Dịch giả: HƯƠNG LAN
Chương 13
THẦY PHÙ THỦY TỰ DO TUNG HOÀNH

Charlie chưa bao giờ tới thư phòng của giáo sư Bloor. Dù sợ run, nhưng nó cũng không ngăn nổi tò mò.
“Tôi đã tới đó rồi,” Gabriel bảo khi hai thằng đi theo Billy ra tới tiền sảnh. “Hồi đó tôi mới vô trường. Tôi phải tới đó để giải thích về vụ quần áo của mình. Phòng đó thuộc cái kiểu làm mình cảm thấy cứ như là vừa phạm tội xong. Tôi không biết tại sao.”
Manfred và Zelda đang chờ chúng trong tiền sảnh, và dần dần tất cả những đứa trẻ có phép thuật khác cũng có mặt: Dorcas và Belle, có Asa kè kè sát đằng sau, thằng nay đeo một nụ cười ngờ ngệch; Tancred vẻ hồi hộp, mái tóc nhiễm điện kêu lắc rắc và Emma với một cây viết chì còn giắt sau tai.
“Bỏ nó xuống!” Zelda sủa. “Chỉnh tề lại coi, con kia. Coi bộ dạng mày giống cái gì kìa?”
Emma có vẻ bối rối, cho tới khi Charlie chỉ vô cây viết chì, con bé vội lấy xuống và đút vô túi, cố hết sức vuốt cho phẳng mái tóc vàng.
“A, nhà điêu khắc vĩ đại tới kìa,” Manfred thông báo khi Lysander ủ rũ, lừ đừ đi vô tiền sảnh. “Vui lên coi, rắc rối gì thế, hả?”
“Ông biết rõ quá mà,” Lysander nói đều đều.
Dorcas cười hịch hịch, và đôi mắt khủng khiếp của Belle chuyển từ xanh da trời, sang xám, rồi thành tím. Manfred hình như lúng túng một thoáng, ngay sau đó hắn bảo:
“Billy, dẫn đường. Mày biết ở đâu rồi đấy.”
“Thưa vâng, anh Manfred.”
Billy băng qua tiền sảnh, tới cánh cửa dẫn vô chái phía tây. Cánh cửa cũ mở ra kin kít, và Charlie, đi sát ngay sau Billy, thấy mình ở trong hành lang tối mù, ẩm ướt dẫn lên tháp nhạc.
Chúng tới căn phòng hình tròn ở đáy tháp, và đang định leo cầu thang lên lầu một thì thấy thầy Pilgrim đang ngồi trên bậc thang thứ hai.
“Thưa thầy,”
Billy nói, nhưng thầy Pilgrim không nhúc nhích. Hình như thầy không nghe thấy tiếng Billy.
“Tụi con phải đến thư phòng của giáo sư Bloor, thưa thầy,” Charlie nói.
Thầy Pilgrim nhìn Charlie chằm chằm, lộ vẻ hoang mang.
“Nhiều chuông quá,” thầy nói. “Sao chuông đổ dữ thế? Ai chết vậy? Hay đó là… ta?”
Charlie tính đáp lời, thì Manfred đột nhiên đẩy nó qua bên, và trợn trừng nhìn xuống thầy giáo dạy nhạc, hắn nói:
“Làm ơn tránh chỗ, thầy Pilgrim. Lẹ coi. Chúng tôi đang vội!”
Thầy Pilgrim vén một lọn tóc đen dày ra khỏi mắt.
“Thế à?” Thầy nói với giọng bướng bỉnh, đáng ngạc nhiên.
“Phải. Tránh chỗ!” Manfred thô lỗ ra lệnh. “Lẹ lên. LẸ!"
Khi hắn nhìn trợn trạo vô thầy Pilgrim, con mắt híp rịp của hắn phòng một tia sắc bén, lạnh toát về phía thầy.
Charlie liếc nhìn đôi mắt đen như than của Manfred và nhớ lại cảm giác bị thôi miên như thế nào. Nó rất muốn báo động cho thầy Pilgrim, để thầy chống lại tia nhìn thui chột khủng khiếp đó. Người ta vẫn có thể chống lại uy lực của Manfred mà. Chính Charlie đã làm điều đó một lần rồi.
Nhưng dường như thầy Pilgrim không có sức mạnh, cũng không có ý định để chống lại Manfred. Rên lên một tiếng thảm não, thầy giáo dạy nhạc đứng dậy và quay lại những bậc thang xoáy hẹp. Bọn trẻ nghe thấy tiếng những bước chân của thầy khua tới đỉnh tháp, trong khi Manfred dẫn đường lên lầu một.
