Dịch giả: HƯƠNG LAN
Chương 18
OLLIE VÀ CON TRĂN

Để thực hiện chuyến đào thoát khỏi Học viện Bloor, Ollie chọn một cánh cửa mà không mấy đứa trẻ biết tới.
Trước khi mất đi lòng háo hức trước tình trạng vô hình đầy mới lạ, Ollie đã kịp tận dụng sự tự do mà vô hình mang lại để thỏa mãn trí tò mò khôn cùng của mình. Một đêm nọ nó đã khám phá ra cánh cửa sau lâu đài này. Nhưng cửa khóa, mà cho dù cửa không khóa đi chăng nữa, chắc chắn nó cũng chẳng rời khỏi tòa nhà. Trời tối là một chuyện, và con một chuyện nữa là nó sẽ đi đâu?
Cánh cửa đó tọa lạc ở phía sau nhà bếp xanh lá cây, nơi bà vợ Bertha của gã Weedon trấn giữ. Những khi Bertha không phải nấu nướng, bà ta sẽ ngồi trong một chiếc ghế bành sờn tưa, đọc truyện kinh dị. Bà ta đặc biệt mê những tiểu thuyết của Agatha Christie. Nhưng ngay cả khi có vẻ như đắm chìm hoàn toàn vô cuốn sách, thì chắc chắn Bertha Weedon vẫn để nửa con mắt của mình vô cánh cửa. Bà ta rất thích để ý chính xác xem ai đang đi vô và đi ra.
Bên ngoài cánh cửa đó có một mảnh sân nhỏ làm nơi đặt những thùng rác. Những người lấy rác thường khua những thùng rác ấy ầm ĩ cả lên. Làm sao mà họ lại không làm như thế cho được? Để ra được tới ngoài phố, họ cần phải đẩy những thùng rác nặng chịch lên một đoạn dốc, và sau đó đi qua hai cánh cổng cao, được trang trí bằng đinh mũ.
Tất cả hàng hóa được giao tới Học viện đều đi qua cánh cổng đôi này, rồi xuống đoạn dốc, hoặc xuống mấy bậc thang đá vốn được chú đưa thư ưa thích (có lần chú ấy đã té lộn nhào từ trên dốc, thủ phạm là một trái chuối mốc meo).
Sáng thứ Ba, Ollie đi xuống nhà bếp xanh lá cây. Con nhện của Emma vừa khít ngón cái bàn chân phải của nó, và nó khoái chí dòm con nhện búng lên trước mặt mỗi khi nó đặt bàn chân phải về phía trước.
Học viện Bloor yên ắng lạ thường, và Ollie cứ tưởng chưa có ai khác thức giấc, cho tới khi nó đi tới nhà bếp xanh lá cây… Bà Weedon đứng ngay bên cạnh cánh cổng sau, trong khi người bán cá và người phụ việc của ông ta ì ạch đi qua với những khay cá đông lạnh thật lớn.
“Vô đó đó! Vô đó!” Bà Weedon la lớn, tay chỉ chiếc tủ đông khổng lồ. “Lẹ lẹ giùm coi.”
Ollie chờ cho tới lúc hai người đàn ông đẩy trượt những khay cá vô trong chiếc tủ đông thì nó liền chớp thời cơ. Nhưng khi nó vừa đặt bàn chân phải nơi bậu cửa, bà Weedon liền phát hiện ra ngay con nhện, và… “PHỤP”… Bà ta đạp lên.
“ÚI!”
Ollie ré lên. Và gần như không suy nghĩ, nó giơ bàn chân trái lên và đá cho bà Weedon một cái, đúng chỗ đau nhất.
“Áááá!” Bà Weedon rú vang.
“Chuyện gì đó?” Người bán cá, tên là Crabb, hỏi.
“Con nhện chết toi đó… nó đang chạy mất kìa!” Bà Weedon gào như bị bóp họng. “Bắt lấy nó… Lẹ lên… Tôi ngạt thở rồi!”
“Bà giỡn chắc,” ông Crabb nói, giọng vui vẻ.
“TÔI KHÔNG GIỠN!” Người phụ nữ cáu tiết rít lên. “Tôi bị thương rồi.”
“Không. Ý tôi là bà đang giỡn về con nhện kìa,” ông Crabb nói.
“TÔI KHÔNG GIỠN!” Bà Weedon gào lên. “BẮT LẤY NÓ!”
“Cái gì… Bắt một con nhện bé xíu hả?” Ông Crabb nói, vẻ ngờ vực.
