. Chiếc xe rồ đi mất dạng.”
Ngoại Maisie dẫn Charlie vô nhà bếp, nơi mẹ nó đang sắp ba chỗ ngồi bên bàn.
“Lát nữa chúng ta sẽ đi thăm Ông cậu,” mẹ nó nói, hôn phớt lên má Charlie. “Con có muốn đi không, Charlie?”
“Có chứ,” Charlie đáp.
Sau bữa trà, họ đón một chiếc taxi tới nhà thương. Đó là một tòa nhà lớn, và phải mất bao nhiêu thời gian mới tìm ra đúng phòng Ông cậu Paton nằm. Khi bước trong lối đi dài giữa hai hàng giường, họ nhận ra hai người đang ngồi bên cạnh bệnh nhân: Emma và cô Ingledew.
“Ta phải nói cái cô đó những gì ta nghĩ mới được,” ngoại Maisie lầm bầm. “Tất cả là do lỗi của cô ta. Bấy lâu nay cô ta đã đối xử tệ bạc với Paton.”
Nhưng khi họ lại gần, ngoại Maisie không thể nói được một lời nào, bởi vì vừa nhác trông thấy họ, cô Ingledew đã nhảy xổ ra và nghẹn ngào trong nước mắt.
“Tôi rất, rất hối hận vì sự việc xảy ra. Lỗi tại tôi hoàn toàn. Paton đang trên đường tới thăm tôi, và tôi… Ôi, đáng lẽ ra anh ấy không nên tự đặt mình vô hoàn cảnh rủi ro như thế. Tôi cảm thấy tội lỗi vô cùng.”
Rồi cô hỉ mũi ầm ĩ.
“Không phải lỗi của co, Julia,” Charlie vỗ về, quàng tay qua vai cô Ingledew. “Ông cậu Paton chỉ đang cố thử thực hiện một thí nghiệm. Đáng lý ra một người trong chúng tôi phải đi cùng với ông, nhưng ông đã đi khỏi nhà hồi nào chúng tôi không hay.”
Ông cậu Paton nằm đó, thấy được mỗi gương mặt trắng toát. Ông có một chiếc mặt nạ đen che mắt và một mảnh băng quấn vòng kín đầu.
“Ông cậu tỉnh chứ ạ?” Charlie thì thầm hỏi.
“Ừ,” một giọng yếu ớt, vẫn không thể lầm được là giọng của Ông cậu Paton, phát ra.
Charlie cúi xuống gần hơn.
“Ông cậu cảm thấy thế nào ạ, Ông cậu Paton?” Nó hỏi. “Ông cậu sẽ bình phục, phải không?”
“Tất nhiên.” Giọng ông hạ thấp xuống thành một tiếng thầm thì. “Đó là một người trong bọn họ, Charlie à.”
“Một trong bọn nào?”
“Mấy bà chị của ta. Bà đó đội tóc giả. Ta không thể phân biệt được họ nếu không nhìn tóc họ, nhưng mà ta biết.”
Charlie sững sờ đến độ nó ngồi phịch xuống cạnh giường.
Cô Ingledew đứng lên ra về, nhưng trước khi đi, cô đặt vô tay Charlie một cuốn sách nhỏ, trông xộc xệch.
“Cô tìm thấy cái này ở trong máng xối sau khi Ông cậu của cháu bị tai nạn,” cô bảo. “Ông cậu nhờ cô đưa nó cho cháu. Có phải thế không, Paton?”
“Phải,” ông thều thào.
“Tạm biệt Paton thân yêu. Ngày mai em sẽ lại vô.”
Khi cô Ingledew quay đi, Ông cậu Paton hé cười thật nhẹ.
“Mình xin lỗi, Charlie. Dạo gần đây mình không thân thiện cho lắm. Nhưng mình muốn giúp một tay.”
“Ừ,” Charlie lóng ngóng đáp.
“Ý mình là mình sẽ giúp.”
“Cảm ơn,” nó nói. “Hẹn gặp lại vào thứ Hai.”
Emma biết bay. Và điều đó có thể sẽ hữu ích.
Cô Ingledew và cháu gái đi khỏi. Ngoại Maisie bắt đầu kể lể cho Ông cậu Paton nghe tất cả những tin tức mà bà có thể nhớ được, cả chuyện công cộng lẫn chuyện riêng tư. Trong lúc ngoại nói, Charlie săm soi cuốn sách nhỏ, màu nâu. Tựa đề Geiriadur được in mạ vàng, đã mờ ở ngoài bìa sách. Bên trong là những cột chữ bằng một ngôn ngữ lạ.