Chúng chui qua một cánh cửa thấp, vô một hành lang trải thảm dày nặng. Tại đây, Manfred dừng lại bên ngoài một cánh cửa khác, cánh cửa này được ốp gỗ sồi đen bóng. Hắn gõ cửa hai tiếng và một giọng trầm vang lên:
“Vô đi!”
Manfred mở cửa và lùa tất cả những đứa khác vô phòng.
Đằng sau chiếc bàn cao, rộng, bóng láng là giáo sư Bloor đang ngồi. Gương mặt rộng, xám xịt của ông ta nổi lên dưới ánh đèn bàn màu xanh lá cây. Những tấm rèm đằng sau lưng được kéo lại để che ánh nắng mặt trời, khiến cho căn phòng sách xếp hàng: hàng này chìm trong bóng tối âm u. Giáo sư Bloor vẫy tay ra hiệu, và bọn trẻ lệt bệt tiến lên, cho tới khi chúng xếp thành hàng một trước bàn của ông ta.
Con mắt xám lạnh như thép của ông hiệu trưởng quét khắp lượt những gương mặt của bọn trẻ, và rồi ánh mắt ấy dừng lại ở Charlie.
“Tôi muốn biết ai phải chịu trách nhiệm cho chuyện này,” ông ta ra lệnh bằng giọng lạnh băng.
Cặp giò của Charlie muốn sụm xuống. Nó ghét cái cách giáo sư Bloor nói mà như buộc tội nó như vậy. Nó biết ông hiệu trưởng không có phép thuật, nhưng ông ta cứ làm người ta có ấn tượng rằng ông ta có uy quyền mạnh mẽ, rằng ông ta có thể làm bất cứ điều gì ông ta muốn, và rằng ý chí của ông ta mạnh mẽ tới độ có thể đè bẹp tất cả mọi thứ, hoặc tất cả mọi người.
“Những hậu duệ của Vua Đỏ,” giáo sư Bloor nhếch mép. “Hãy nhìn các trò kìa! Lũ quỷ sứ! Các trò là vậy đấy.”
Manfred cựa quậy vẻ khó chịu, và Charlie tự hỏi không biết cảm giác bị cha mình gọi là đồ quỷ sứ nó như thế nào.
“Tất cả các trò!”
Giáo sư Bloor nạt, và rồi, liếc qua Belle, ông ta sửa lại:
“Hầu hết các trò!”
“Dạ thưa ngai,” Zelda lên tiếng, hơi bạo gan. “Nhưng ý ngài muốn ám chỉ ai phải chịu trách nhiệm cho những tiếng chuông và ếch và vân vân ạ? Tại vì rõ ràng không phải là con. Con bị một con ếch nhảy lên đầu. Đúng là ếch ạ, và chính xác là hai con.”
Charlie biết mình sắp nguy khốn đến nơi, nhưng nó vẫn muốn bật cười.
“Tôi không nghĩ đó là trò, Zelda,” ông hiệu trưởng lạnh lùng. “Tôi nhận thấy rõ ràng mấy món kiểu đó vượt quá khả năng của trò.”
Zelda đỏ rần. Nó ngó xuống đám trẻ nhỏ hơn và nói:
“Con nghĩ đó là Tancred, thưa ngài,”
“Tôi làm ra bão nhà,” Tancred giận dữ cãi lại. “Thời tiết.”
“Gió có thể làm cho chuông kêu, làm cho bầu trời đen kịt và mưa ếch,” Manfred nói.
“Nhưng không làm ra voi!”
Tancred kêu lớn, tóc nó bắn ra những tia lửa điện thật mạnh. Chiếc áo chùng xanh lá cây của nó bây lên, và một làn gió lạnh thổi tung giấy tờ ra khỏi bàn.
“KIỀM CHẾ COI!” Giáo sư Bloor rống tướng lên.
Tancred nghiến chặt răng lại, và Dorcas Loom bắt đầu thu gọn giấy má, rồi đặt lại, từng tờ, từng tờ một, lên bàn.
“Tôi biết ai có khả năng và ai không chớ,” giáo sư Bloor tuyên bố. “Nhưng tôi muốn một lời thú nhận. Các trò hiểu vị trí của tôi chứ?”
Ông ta đứng lên và bắt đầu rảo bước đằng sau cái bàn.
“Dân chúng trong thành phố này đều biết tôi đang chứa chấp những đứa trẻ khác thường, và trong vài trường hợp,” ông ta nhìn thẳng vô Asa Pike, “…có những tài phép không đáng mong ước. Họ chịu đựng các trò là bởi vì họ kính trọng tôi. Chúng tôi là gia đình lâu đời nhất trong thành phố này. Chúng tôi có thể lần theo dấu tích tổ tiên mình tới gần một ngàn năm.”