“Nó không NHỎ! Nó biết đá hẳn hoi,” bà Weedon gào lạc cả giọng.
“Ra vậy,” ông Crabb đã nghiêm nghị hơn. “Ê, Brian. Chúng ta đi thôi.”
Hai người bán cá leo lên những bậc cấp bằng đá, mau hơn bình thường, nhưng không đủ mau để trông thấy một con nhện lớn phóng qua cánh cổng sắt và bắn vọt ra ngoài đường.
Ollie đã không ra khỏi Học viện suốt hơn một năm trời. Giờ, nó không thể nhịn nổi, cứ nhảy chồm chồm và búng mình lên khi vội vã băng qua thành phố. Nó được tự do rồi. Mặt trời đã lên và mái vòm của nhà thờ lớn rực rỡ trong ánh ban mai.
“Ra rồi!” Ollie hát vang. “Ra mãi mãi. Và ta sắp lại là ta!”
Khi tới được nhà thờ lớn, nó ngước nhìn chằm chằm vô tòa nhà cổ kính; choáng ngợp trước độ cao và đám tượng đá chi chít từ cái cổng vòm đồ sộ cứ ngó ra trừng trừng.
“Mình tự do rồi!” Ollie hét lên.
Chẳng có ai ở quanh đấy cả, cho nên nó nhảy nhót khắp quảng trường rải sỏi, hát vang:
“Chẳng bao lâu nữa ta sẽ là ta, ta, TA!”
Ánh mặt trời chiếu cho nó thấy một cửa sổ bày hàng nhỏ, nơi trưng bày những cuốn sách bìa da tựa vô nền một bức màn nhung đỏ.
“Tiệm sách Ingledew.”
Ollie đọc tên tiệm ở bên trên cánh cửa. Nó lượn qua và nhấn chuông.
Một phụ nữ nhìn ra từ một cửa sổ trên tầng hai. Cô nhìn vô khoảng không chỗ Ollie đứng. Ngay cả ở khoảng cách xa như vậy, cô vẫn có thể thấy một con nhện đen to bự mà đứa cháu gái của cô đã làm cách đây vài ngày.
“Ollie đó hả?” Cô gọi.
“Xin chào cô!” Ollie lên tiếng. “Vâng. Là con đây ạ.”
“Chờ ở đó nhé! Một giây nữa cô xuống liền,” cô Ingledew nói.
Một thoáng sau, cánh cửa mở ra, kèm theo một tiếng kính coong vui tai, và cô Ingledew xuất hiện trong chiếc áo choàng màu xanh da trời. Cô có gương mặt xinh đẹp và tươi cười, và Ollie lập tức cảm thấy dễ chịu.
“Vô đi, Ollie,” cô Ingledew mời con nhện, vì không còn thứ gì khác để cô có thể nhìn vô.
Ollie bước vô cửa hàng và ngó chăm chăm quanh những kệ sách. Trông chúng thật thích mắt với những bìa sách êm ái, đắt tiền cùng những gáy sách ép nhũ vàng.
“Một nơi tuyệt diệu!” Nó trầm trồ.
“Cảm ơn con,” cô Ingledew nói.
Cô lo lắng nhìn quanh căn phòng và thấy con nhện nép mình sát bên quầy.
“Cô nghĩ là con muốn dùng điểm tâm,” cô bảo.
“Vâng ạ!” Ollie thở dài. “Cô có chút mứt nào không?”
“Có nhiều chứ. Emma bảo cô mua một ít mứt cho con đấy. Nhưng có lẽ con cũng muốn ăn cả trứng và thịt xông khói nữa nhỉ.”
“Thịt và trứng!” Ollie reo lên sung sướng. “Con chưa hề được ăn một bữa ăn nóng nào hơn một năm nay.”
“Ôi trời ơi,” cô Ingledew nói. “Chúng ta sẽ phải sửa lại ngay lập tức.”
“Và ăn sáng xong con sẽ được chữa chứ?” Ollie nói. “Con gặp con trăn xanh da trời được không? Nó có làm cho con hiện hình lại được không?”
“Cô nghĩ chúng ta nên để việc đó tới tối nay,” cô Ingledew nhỏ nhẹ. “Ban ngày thành phố rất đông đúc và cô không muốn con bị đạp bẹp hoặc bị… bị lạc mất.”
“Con cũng không muốn,” Ollie đồng ý. “Dạ. Để đêm nay vậy. Giờ, con thưởng thức món mứt đó được chứ?”