Sau một hồi, Ông cậu Paton ngáp một cái rõ to rồi than van:
“Tôi phải đeo mặt nạ vì vụ bóng đèn. Tôi bảo với họ là đèn làm nhức mắt. Nếu không thì đã tanh banh rồi.”
“Phải đấy ạ,” mẹ Charlie nói, ngước lên nhìn hàng bóng đèn huỳnh quang.
“Chúc mọi ngui ngủ ngon,” Ông cậu Paton nói, kèm một cái ngáp nữa.
Hiểu ý, cô Bone và ngoại Maisie đứng lên chuẩn bị về, nhưng Charlie cúi sát xuống Ông cậu hơn.
Nó thì thầm.
“Ông cậu Paton, cuốn sách này bằng tiếng nước ngoài mà.”
“Tiếng xứ Wales,” Ông cậu Paton ậm ừ. “Mày sẽ cần nó để đối phó với Skarpo.”
“Tại sao?”
Ông cậu Paton không trả lời, chỉ nói gọn.
“Giữ kỹ lấy.”
Charlie muốn xin Ông cậu lời khuyên về việc Henry, nhưng nó không biết phải mở lời như thế nào trong khi Ông cậu đang ốm mẹp thế này.
Một cô y tá xuất hiện, đẩy theo một chiếc bàn đầy thuốc. Hứa ngày mai sẽ quay lại thăm, ba người khách chúc Ông cậu Paton ngủ ngon rồi rời nhà thương.
Ở nhà số 9, họ thấy nội Bone ở trong nhà bếp, đang ăn bánh nướng.
“Bà chưa đi thăm Paton,” ngoại Maisie gay gắt buộc tội.
“Tôi bận bịu suốt,” nội Bone khụt khịt.
“Grizelda! Đó là em trai bà!” Ngoại Maisie quay ngoắt đi, vẻ kinh tởm. “Bà có trái tim đá.”
Nội Bone phớt lờ ngoại Maisie. Bà ngoạm một miếng bánh kem thật to, và bỗng nhận thấy cuốn sách Charlie đang cầm.
“Mày cầm cái gì đó?” Bà nhìn chòng chọc vô tay Charlie.
“Một cuốn sách.”
“Ta muốn xem,” bà nói đầy kích động. “Sách gì vậy. Đưa đây.”
“Không. Chuyện bí mật.”
Charlie chạy ù lên lầu. Nó không tin nội Bone. Bà ta thể nào cũng sẽ sục sạo phòng nó ngay khi có dịp. Nó nhận ra cuốn sách đụt vừa y túi quần, nên quyết định giữ sách luôn bên mình, cho dù có đi bất cứ đâu. Ngày mai mọi người sẽ lại đến nhà thương thăm Ông cậu Paton, và nó hy vọng sẽ nói chuyện riêng được với ông.
Nhưng không được! Ngày hôm sau, khi Charlie đòi đến nhà thương, ngoại Maisie lộ vẻ âu sầu.
“Hôm nay nội Bone và mấy bà cô nhà Yewbeam sẽ đi,” bà nói. “Ta sẽ không đến đó bằng xe cùa bà cô Eustacia đâu. Bà ta lái xe như điên vậy.”
“Còn mẹ con thì sao?” Charlie hỏi.
“Mẹ con thì đến hết giờ thăm bệnh mới được nghỉ làm.”
Charlie không biết phải làm gì. Dù gì thì nó cũng đã nhất quyết phải gặp Ông cậu, cho nên lúc 3 giờ, khi chiếc xe màu đen của bà cô Eustacia đậu bên ngoài nhà số 9, Charlie leo vô ngồi ghế đằng sau cùng với nội Bone. Bà cô Venetia đã ngồi sẵn trong xe.
“Ối chao, thật là hân hạnh,” bà Venetia thốt lên. “Chúng ta sẽ có Charlie bé nhỏ đi cùng đấy.”
“Con không bé nhỏ, xin lỗi bà.” Charlie làu bàu.
“Nhạy cảm trước kích thước của bọn ta chứ gì?” Bà cô Venetia cười hịch hịch.
Charlie chẳng nghĩ ra có bất kỳ điểm nào cần phải đôi co.
Ngay khi họ vô đến phòng Ông cậu Paton nằm, Charlie nhận ngay ra rằng sẽ không thể thực hiện được bất cứ cuộc nói chuyện nào với Ông cậu. Khi nghe thấy tiếng của các bà chị, mặt ông liền tỏ vẻ trống rỗng, dằn dỗi, và ông từ chối nói chuyện.