Ông ta hất hàm về phía những kệ sách.
“Những bức tường sách này đã từng chứng kiến thuật giả kim, thuật thôi mien, thuật bói toàn, thuật hóa thân, ma thuật kỳ ảo không tưởng tượng nổi, thuật đổi dạng, và thậm chí cả…”
Ông ta húng hắng ho và hạ thấp giọng…
“… ma quỷ hiện hình.”
Bất thình lình, giáo sư Bloor ngừng nhịp bước và quay ngoắt lại, nhìn thẳng mặt các nạn nhân của mình.
“Nhưng không bao giờ, không bao giờ, không bao giờ,” ông ta cao giọng lên… “KHÔNG BAO GIỜ để cho những sự kiện ở trong tòa nhà này ảnh hưởng đến cả thành phố. Không bao giờ để cho những cư dân thành phố phải chịu đựng… những thứ lạ đời của chúng ta. Thế mà bây giờ…”
Ông ta dộng nắm tay xuống bàn và thét gầm lên:
“… bất thình lình ngày biến thành đêm, bò chạy lông nhông, chuông đổ rầm rĩ. Các trò có tưởng tượng ngoài kia, trong thành phố như thế nào không?”
Ông ta vung một bàn tay ra ngoài cửa sổ.
“Nguy hiểm. Hỗn loạn. Trong mười phút xảy ra số tai nạn giao thông nhiều hơn cả nguyên năm. Ngài thị trưởng đã gọi điện thoại cho tôi ngay lập tức. Ồ, ông ta thừa biết nguồn cơn của những rắc rối ấy từ đâu ra.”
“Tôi nghĩ chúng ta cũng biết từ đâu ra, thưa ngài,” một giọng vang lên.
Tất cả mọi người quay qua nhìn Belle, con bé nở một nụ cười rộng ngoác, còn đôi mắt thì đổi thành xanh lá cây đậm, xanh như ngọc lục bảo. Nó nói:
“Đó là Charlie Bone. Đúng không, Charlie?”
Miệng Charlie khô đét lại. Nó cảm thấy mắc óc.
“Tôi không biết,’ nó lắp bắp.
“Nói láo,” Manfred hét.
“Đồ hèn,” Zelda rống thêm.
Asa khịt mũi tỏ vẻ không hài lòng.
“Các trò có thể đi,” giáo sư Bloor nói, xua cả bọn bằng một cái phẩy tay.
Ngạc nhiên trước diễn biến bất ngờ của sự việc, mười một đứa trẻ quay ra cửa, nhưng trước khi Charlie ra được tới đó, ông hiệu trưởng nói thêm:
“Nhưng không phải trò, Charlie Bone.”
Gabriel nhìn Charlie đầy thông cảm, trong lúc bị Manfred đẩy qua cửa, nối đuôi bọn kia. Tiếp theo, còn có một mình Charlie với giáo sư Bloor. Ông hiệu trưởng đi đi lại lại, cuối cùng thả mình vô chiếc ghế lớn bọc da, chắp hai tay lại với nhau và đặt lên một thếp giấy ở trên bàn. Ông ta thở dài một tiếng bực bội và tuyên bố:
“Trò khờ lắm, Charlie Bone. Tôi có nghi ngờ, nhưng khi thấy tất cả đám đứng đó rồi, thì tôi không phải mất nhiều thời gian để xác định ra thủ phạm nữa. Tôi đã cho trò một cơ hội để thú nhận. Lẽ ra trò phải biết tận dụng chớ.”
“Dạ, thưa… nhưng con không…” Charlie mở lời.
“Đồ ngu!” Giáo sư Bloor rống vang. “Mày tưởng tao không biết mày có thể làm gì chắc? Tao cũng đã biết về bức tranh mày có thể… đi vô. Tao cũng biết về ‘cái người’ mà mày đã cẩu thả để sổng ra. Còn ai khác gây nên tình trạng hỗn loạn này? Rõ ràng có một thầy phủ thủy đang tự do chạy rông, và tao muốn biết, mày dự tính sẽ làm gì với chuyện này?”
“Ừm… Kiếm cho ra ông ta ạ?” Charlie để nghị.
“Và mày tính làm điều đó bằng cách nào?”
“È… Đi kiếm thôi ạ,” Charlie nói.
“Ối, thông minh quá”! Giáo sư Bloor nói, vẻ mỉa mai.