Trong khi Ollie đang xơi bữa ăn nóng đầu tiên của mình sau bao nhiêu tháng trời, thì bọn trẻ và các giáo viên ở Học viện Bloor vừa mới thức giấc.
Trên đường đi ăn sáng, Charlie quan sát thấy một bầu không khí bối rối trong số những giáo viên đi vụt qua nó. Bầu không khí này thậm chí càng rõ rệt hơn nữa ở trong nhà ăn, khi ban giám hiệu bước bốn bậc thang lên ngồi quay quanh Bàn Danh Dự, trước sự chứng kiến của toàn trường.
Giáo sư Bloor cứ liên tục hắng giọng, như thể sắp sửa thuyết giảng điều gì đó. Nhưng không một lời nào tuôn khỏi môi ông. Trong ông ta thật thê thảm. Mái tóc xám dựng lên nom thật kỳ dị, và gương mặt ông ta ngày thường đã nhợt nhạt thì nay thật tái mét.
Những cái nhìn hoang mang, ngơ ngác hình như đã lan tràn khắp trường. Nơi này vừa trải qua một đêm vô cùng kỳ lạ, nhưng không ai muốn bàn luận về nó. Sự thật là hầu hết mọi người đều cảm thấy hoặc là xấu hổ vì cái sự hèn nhát của mình, hoặc là, như giáo sư Bloor, nhục nhã vì không thể ngăn chặn được cuộc xâm lăng của những hoạt động bất tự nhiên và kinh khủng như thế.
Bầu không khí lạ lùng ấy kéo dài suốt cả ngay. Các giáo viên không thể nhìn vô mắt học trò mình. Bọn trẻ nhìn nhau rồi lại vội vã quay đi. Tất cả mọi người đều đi đứng gấp gáp, không phải là như kiểu để mau chóng tới nơi mình cần tới, mà hình như là để mau mau trốn khỏi cái gì đó ở đằng sau lưng.
Charlie đoán việc này giống như là có bom gài trong tòa nhà. Không ai biết trái bom ở đâu, hay khi nào thì nó phát nổ. Cuối cùng, mọi thứ lên tới cao trào ở phòng Nhà Vua sau bữa tối.
Tancred đúng là tia lửa, nếu có thể gọi đó là tia lửa. Mặc dù nó mệt nhoài sau một đêm hao tốn khá nhiều năng lượng, nhưng không ai không nhận thấy rằng nó rất ư hài lòng về bản thân.
Charlie có quả đủ lý do chính đáng để mà mãn nguyện, nhưng nó biết, sẽ thật là nguy hiểm nếu bộc lộ ra.
Mười một đứa trẻ được ban phép thuật đang ngồi chỗ thường lệ của chúng quanh chiếc bàn, thì vẻ hơn hớn của Tancred bỗng trở nên quá sức chịu đựng đối với Belle.
“Dẹp cái vẻ hí hửng đó ra khỏi mặt mày đi, Tancred Torsson!” Belle giật giọng. “Mày tưởng mấy cơn gió vờ vịt của mày là tài giỏi lắm sao. Mày chẳng là cái quái gì cả. CHẲNG LÀ CÁI QUÁI GÌ!”
“Thế sao?” Tancred nói, ngoác miệng cười rộng hơn. “Ồ, thành thực mà nói, tôi không biết tại sao bà còn mất công đeo cái bộ mặt xinh đẹp đó làm chi nữa. Tất cả chúng tôi đều biết bà thật ra là cái gì rồi, mụ phù thủy già kia!”
Một hơi thở hốt hoảng do sợ hãi phả ra quanh chiếc bàn, Asa đứng bật lên, gầm gừ:
“Rút lời đó lại, thằng khốn!”
“Giờ thấy can đảm rồi à, con thú tí nị kia?” Tancred châm chọc.
Asa đang định xông hẳn qua bàn thì Manfred túm lấy phía sau cổ áo nó:
“Câm ngay, tất cả bọn bây!” Nó thét. “Torsson, xin lỗi mau.”
“Tôi? Tại sao tôi phải xin lỗi?”
“Cô ta kiếm chuyện trước,” Lysander lên tiếng bằng một giọng chừng mực.
“Mày có nghe không,” Manfred rít lên. “Ý tao là, Torsson, mày không tài giỏi tới mức không thể bị trừng phạt, mày biết đấy, XIN LỖI MAU!”
“Quên đi!”
Tancred dựng mái tóc nhiễm điện thẳng đơ của nó lên. Nếu xét về gió thì nó đã kìm được mình một cách đáng nể, nhưng bây giờ, để cho đỡ chán, nó phóng ra một loạt thời tiết mới. Vài hạt mưa rớt lộp bộp lên bàn, và cả bọn vội vã rút sách che lên đùi.