“Xem ra nó chưa tỉnh,” nội Bone nói. Rồi bà ta cao giọng. “Paton, là BỌN TA đây. CÁC BÀ CHỊ của cậu đây. Cậu tính không nói chuyện với bọn ta sao?”
Gương mặt của Ông cậu Paton vẫn lạnh băng.
“Bọn ta mang nho đây,” bà cô Eustacia nói, thọc tay vô một cái giỏ ở trên bàn bên cạnh giường.
“Có cả Charlie nữa này,” bà Venetia thêm.
Ông cậu Paton chẳng tỏ dấu hiệu gì là đã nghe họ nói. Ba bà chị ngồi quanh giường, thảo luận về thời tiết và thời sự trong nước, như thể không có cậu em đang nằm đó.
Sau nửa giờ, họ đứng lên, và Charlie liền tận dụng cơ hội. Cúi xuống Ông cậu, nó thì thầm. “Hẹn gặp cậu cuối tuần sau, Ông cậu P.”
“Đồng ý,” Ông cậu Paton mấp máy.
“Hắn nói kìa!” Bà Venetia hét lên. “Charlie, ông ấy nói gì thế?”
“Không nói gì cả,” Charlie đáp. “Ông cậu chỉ đang thở thôi.”
Họ quàu quạu nhìn Ông cậu Paton, đầy nghi ngờ. Trên xe trở về đường Filbert, ba bà cô chẳng đếm xỉa gì đến Charlie, họ cứ tán gẫu rầm rĩ với nhau. Chưa bao giờ Charlie chứng kiến nội Bone trong tình trạng tươi roi rói như thế. Nhưng Henry tội nghiệp lại đang bị bắt, và chắc chắn đang bị nhốt ở một nơi tối tăm và bí mật nào đó. Chả trách mà chị em nhà Yewbeam lại sung sướng.
Lúc về tới nhà, Charlie nôn nao muốn nói chuyện về Henry với ai đó. Nó quyết định sẽ nói chuyện với mẹ.
Khi mẹ nó đi làm về, Charlie theo mẹ ra căn phòng nhỏ của mẹ ở phía sau nhà.
“Mẹ ơi con có một vấn đề khó khăn,” nó nói. “Mẹ con mình nói chuyện được không?”
“Tất nhiên là được, Charlie.”
Mẹ nó dọn đống quần áo ra khỏi ghế bành và giúp Charlie ngồi vô đó. Xong rồi, mẹ nó quay một chiếc ghế khác lại để có thể ngồi sát gần con.
Mẹ của Charlie vốn là một người biết lắng nghe. Mẹ không bao giờ ngắt lời hay cảm thán gì, nhưng khi nghe câu chuyện kỳ lạ về Henry Yewbeam, mắt mẹ mở lớn, và vẻ mặt liên tục đổi từ tò mò sang ngạc nhiên rồi kinh hãi.
“Cậu bé tội nghiệp,” mẹ Charlie suýt xoa khi Charlie đã kể xong. “Mẹ con mình có thể làm gì được nào? Ông cậu Paton… chính những chị ruột của ông! Nhưng mẹ nghĩ là vụ đụng xe cũng không khiến mẹ ngạc nhiên.”
“Sao vậy, mẹ?” Charlie hỏi.
“Là vì ba của con. Mẹ biết họ có dính líu sao đó đến tai nạn của ba con. Và nội Bone đã giấu biệt tất cả mọi hình ảnh của ba. Cứ như là ba không tồn tại vậy.”
“Một ngày nào đó ba sẽ tồn tại,” Charlie quả quyết.
Mẹ nó lắc đầu và mỉm cười buồn bã.
“Mẹ e là không thể được đâu, Charlie. Nhưng mẹ có một ý này. Cô Ingledew biết điều gì đó về cuốn sách nhỏ kia. Cô ấy đã tìm thấy nó mà, với lại lúc chúng ta tới nhà thương thì cô ấy đang nói chuyện với Ông cậu mà. Sao con không tới hỏi cô ấy xem sao?”
Charlie nghĩ ý này thật hay.
“Để con rủ Benjamin đi cùng,” nó nói, “và cả con Hạt Đậu nữa.”
Charlie không muốn thú nhận với mẹ là nó luôn cảm thấy rờn rợn mỗi khi đi qua những con phố hẹp quanh nhà thờ lớn.