“Giỏi lắm!” Ông ta cao giọng. “Từ đây cho tới sáng mai, nếu tình trạng lộn xộn này không ngừng lại, thì sẽ có điều tệ hơn thế nhiều dành cho mày.”
“Tệ thế sao, thưa ngài?” Charlie hỏi, cố hắng cho thông cái cổ họng của nó.
“Để tao cho mày biết,” ông hiệu trưởng nói. “Mấy người bà con nổi tiếng của mày đã bảo đảm với tao rằng mày sẽ là một tài sản của ngôi trường này, nhưng cho đến nay thì, mày chẳng là cái quái gì cả, ngoài những phiền toái. Họ rất thật vọng, và tao chắc chắn họ sẽ chấp thuận bất cứ hình phạt nào tao chọn cho mày… thậm chí là họ sẽ phải mất mày vĩnh viễn.”
Charlie rùng mình. Nó nghĩ tới ba nó, mất tích mãi mãi, không ai biết, không ai tiếp xúc được.
“Vâng, thưa ngài,” nó nói. “Bây giờ con có thể đi và bắt tay vô tìm kiếm được chưa ạ?”
“Mày nên làm vậy. Mày không có nhiều thời gian đâu,” đáp lại là một nụ cười nghiêm khắc.
Charlie lao bắn khỏi cửa phòng, lẹ hết cỡ. Song, một khi ra tới hành lang, nó quyết định không quay lại lối hồi nãy nó đã tới đây, mà đi bộ xa hơn một chút vô những khu hấp dẫn hơn của Học viện Bloor. Nó hy vọng rốt cuộc sẽ kiếm ra được một cầu thang dẫn lên gác mái. Vì đó chắc chắn là nơi Skarpo đang ẩn trốn, giữa những mạng nhện và những căn phòng trống ghê rợn.
Charlie rón rén đi trên hành lang trải thảm đất tiền. Nó đi ngang qua những cánh cửa gỗ sồi đen bóng, những bức chân dung lồng trong khung mạ vàng (nó tránh nhìn vô chúng), những kệ ken đầy sách bám bụi, một bộ sưu tập những bộ xương để trong những tủ kính nhỏ, và đầu một con gấu đặt trên một tấm khiên gỗ.
“Ghê quá,” Charlie buột miệng và dấn bước mau hơn, đi bên dưới những con chim nhồi bông và những chùm thảo mộc khô treo thòng xuống từ những cái mắc ở trên trần nhà.
Nó đi tới cuối hành lang và leo một cầu thang hẹp lên lầu hai. Ở đây, nhìn thoáng qua một cái, nó đã thấy một hành lang tối om. Ở đó, phía xa xa, có một thứ gì đó kinh khủng, giống như một chiếc quan tài dựng thẳng đứng vô tường.
Charlie lật đật đi lên cầu thang kế tiếp, rệu rạo và không trải thảm. Ở tầng trên cùng, nó thấy mình lọt vô một hành lang ngột ngạt, chiếu sáng bằng đén khí, mà nó và Emma đã từng đi qua trên đường đi kiếm Ollie. Nó nhớ rõ, những bậc thang dẫn lên gác mái chỉ thả tới nửa chừng, không chạm mặt đất.
Một âm thanh lan về phía nó: âm nhạc. Không phải tiếng dương cầm thánh thót của thầy Pilgrim, mà là một ban kèn đồng, kèm theo một giọng khàn khàn, run run. Charlie dừng lại và lắng nghe. Không thể làm được cái giọng này. Lão Ezekiel chắc chắn sống ở nơi tăm tối, ảm đạm này của khu nhà.
Charlie thận trọng tiến lên phía trước, cho tới khi chạm cầu thang dẫn lên gác mái. Nó vừa leo lên vài bậc, thì chợt có cái gì đó khiến nó phải ngước lên nhìn. Kìa, ở trên đầu cầu thang, có vật gì sáng lấp lánh: một cuộn dây thừng dày, xnah da trời, óng ánh. Nhưng, dĩ nhiên đó không phải dây từng. Giờ, Charlie có thể nhận ra hình một mảng vảy rắn lờ mờ.
Cảm nhận được sự có mặt của Charlie, một cái đầu ngóc lên khỏi cuồn dây thừng, một mảnh dẹp hình tam giác với đôi mắt đen thui và những đốm lạ ở mỏm chóp. Lạ nhất là, có những lông chim mỏng mảnh, màu xanh da trời tòe ra từ cổ con trăn. Thình lình, một tiếng rít, như tiếng nổ ga, bùng lên từ cái miệng chành bành của con vật.