“Lộp bộp, lộp bộp,” Zelda Dobinski cười khẩy. “Tội nghiệp quá. Thế mà cũng gọi là mưa hả?”
Tất cả đều ước gì con nhỏ đừng phun ra câu đó. Phút sau, đụn mây đen nhỏ nãy giờ trôi lêu bêu ở dười trần nhà thình lình vỡ bục ra, và một núi nước trút ào xuống. Nước bắn vô mắt bọn nhỏ, làm ướt sạch quần áo chúng, và ướt sũng hết sách vở.
“Thằng ngu!| Belle rít lên bằng một giọng đùng đục đầy đe dọa. “Mày nghĩ mày là ai kia chứ?”
Bị làn mưa che lờ mờ, Charlie thấy cái điều mà nó hy vọng mình đừng bao giờ thấy một lần nữa. Những nét thanh tú của Belle chuyển thành màu nâu và giống như chó. Hai cái tai phòi ra từ đầu và hai cái cánh to đùng trụi lông bắt đầu tòe ra khỏi vai. Belle đang biến thành một con dơi khổng lồ.
Con dơi giang đôi cánh trần trụi của nó ra, và rú lên một tiếng sôi máu, nó bổ nhào tới Tancred. Thằng bé hét lên “Ááááá”, rồi chui thụp xuống gầm bàn. Tất cả bọn còn lại cũng vậy – ngoại trừ Asa, nó ngồi yên chiêm ngưỡng con dơi với một vẻ sùng bái vô bờ.
Con vật kệch cỡm đó bắt đầu lượn vòng quanh căn phòng, đôi cánh của nó quệt vô những kệ sách và những bức tranh. Chiếc đồng hồ treo tường đâm nhào xuống sàn, nguyên một hàng sách bị gạt bay lên, và rồi, khi Charlie hé mắt nhìn ra từ dưới gầm bàn, nó trông thấy bức tranh Vua Đỏ rung lắc dữ dội, đập thình thình vô tường. Charlie vội nhổm người lên và chạy ra chụp bức tranh đúng lúc nó rớt xuống.
“BỎ NÓ ĐÓ!” Cái giọng dơi kinh khủng vang rền.
Nhưng Charlie không đời nào chịu để cho Vua Đỏ rớt. Nó vừa chụp được bộ khung vàng nặng chịch thì con dơi đạm bổ về phía nó.
Chính giáo sư Bloor là người đã vô tình cứu Charlie. Cánh cửa độtngột bật mở toang ngay trước mặt Charlie, và con dơi tông sầm vô đó. Một tiếng rú kinh khiếp rú lên, bà dơi rớt độp xuống chân ông hiệu trưởng.
“Ôi trời… cái gì… ai?” Giáo sư cà lăm.
“Đồ ngu!” Con dơi rít lên.
“Ô. Nó là…? Tôi thiệt tình hy vọng đã không…”
“Tôi không ngủm đâu, đừng lo,” con dơi the thé. “Ông yêu cầu tôi giúp đỡ, nhưng ông đã không làm gì nhiều để tự giúp mình, đúng không? Ông cứ thế để mọi việc mất hết.”
Trước sự khó chịu khôn cùng của giáo sư Bloor, con dơi bò lên chiếc áo chùng của ông ta, cho tới khi lên tới tận vai, và rồi mụ ta quăng mình bắn ra cửa, hét lên:
“Có người sẽ mang tới một sự ngạc nhiên khủng khiếp.”
Khi con dơi vừa đi khỏi, ông hiệu trưởng lắc lắc vai, vuốt lại chiếc áo chùng, và nói với bọn trẻ, giơ đang lồm cồm chui từ dưới gầm bàn lên.
“Tiếng động phát ra từ trong phòng này ồn không thể chịu nổi. Manfred, con không thể kiểm soát mọi việc hay sao?”
“Được chứ, thưa ngài,” Manfred nói, bỗng đỏ tím tai lên, “Đây là trường hợp ngoại lệ, thưa ngài.”
“Trời đất quỷ thần, con ướt nhẹp hết kìa!” Giáo sư Bloor nhận ra.
“Thằng Torsson,” Manfred nói.
“Torsson, đi lấy nùi giẻ. Bọn còn lại lau dọn phòng. Và phải IM LẶNG!”