Như mọi khi, Benjamin rất hăng hái cùng Charlie làm một chuyến thám hiểm, cả con Hạt Đậu cũng vậy. Chiều chủ nhật, cả ba lên đường tới tiệm sách của cô Ingledew, trong khi nội Bone đang nghỉ trưa.
Những đám may đen treo trên bầu trời thành phố, và vẫn còn tuyết rơi lẩn khuất trong không khí. Tới lúc ghé được tiệm sách thì hai thằng đã sẵn sàng tư thế để làm một ngụm đồ uống nong nóng và nhấm nháp chút gì đó.
“Mình hy vọng là họ có nhà,” Benjamin lẩm bẩm khi Charlie nhấn chuông.
Chúng thật may mắn. Emma ra mở cửa.
“Vô đi,” con bé nói với nụ cười tươi tắn. “Nhưng cảm phiền nhà cửa lộn xộn nhe.”
Nó dẫn chúng vô căn phòng ấm cúng đằng sau cửa hàng. Một tập giấy vẽ lớn nằm trên bàn của cô Ingledew. Rõ ràng Emma đang làm việc ở đó. Bức tranh vẽ một con chim khổng lồ choán hết cả hai trang giấy của cuốn tập để mở. Trông hình giống như một con đại bàng vàng rực rỡ, nhưng có vẻ gì đó đe dọa và dũng mãnh hơn nhiều.
Ngoài những đống sách của cô Ingledew ra, trong phòng dường như chỉ có toàn lông chim. Đen, trắng, xanh da trời, xám. Chúng phủ khắp sàn, và bám trên tất cả các bàn ghế trong phòng.
“Đang cop-pi theo đó mà,” Emma giải thích, vội vàng quét đám lông dính trên ghế trường kỷ. “Coi cừng chỗ mấy bồ ngồi đó.”
Hai thằng bé tót lên chiếc ghế dài, chỗ ít vướng lông hơn các chỗ nào khác. Con Hạt Đậu bắng nhắng cả lên. Nó cuống cuồng đi săn lùng lũ chim mà nó chắc chắn là đang trốn ở đâu đó trong phòng.
“Cái gì đó?” Charlie hỏi, hất đầu về phía bức vẽ của Emma.
“Chim trường săn đấy,” Emma bảo.
“Chưa bao giờ nghe tới cả,” Charlie nói.
“Không nghe là phải. Mình sáng tạo ra nó mà,” Emma cầm cuốn sách lên. “Mình dự tính nó phải giống con chim săn mồi trong chuyện ‘Sinbad, Người Thủy Thủy’. Mấy bồ nhớ không, loại chim khổng lồ mà riêng trứng của nó thôi đã tròn năm mươi bước chân ấy.”
“Chao! Trứng thế mới là trứng!” Benjamin suýt xoa.
“Chim thế mới là chim!” Charlie phụ họa.
“Nó phải mạnh mẽ,” Emma tiếp. “Rất mạnh. Và dữ tợn nữa. Coi đám lông đuôi nó nè! Mỗi cọng lông sẽ to cỡ bàn tay mình.”
“Eo ôi.” Benjamin rụt cổ.
Charlie chợt có cảm giác rằng con chim này được vẽ ra không phải để tiêu khiển, mà nó có một mục đích gì đó rất đặc biệt.
“Emma,” nó buột miệng, “phải đó là cách bồ…? Ý mình là bồ cần phải biến thành chim trước khi… bay, phải không?”
“Phải. Nhưng mình phải nghĩ đến con chim đó trước đã. Mình hình dung nó trong tâm trí, và rồi… mình bay.”
Tụi con trai trố mắt dòm con bé.
“Chà! Thế thì ghê lắm nhỉ,” cuối cùng Benjamin cất lời.
“Cũng có ghê ghê một chút,” Emma thừa nhận. “Mình mới chỉ làm ba lần trong đời thôi. Khi mình mới đến sống với dì Julia, dì thậm chí còn không muốn nói về chuyện đó nữa, nhưng bây giờ thì đi đã quen rồi. Có những lúc mình bắt buộc phải bay.”
“Chào các chú bé!” Cô Ingledew ngó vô phòng. “Các cháu ăn chút bánh bơ nướng nhé? Trời lạnh quá đi.”
“Vâng ạ,” cả hai thằng bé đồng thanh, và cùng xoa xoa bụng.
Cô Ingledew biến mất vô bếp, rồi lại hiện ra với một khay bánh bơ nướng và sôcôla nóng. Charlie nói với cô về chuyến đi tới nhà thương của nó.