Charlie lùi lại, hụt chân, và rớt phịch xuống hành lang, nằm chèm mẹp. Khi con trăn vừa rít vừa bắt đầu trườn xuống những bậc thang, Charlie ráng đứng dậy và phóng ra cuối hành lang. Nó vừa tính chạy xuống lầu hai, thì cái giọng rít róng của lão Ezekiel cất lên:
“Ai đó? Ai dám phá quấy báu vật của tao hả? Coi chừng đó, bây có là ai, bây cũng sẽ thành BỤI!”
“Bụi?”Charlie vừa lẩm bẩm trong họng vừa lao xuống những bậc thang xoáy trôn ốc và những dãy cầu thang rung kèn kẹt.
“Hư vô. Dê-rô. Không còn gì. Không còn là Charlie.” Nó tự nhủ.
Nó vừa tới chiếu nghỉ phía trên tiền sảnh thì đâm sầm vô gã Weedon.
“Mày làm cái gì trong chái phía tây này hả?” Gã thợ việc vặt ụt ịt. “Đây là vùng cấm vô mà.”
“Cháu đã được phép,” Charlie thở phì phò.
Gã Weedon nhướn mày lên.
“Hả? Ai cho phép mày?”
“Giáo sư Bloor,” Charlie nói.
Dù sao thì chính giáo sư Bloor đã ra lệnh cho nó phải kiếm cho bằng được thầy phù thủy Skarpo.
“Cháu đang đi kiếm một người. Cháu nghĩ chú chưa gặp ông ấy? Ông ấy tóc bạc, râu quai nón và mặc áo thụng đen, đội mũ chỏm giống như…”
“Ra là mày! Đồ ôn dịch oắt con. Hóa ra, mày phải chịu trách nhiệm cho tất cả đống rối loạn ngoài kia, làm tao phải nai lưng dọn dẹp. Đừng có nhắc đến con voi đó. Mẹ kiếp, suýt nữa thì nó giết chết tao lúc tao cố đuổi nó đi.”
“Rồi nó làm sao?” Charlie hỏi, không kìm nổi trí tò mò.
“Biến mất, thế thôi… nhưng phân của nó thì không mất… Cả những dấu chân xấu xí của nó trên bãi cỏ của tao cũng không mất. Nếu tao mà thấy cái lão phù thủy quỷ quái đó, tao sẽ vặn gãy cổ lão.”
“Ồ, cháu không cố ý…” Charlie mới tính nói.
“Tránh đường cho tao đi,” gã Weedon hét. “Tao phát bịnh vì tụi bây rồi. Phép thuật cái con khỉ.”
Rồi gã hằm hằm bước về chái phía tay, bước đi, để lại Charlie vừa lo lắng vừa thở phào nhẹ nhõm.
Phía dưới nhà, bọn trẻ hướng tới cửa ra vườn đang dần dần ùa đầy cả tiền sảnh. GIờ nghĩ giải lao buổi chiều vừa bắt đầu và Charlie quyết định tiếp tục tìm kiếm ở ngoài vườn.
“Có vụ gì với em vậy?” Fidelio hỏi khi Charlie chạy ra chỗ đám bạn của nó.
“Em phải kiếm ra thầy phù thủy trước chín giờ ngày mai, không thì em sẽ bị băm chết. Mà con tệ hơn thế nữa…En…” Charlie quệt bàn tay ngang cổ họng.
Fidelio và Gabriel đề nghị giúp đỡ nó.
“Vô rừng thử coi,” Gabriel đề nghị.
Chúng chật vật chui xuyên qua những bụi cây thấp, rậm rạp bên dưới những cây lớn bao xung quanh sân chơi. Nhưng càng đi sâu vô, chúng càng khó phân biệt những bóng đen lướt quanh những thân cây kia là đặc thật, hay chỉ là bóng ma của những cành lá chuyển động. Nhiều cái trông rất giống một người đàn ông cao lớn, mặc áo chùng đen.
Khi tiếng còi đi săn gọi chúng vô học tiết cuối cùng, Charlie không biết phải làm gì. Giáo sư Bloor đã giao cho nó một nhiệm vụ. Nếu phải tiếp tục tìm kiếm, không khéo nó sẽ phải liều để cho những giáo viên khác cấm túc thôi.