Khi ông hiệu trưởng đi ra thì đã 8 giờ. Và những đứa lớn không hề có ý định sẽ lau chùi đống lộn xộn ấy. Billy cáo lỗi là nó bắt đầu ngủ gật rồi, và Dorcas than van là bị nhức đầu. Lực lượng lao động teo lại chỉ còn năm đứa.
“Luôn luôn là tụi mình nhỉ?” Emma vừa nói vừa xắn tay áo lên.
“Mình tự hỏi ai sẽ tới để gây ngạc nhiên khủng khiếp vậy,” Charlie lẩm bẩm.
“Anh chắc chắn là không lâu nữa tụi mình sẽ biết thôi,” Lysander nói.
Vào lúc tám giờ rưỡi, cô Ingledew quyết định là đã tới giờ đưa Ollie tới quán Cà Phê Thú Kiểng. Đường phố lúc đó sẽ vắng và sẽ ít có nguy cơ thằng bé bị dẫm phải hay bị húc ngã. Cô đã được báo chắc chắn là tất cả mọi việc ở quán cà phê đã sẵn sàng.
“Sẵn sàng như không còn gì để làm, cô thân mến,” giọng nhẹ nhàng của ông Onimous trên điện thoại.
Khi cô Ingledew đóng cửa tiệm sách, cô không nhận thấy một con dơi bự cồ đang treo mình bên trên cửa nhà thờ lớn.
“Cô nghĩ tốt nhất là con nắm lấy tay cô,” cô Ingledew ân cần bảo Ollie. “Cô không muốn lạc mất con. Con có phiền không?”
“Không, phiền gì đâu cô,” Ollie nói. “Cô làm con nhớ tới mẹ con. Đã lâu lắm rồi con không được nắm tay mẹ con.”
Cô Ingledew hơi hốt hoảng khi thầy những ngón tay mình biến mất khi được bàn tay nhỏ bé của Ollie nắm lấy. Nhưng cô tự nhủ rằng cô phải biết đón nhận những việc đại loại thế này chứ, bởi vì cô đã là một phần trong thế giới kỳ lạ của Emma.
Họ vội vã ngược lên đường chính, và rồi xuôi về phía hẻm Con Ếch, và mặc dù không trông thấy con dơi bự cồ đang quạt cánh trong những khoảng tối đằng sau lưng, nhưng cả Ollie lẫn cô Ingledew đều cảm thấy hơi tê tê ở sau gáy, như kiểu người ta vẫn hay thấy mỗi khi cảm giác có cái gì đó không minh bạch đang ở ngay đằng sau mình.
Có tới mấy lần cô Ingledew ngoái lại nhìn, nhưng đó là một con dơi ranh ma, và nó liên tục ngụy trang thành một túi rác dựng bên một cột đèn, thành một tấm bảng hiệu, hay một bậu cửa sổ im lìm. Nên nhớ là, đã có vài người trông thấy rõ ràng một con dơi to bất thường vụt ngang qua cửa sổ nhà họ. Một người đàn ông gọi điện tới sở thú; và một người khác gọi cho Đội Cứu Hộ Thú Kiểng. Nhưng kích thước con dơi mà họ mô tả lại quá lớn nên không ai tin cả. Không có sinh vật nào như vậy tồn tại cả, người ta bảo họ như vậy; và chắc chắn đó là một khinh khí cầu, một con diều, hay thật táo tợn khi dám nói ra, rằng đó là do thị lực quý vị kém.
Khi cô Ingledew và người đồng hành vô hình tới nơi quán Cà Phê Thú Kiểng, cô nhấn chuông. Cửa sổ tối om, và mất một phút, tim Ollie như rớt tuột xuống. Rồi cánh cửa cái mở ra, Ollie trông thấy một người đàn ông cực kỳ nhỏ bé, và người đàn ông này đang nhìn thẳng vô mắt nó. Thật là dễ chịu. Bao nhiêu lâu nay Ollie chưa hề được ai nhìn vô mắt cả. Sự việc đó mở đường cho Ollie cảm thấy mình đã là người trọn vẹn trở lại.
“Đây là Ollie,” cô Ingledew nói, giơ những ngón tay bị biến mất của mình lên.
“Đúng rồi,” ông Onimous nói. “Rất vui được gặp cậu, Ollie. Vô đi, cả hai người!”
Ông Onimous dẫn đường băng ngang quán cà phê tối mù, tới một nhà bếp ấm cúng ở phía sau, tại đây Ollie ngạc nhiên trông thấy ba con mèo rực rỡ đang ngồi trên một tủ đông, một con chó vàng đang ngủ gà gật trong một cái ổ, va2mot65 người phụ nữ cao nghều đang làm bánh bột nhào, trong khi một con chuột đen từ trên vai bà ngó xuống coi.