“Cháu muốn hỏi Ông cậu Paton về cuốn sách, nhưng mấy bà cô dữ tợn của cháu ở đó nên Ông cậu không nói được.”
Nó đưa cho cô Ingledew cuốn sách nhỏ màu nâu.
“Ông cậu bảo cháu sẽ phải cần nó để…” Charlie ngại ngần, “để thăm một người.”
Cô Ingledew nhá cho Charlie một cái nhìn trêu chọc.
“Ra vậy,” cô mở cuốn sách ra và ngó lướt qua vài trang.
“Đây là cuốn từ điển tiếng xứ Wales, Charlie à. Chính xác là từ điền xứ Wales-Anh. Và Ông cậu của cháu đã đánh dấu một số từ trong đó, coi này!”
Cô chỉ cho chúng xem những ngôi sao nhỏ nằm rải rác khắp cuốn saach1.
“Tại sao lại là những từ đó?” Charlie hỏi.
“Cô để ý thì thấy chúng toàn là động từ,” cô Ingledew nói, “hoặc những câu mệnh lệnh. Kiểu như: ‘Chuyển động’, ‘bay’, ‘nói’, ‘đẩy’, ‘lắng nghe’, ‘nhìn’, ‘bắt lấy’, ‘chạy’, vân vân. Nhìn này Ông cậu còn ghi phiên âm ở đầu cuốn sách nữa này.”
“Nhưng tại sao ạ?” Charlie nôn nóng. “Nó có nghĩa là gì?”
“Tiếng xứ Wales là một thứ tiếng khác thường. Không phải cứ viết thế nào thì đọc thế ấy. Cô chỉ đoán rằng, Ông cậu của cháu muốn cháu học thuộc những từ xứ Wales này. Nhưng cô không biết tại sao.”
“Khi tới lúc thì bồ khắc biết,” Emma nói.
Cô Ingledew mỉm cười với cô cháu gái.
“Con thật là một đứa trẻ kỳ lạ,” cô âu yếm nói. “Cho dì phép thuật thì dì cũng không chắc là mình có thích hay không nữa.”
“Cả con cũng không chắc,” Benjamin đồng tình.
Bóng tối lạnh căm đã chập choạng phủ khắp các đường phố khi Charlie và Benjamin rời tiệm sách. Con Hạt Đậu bảo đảm cho cả bọn giữ được nhanh nhịp bước.
Khi chúng về tới nhà số 9, Benjamin đi chậm lại.
“Cái người mà bồ định sẽ đi thăm là ai vậy?” Nó hỏi Charlie.
Charlie kể cho bạn nghe về bức hình vẽ Skarpo.
“Tức là bồ sẽ đi vô tấm hình vẽ đó à? Rồi sau đó thì sao?” Benjamin coi bộ sợ hãi.
“Ông ấy là một thầy pháp. Một phù thủy, Benjamin à. Và một chút phép thuật có thể sẽ giúp mình cứu Henry.”
“Phép thuật nào?” Benjamin nói một cách gan dạ. “Mà làm cách nào?”
“Mình không biết, mình… chừng nào mình đi vô đó mới biết!”
“Rủi bồ không ra được thì sao?”
“Đừng có ngốc thế, Benjamin. Không phải là mình sẽ đi vô một thời gian khác kiểu như anh Henry đâu. Mà nó sẽ giống như là khi mình nghe được những tiếng nói vậy. Mình không đi thẳng vô bức hình. Chỉ có tâm trí mình đi vô thôi.”
“Hừm,” Benjamin làu nhàu. “Cẩn thận đấy.”
Nó quay đi và băng qua đường cùng với con Hạt Đậu nhảy cỡn lên bên cạnh.
Charlie chạy lên những bậc cấp nhà số 9. Nó ước gì vừa rồi nó đừng có hét lên với Benjamin như vậy. Thiệt tình mà nói, nó cũng sợ những gì có thể sẽ xảy ra khi nó đi vô căn phòng của thầy phù thủy.
Mẹ Charlie đã sắp sẵn quần áo sạch trên giường cho Charlie chuẩn bị đến trường. Charlie bắt đầu xếp đồ vô túi. Nó để bức tranh lại sau cùng. Không nhìn vô bức tranh, nó bắt đầu bọc lại trong một chiếc áo sơ-mi. Nhưng khi lật bức tranh lên, nó chợt trông thấy dáng hình đen đen của ông thầy phù thủy. Một lần nữa, gương mắt ấy lại quay về phía nó.
“Lẹ lên!” Thầy phù thủy giục.