Nó quyết định kiểm tra các phòng ngủ chung. Có tất cả hai mươi lăm phòng ngủ chung nằm rải rác tren6ba tầng lầu, và Charlie mới chỉ thám thính được mười phòng thì chuông bữa tối reng. Giờ nó phải làm gì. Chắc chắn nó không muốn bỏ bữa tối. Thế là nó bắt đầu cuộc hành trình dài từ lầu ba xuống nhà ăn lớn. Khi xuống tới tiền sảnh, nó nghe thấy trong nhà ăn đã rất ồn. Vậy là nó đã xuống rất trễ và hy vọng không bị lỡ mất món đầu tiên. Khi nó mở cửa ra và bước vô bên trong, tiếng ồn ào đang vang lên chói tai. Và rồi ai đó thét:
“Nó kìa! Lỗi tại nó hết!”
Charlie bèn cúi gằm đầu xuống, hy vọng không bị ai thấy. Nhưng lúc này tất cả mọi người đều đang nhìn nó. Ai đó đã loan truyền tin tức rồi. Rằng Charlie Bone phải chụ trách nhiệm cho mưa ếch, trời tối, con bò điên, dơi hóa vàng và con voi biến mất. Tệ hơn cả, nó phải trách nhiệm cho bữa tối nay.
Khi Charlie lách vô ngồi trên ghế băng cạnh Fidelio, nó thấy một đụn bắp cải và một lát bánh mì coi bộ đã thiu nằm trên dĩa của mình. Phần ăn của tất cả những người khác cũng tương tự.
“Cái gì đây?” Charlie lẩm bẩm với Fidelio.
“Có rắc rối trong nhà bếp,” Fidelio hạ giọng giải thích. “Đúng ra chúng ta sẽ có món xúp trứng, nhưng một trong những phụ tá của bà bếp trưởng thấy trong kho thực phẩm đầy gà, thay vì trứng. Nghe kỹ đi sẽ thấy tiếng gà.”
Đúng vậy, Charlie nghe thấy tiếng gà cục cục phía sau cánh cửa vô nhà bếp. Tim nó se thắt lại.
Sau khi ngó theo Charlie ngồi vô chỗ, cả đám còn lại ở bên bàn bắt đầu trệu trạo nhai phần bánh mì và bắp cải của mình. Những tiếng càu nhàu, cằn nhằn, ghê tởm, và tiếng “Èèè!”, “Gớm”, “Tởm”, “Khiếp!”… nổi lên xung quanh Charlie.
Nhưng Billy Raven, ngồi đối diện với Charlie, thì thầm:
“Thiệt tình, ăn bắp cải cũng không sao hết.”
Và rồi, từ dãy bàn của khoa kịch, Damian Smerk hét lanh lãnh:
“Đồ ăn gớm quá. Tao muốn thọc bàn chân vô cổ họng thằng Charlie Bone.”
“Im ngay thằng mập,” giọng Olivia tiếp liền. “Đó không phải lỗi của nó.”
“Chứ còn lỗi của ai. Đồ bắp cải nhũn…”
Những lời chửi rủa thô lỗ của Damian Smerk bị chìm trong tiếng hét lớn của Dorcas Loom:
“Charlie Bone đáng bị ép ăn ốc sên suốt đời.”
Nói đoạn con nhỏ phá lên cười ha hả, và những đứa bạn ngồi kế nó bên khoi hội họa cũng cười hùa theo.
Để bảo vệ Charlie, Tancred phun ra một câu nhận xét gì đó mà Charlie gần như không nghe được, nhưng rõ ràng là câu đó bậy bạ đến nỗi gây ra những tiếng kêu khiếp đãm và sững sờ.
Giáo sư Bloor đứng phắt dậy và nhìn xuống khắp phòng. Ông ta vừa tính nói gì đó thì cơn giận của Tancred đã trấn áp liền. Một luồng gió mạnh thổi suốt nhà ăn, làm dĩa với ly bỗng trượt dài khắp các bàn. Những phần ăn tối bị hất tung xuống đất, và tất cả đội ngũ giáo viên đồng loạt đứng dậy, sửng sốt.
“Đủ rồi!” Giáo sư Bloor gầm vang. “Tancred Torsson, hãy TỰ KIỀM CHẾ!”
Ông hiệu trưởng đứng mấp mé trên rìa bục, hai tay chắp sau mông, quắc mắt nhìn Tancred, trong khi cậu bé giông bão bình tâm lại và những bàn ăn tối từ từ trở lại bình thường.
“Hừ, đi lấy đồ hốt rác và giẻ lau lại đây, ngay,” giáo sư Bloor quát Tancred. “Trò phải dọn dẹp cho sạch những gì trò gây ra.”
“Vâng, thưa ngài,” Tancred lừ thừ đi ra khỏi nhà ăn, loay hoay cố giữ cho yên chiếc áo chùng xanh lá cây của mình.