“A ha!” Người phụ nữ cao nhìn kia nói, bà có cái mũi cực dài. “Kẻ biến mất! Chào mừng cậu, Ollie Sparks. Tên bác là Onoria, cậu nhỏ à, là bác Onimous gái.”
Mắt bà hơi dao động một tí khi kiếm điểm để tập trung nhìn. Rõ ràng bà không xuất sc81 bằng chồng trong việc đoán xem người vô hình đang đứng ở đâu. Nhưng su đó thì bà đã làm được tốt.
Ollie không thể không tự hỏi làm sao mà một người đàn ông nhỏ như thế lại chọn một người phụ nữ cao như vậy làm vợ. Trong những dịp thông thường, ắt hẳn Ollie đã hỏi rồi, nhưng đây không phải là dịp thông thường. Thay vào đó, nó nói:
“Nó ở đây à… con trăn ấy?”
“Phải, cậu nhỏ,” bà Onimous chỉ một cái giỏ to ở gần sát chân bà. “Bác luôn phải hát cho nó nghe. Con vật tội nghiệp đó đã sống một cuộc đời chẳng dễ dàng gì.”
“Tôi tự hỏi,” cô Ingledew rụt rè nói, “Có thể uống một tách trả trước khi chúng ta… à… trước khi việc này xảy ra được không?”
“Tôi nghĩ sao mà lại thế này?” Ông Onimous thốt lên. “Phép lịch sự, Orvil, phép lịch sự. Xin mời ngồi, cô thân mến.”
Ông đưa ra một chiếc ghế, và cô Ingledew ngồi xuống với vẻ biết ơn.
Ollie nói nó nên đứng để “chữa trị” thì tốt hơn. Nó nghĩ con rắn sẽ thấy cách đó dễ dàng hơn.
“Con có thể gặp nó bây giờ được không?” Nó hỏi.
Bà Onimous nhấc nắp của chiếc giỏ ra, và Ollie chong mắt ngắm con trăn dễ sợ mà trước kia đã quấn nó thành vô hình. Con trăn này không hoàn toàn giống như Ollie nhớ. Bộ da màu ngọc bích sáng tươi của nó đã nhạt đi, và bây giờ nó có màu xanh da trời óng ánh bạc, dịu mắt. Và hình như nó cũng hơi co lại, có cái gì đó trong dáng điệu của nó tỏ ra thân thiện hơn và nhẹ nhàng hơn.
Cái đầu óng ánh bạc của con trăn đột ngột ngóc lên, và nó kêu chiếp chiếp như chim. Ollie bật lùi lại.
“Con vật dễ thương quá hả?” Bà Onimous thở dài. “Các quý vị dùng trà với sữa và đường nhé?”
“Vui lòng cho sữa thôi,” cô Ingledew nói.
Còn Ollie thì bảo:
“Không ạ, cảm ơn. Hồi nữa con mới khát kìa.”
Trong khi cô Ingledew và gia đình Onimous nhâm nhi trà, Ollie bước đi loanh quanh cái giỏ mây. Con rắn dõi theo thằng bé bằng đôi mắt đen, tí rị của nó. Rõ ràng là nó có thể trông thấy thằng bé. Khi Ollie đứng im, con trăn uyển chuyển trườn ra khỏi cái giỏ mây và bắt đầu quấn quanh hai mắt cá vô hình của thằng bé. Ollie nín thở.
“Ông có nghĩ là nó biết phải làm gì không?” Bà Onimous thì thầm.
“Thì cứ hy vọng đi,” ông chổng nói. “Cậu đã sẵn sàng rồi chứ, Ollie?”
“Dạ rồi. Rất sẵn sàng,” Ollie đáp. “Con đang nghĩ tới chuyện gặp lại anh của con. Con cũng nghị tới chuyện con sẽ về lại Lâu dài Lấp Lánh. Lâu đài có luôn sáng lấp lánh vì anh và ba của con có thể thắp lửa từ đá, hai bác có biết chuyện đó không?”
“Còn con có thể làm được gì?” Bà Onimous hỏi.
Bà Onimous nghĩ tới Ollie như một bệnh nhân, cần phải được chia trí cho quên đi cái công việc đau đớn đang được thực hiện trên thân thể.
“Con chỉ biết chơi sáo thôi,” Ollie nói, vào lúc này nó chẳng cảm thấy đau đớn gì hết.