Charlie cảm thấy tội lỗi. Tất cả là do lỗi của nó. Tancred đang phải trả giá cho sự bất cẩn kinh hoàng của nó – để thầy phù thủy thoát ra ngoài. Cho nên, nó gần như nhẹ nhõm khi nghe giáo sư Bloor gọi:
“Charlie Bone, đứng lên.”
Charlie đứng lên, đầu gối run rẩy, hai tay túm chặt lấy cạnh bàn.
“Trò biết trò phải ở đâu rồi chứ?” Ông hiệu trưởng nói bằng giọng sắt đá.
“Ừm, con không rõ thưa ngài,” Charlie nói.
“Tìm kiếm, tìm kiếm, tìm kiếm!”
“Con có tìm kiếm rồi, thưa ngài. Con không thể kiếm ra… nó… à… ông ấy.”
“Tôi chắc chắn có một chỗ trò chưa lùng sục, đúng không?”
Ông ta chờ một câu trả lời, nhưng thấy Charlie không trả lời, ông ta liền lặp lại:
“ĐÚNG KHÔNG?”
Bằng giọng lí nhí, Charlie đáp:
“Vâng, thưa ngài.”
“Đó là ở đâu?”
“Trong khu lâu đài hoang, thưa ngài.”
Tất cả mọi dao, nĩa chợt im lìm. Tất cả mọi cái miệng đều bất động. Tất cả mọi con mắt đều dán vô Charlie. Và tất cả mọi người trong phòng đều vui mừng vì mình không phải là Charlie Bone.
“Thế thì trò nên đi ra ngoài đó, đúng không?” Giọng giáo sư Bloor rống lên đầy đe dọa.
“Vâng, thưa ngài.”
Charlie liếc vô đống bắp cải của nó và rời khỏi nhà ăn.
Ngày nắng sáng đã biến thành âm u và ẩm ướt, và Charlie run cầm cập khi chạy về phía khu lâu đài hoang. Đi vô lâu đài hoang cùng với một người bạn lúc ban ngày là một chuyện, đi một mình vô đó khi hoàng hôn buông xuống lại là chuyện khác.
Những bức tường cao, đỏ quạch bị vùi một nửa trong đám rừng. Và khi Charlie bước qua cánh cổng vòm cao, nó dừng lại để thở, và để ra quyết định. Nó đang ở trong một mảnh sân lát gạch đối mặt với năm cổng vòm bằng đá, mỗi cổng là một lối khác nhau đi vô khu lâu đài hoang. Nên chọn lối nào? Cuối cùng, Charlie quyết định đi qua cổng giữa, vì nó biết lối này dẫn tới đâu.
Nó bước vô một lối đi tối tăm, nơi có những sinh vật nhỏ chạy nhốn nháo quanh bàn chân nó, và có những thứ gì ướt át, nhơn nhớt, nhúc nhích dưới những kẽ ngón tay nó khi nó xòe một bàn tay ra để giữ thăng bằng. Cuối cùng nó ló ra ở một vùng sáng, rồi lại băng qua một khoảnh sân gạch khác, đi xuống một dãy cầu thang đá, tới một trảng trống có những bức tượng để đứng viền quanh. Ở chính giữa trảng trống là một hầm mộ đá. Leo lên nắp mộ rêu phong, Charlie đứng lên và lắng nghe.
Nó hy vọng từ vị trí này, nó sẽ nghe được tiếng cọt kẹt, hay sột soạt gì đó, có thể chỉ ra vị trí của Skarpo. Nhưng thật vô vọng. Những âm thanh ập lại từ tứ phía: tiếng lá xao động, tiếng gạch vỡ, tiếng gió thở dài, và tiếng những bàn chân tí hon quờ quạng không ngừng.
Charlie nhảy xuống khỏi nắp mộ, rồi bước qua cái vòng tròn tượng đá, tới một lỗ trống trong bức tượng phía sau những bức tượng. Nó loạng choạng đi xuyên qua những bụi mâm xôi và những bụi tầm ma gai góc, lảo đảo bước qua những bức tường đổ, và té nhào xuống những bậc cấp ngầm, và rồi nó cất tiếng gọi:
“Skarpo! Skarpo! Ông có ở đó không? Làm ơn, làm ơn nói cho tôi biết. Tôi có thể làm bất cứ việc gì cho ông nếu ông giúp tôi vào lúc này.”
Charlie nhận ra như vậy là thật ẩu và liều, nhưng nó đã tuyệt vọng rồi.
Bóng tối đổ xuống những bức tường, cây cối thở than và chim chóc xao xác, kêu thảm thiết trong gió.
Charlie nhìn đồng hồ đeo tay. 9 giờ. Giờ làm bài tập về nhà đã hết. Tất cả bạn bè nó chắc hẳn đã lên giường nằm cả rồi. Giáo sư Bloor không bảo nó khi nào thì trở về. Hay là ông ấy muốn nó phải ở trong khu đổ nát này suốt cả đêm?
“Không được rồi.”
Charlie lẩm bẩm một mình. Nó biết cái gì thỉnh thoảng vẫn lén lút đi vô khu lâu đài hoang khi trời tối: một thằng bé không phải là thằng bé, là Asa Pike đi trên bốn chân, có lông và răng nanh, mắt lóa lên vàng khè, tiếng cười khẩy hằn học biến thành tiếng gầm gừ. Đó là một con thú săn mồi, nhanh nhẹn chết người.
Charlie bắt đầu quay trở lại theo những dấu chân của chính nó. Lao bừa qua những bụi cây thấp, nó ra được tới vành đai tượng nhanh hơn mong đợi. Đang định bang qua trảng trống thì nó thấy một vật di động trên sân gạch phía bên trên. Charlie vội lẩn vô bụi cây đằng sau một bức tượng. Trong chút tia nắng mặt trời còn leo lét, nó thấy một thứ mà khiến da thịt nó nổi gai ốc lên. Một phụ nữ đứng ở đầu những bậc thang, một bà già khú mặc đầm dài màu trắng; mặt xám, da thịt nhăn nheo như mạng nhện, tóc trắng bệt lại thành những lọn lưa thưa, thả trên đôi vai xương xảu.
“Yolanda,” Charlie nín thở. “Belle.”
Ước chi nó đã không đụng phải bà già, và ước chi nó không gặp phải con thú xám ngồi chầu hẩu trong cái bóng đổ xuống của bà ta. Mắt người phụ nữ nheo híp lại, tựa như đang nhìn thẳng vô Charlie, rồi bà ta cất bước đi. Bà ta vừa bước đi, con thú liền theo bén gót, như một con chó. Có điều nó không phải là một con chó, một con sói, hay một con linh cẩu. Nó là một sinh vật xám, lưng còng, đuôi cụp, mắt vàng và mõm như mõm con heo rừng đực.
Charlie nhắm mắt lại và nín thở. Chúng giống nhau, nó nghĩ. Asa và Belle. Cả hai kẻ biến hình. Hèn gì, Asa không thể nào tách rời khỏi Belle.
Trời tối hằn khi Charlie cảm thấy đủ an toàn để đi ra khỏi chỗ nấp. Ngay cả như vậy, nó cũng nhích từng chút một. Nhưng khi đã vượt qua những bức tường của khu lâu đài hoang, nó liền phóng như bay qua bãi cỏ và lao mình qua cánh cửa vườn, té nhào xuống những phiến đá của tiền sảnh, như thể nó vừa bị đập bằng búa tạ.
Toàn nhà im như tờ. Charlie lê mình lên phòng ngủ chung và lăn kềnh ra giường.
“Có được gì không?” Fidelio gà gật hỏi.
“Không,” Charlie đáp.
Nó hoảng loạn nghĩ về hình phạt đang chờ nó. Giờ thì không nghi ngờ gì là nó sẽ bị phạt. Làm sao nó có thể tìm ra Skarpo trước chín giờ? Nó tưởng là nó sẽ không thể ngủ được vì quá lo lắng, nhưng cơn mệt đã thắng nó, ngay khi nó vừa nhắm mắt lại.
Khi tỉnh giấc, Charlie nghĩ nó vừa mới gặp ác mộng. Trời vẫn tối và phía bên kia phòng ngủ chung, Billy Raven hình như đang lảm nhảm nói chuyện một mình. Có mùi kinh khủng phả khắp phòng.
Dmian Smerk lèo nhèo:
“Billy Raven, đuổi con chó ghẻ đó đi khỏi đây ngay. Nó hôi như từ địa ngục vậy.”
Thêm mấy tiếng lầm bầm nữa. Có tiếng móng cà trên nền nhà, và rồi tiếng cánh cửa đóng mạnh lại.
Charlie nhắm mắt lại tiếp, nhưng lập tức một giọng nói thì thầm bên tai nó:
“Charlie? Charlie, anh thức chứ?”
“Ờ?” Charlie ậm ừ.
“Em đây, Billy. May Phúc đang ở đây. Nó nói là bà bếp trưởng muốn gặp anh. Ngay bây giờ. Rất khẩn cấp.”