“Bác rất mong được nghe con chơi,” bà Onimous nói.
Con trăn đang quấn mình thành từng vòng, từng vòng trong không khí. Tuy nhiên, không thấy một cái gì ở bên trong vòng cuốn của nó.
“Giờ con sẽ nhắm mắt lại,” Ollie nói. “để nếu rủi mà không được gì thì con không bị thất vọng, hai bác với cô biết đó.”
“Đương nhiên,” những người lớn nói.
Cô Ingledew đặt tách trà của mình xuống. Cô không thể quan sát. Thật quá sức. Cuộc thí nghiệm sẽ không thành. Ollie tội nghiệp sẽ vô hình vĩnh viễn. Nhưng cô đã quyết định mình có thể làm được gì. Cô sẽ đưa Ollie trở lại tiệm sách và gọi điện cho cha mẹ nó. Dẫu sao thì một cậu bé vô hình vẫn tốt hơn là không có cậu bé nào cả. Và rồi cô trông thấy bàn chân. Trước tiên là bàn chân có con nhện ở ngón cái. Sau đó là chân kia. Chân đất, coi bộ lạnh, hết sức cần có vớ và giày.
“Hai cẳng chân kìa,” ông Onimous nói khẽ.
Đáng ra ông phải la lên kìa, bởi vì con Hạt Đậu, bị xúc động trước những việc tưởng không thể xảy ra được lại đang diễn ra, cứ nhảy chồm lên và bắt đầu sủa.
“Hấp, anh chàng ngoan coi nào,” bà Onimous nói.
Hạt Đậu rừ rừ và nằm xuống, cứ trợn mắt thao láo dòm cái quá trình mà Ollie mỗi lúc mỗi hiện ra rõ. Những con mèo lửa tỏ thái độ như thể trước kia chúng đã từng chứng kiến mấy vụ này rồi. Chúng vẫn im lặng, nhưng cảnh giác.
“Ôi, tội nghiệp thằng bé, trông cái quần nó kìa,” bà Onimous nói, chú ý tới mảnh vải rách te tua gần như không che được hai đầu gối của Ollie.
Con rắn đang leo lên cao hơn, và bây giờ họ có thể thấy một cái áo len chui đầu màu xám sờn tưa, nhỏ hơn cỡ người của chủ nhân ít nhất là hai cỡ, những cổ tay gầy guộc lòi ra thật xa cái ống tay áo mòn xơ xác.
“Trời ơi!” Ông Onimous thốt lên khi cái cổ con trăn cuộn quanh một cái đầu tóc nâu rối tung. Một gương mặt hiện ra giữa những món tóc nâu; nó có hai con mắt to, màu xanh da trời, thâm quầng, một cái miệng nhỏ nhắn, và một cái mũi phờ phạc, trông rất tọc mạch.
“Ôi!” Cô Ingledew thở hắt ra. “Ollie!”
Con trăn bao quanh đầu Ollie cho tới khi trông nó giống như một cái khăn xếp(1) sáng loáng, và lông mày Ollie nhướn lên đầy ngạc nhiên, phấn khích.
“Con trở lại rồi hả?” Nó hỏi. “Con cảm thấy như mình đã trở lại rồi.”
“Chính thế,” ông Onimous nói. “Cậu rất khỏe mạnh và hiện hình thật rồi, Ollie Sparks. Chúc mừng!”
Có vẻ nên vỗ tay mừng, và thế là, tất cả mọi người đều vỗ tay, kể cả Ollie, tuy rất nhẹ, do nó sợ con trăn.
Con trăn có vẻ kiệt sức sau những cố gắng của mình. Quả đúng là kiệt sức, nó nhắm mắt lại và rút vô một vị trí thoải mái ở trên đầu Ollie.
Bà Onimous nhấc con vật ra khỏi Ollie và đặt nó trở vô trong chiếc giỏ.
“Chúng ta phải ăn mừng thôi,” bà nói. “Orvil, pha thêm một bình trà nữa đi. Để tôi đi kiếm một ít bánh.”
Sau một giờ thật đáng hài lòng, với rất nhiều quyết định được đưa ra, cô Ingledew rời quán Cà Phê Thú Kiểng và bươn bả trở về tiệm sách của mình. Cô biết Ollie đang ở trong những vòng tay chăm sóc tốt – nó đang tắm cữ đầu tiên của mình sau hơn một năm. Bà Onimous đã lo trước hết mọi việc. Thằng bé tội nghiệp sẽ có những bộ quần áo mới. Nó sẽ được cắt tóc, và nó sẽ được tẩm bổ, được nghỉ trước cuộc hành trình dài trở về Lâu đài Lấp Lánh, nhà của nó.
Cô Ingledew rất mãn nguyện về kết cục của mọi việc. Cô bắt đầu ngâm nga một bài hát ưa thích nhất của mình. Khi tới ngã tư, suýt nữa thì cô quẹo vô đường Filbert, Chắc chắn cô muốn chia sẽ niềm vui này với Paton Yewbeam, nhưng việc này không thể được, lời buộc tội của nội Bone vẫn còn làm cô lấn cấn.
“Mình không phải là kẻ theo đuổi,” cô Ingledew khẽ lẩm bẩm. “Và mình sẽ không để bị coi là kẻ theo đuổi.”
Cô tiếp tục bước đi, giờ có hơi chậm bước một chút, và hơi nguôi giận, hoàn toàn không nhận thấy con dơi lớn vẫn đang bám theo cô. Ẩn mình vô bóng tối, nó cứ bay đằng sau cô, tới phố Nhà Thờ, và rồi nó bám vô một ống thoát nước, quan sát cô Ingledew bước vô tiệm sách và khóa cửa lại.
Con dơi bay tiếp, xuôi xuống Vòng Cung Ụ Xám, và vô hẻm Ngách Tối. Nó lượn loanh quanh và vỗ cánh phầm phập phía mặt ngoài mái nhà, rồi chui tọt vô một cửa sổ để mở ở tầng trên căn số 13 thứ ba.
Một loáng sau, mụ Yolanda Yewbeam, không còn là con dơi nữa, bước vô phân xưởng may dưới tầng hầm của bà Venetia, chắt gái của mụ.
“Tuyệt,” mụ lẩm bẩm khi chiêm ngưỡng những bộ quần áo nằm rải trên chiếc bàn dài của Venetia. Có những chiếc áo chùng xanh da trời và xanh lá cây, những áo đầm lụa, áo khoác và quần chẽn nhung, những đôi vớ da đủ màu, vòng đeo cổ, áo lót, áo sơ-mi diềm đăng ten, khăn len đội đầu, cùng tất cả những dây nịt và giày thật đỏm dáng.
Bà cô Venetia đang bận đính những khoen xê-quin quanh vạt một chiếc váy đen, dài. Phía bên kia, ở mép bàn, là một đống những hộp thiếc, hũ với hộp. Thỉnh thoảng bà ta lại nhúng những ngón tay vô một trong những đồ chừa đó, bốc ra ít hạt bột màu, một chút thảo mộc, hay vài chấm chất lỏng. Bà ta sẽ bôi những thứ đó vô mặt trái của những khoen xê-quin trước khi đơm chúng vô.
“Làm xong áo chùng chưa?” Mụ Yolanda hỏi.
“Chưa ạ.” Bà Venetia ngước lên, hơi giật mình.
“Tao đoán nếu tao là con bé xinh đẹp đó thì mày thích hơn,” my Yolanda nói, tuổi tác và tâm địa ác độc của mụ đã phơi bày rõ rệt trong đêm nay.
“Không phải, thưa cụ. Cụ làm con ngạc nhiên, thế thôi.”
“Tao mệt quá,” mụ Yolanda nói. “Tao bám theo cái con mẹ chõ mũi đó suốt mấy tiếng đồng hồ. Nó đang giữ thằng bé, tao chắc chắn điều đó. Nó đã nấu mất con ngỗng của bọn ta. Grizelda nói đúng, con đó phải đi đời. Và cả đứa cháu gái khốn kiếp biết bay của nó nữa.”
“Cụ gắn dây nịt chưa?”
“Đứa bạn nhỏ Dorcas của chúng ta đang lo liệu việc đó.”
“Tốt. Cụ ngồi xuống đi. Bỏ mệt nhọc qua một bên nào,” bà Venetia kéo ra một chiếc ghế.
“Tao muốn làm cái áo chùng,” mụ Yolanda gằn giọng.
Mụ ngồi xuống đằng sau chiếc máy may và kéo chiếc áo chùng xanh lá cây về phía mình.
“Cái thằng du côn, cái con thú ranh đó nó tưởng nó quáááá… tài giỏi. Hừ, rồi nó sẽ phải suy nghĩ khác cho coi.”
“Ai vậy, thưa cụ?”
“Cái thằng Torsson. Dám gọi ta là mụ phù thủy xấu xí. PHÙ THỦY!” Mụ Yolanda thét lên.
(1) Khăn xếp: loại khăn đội đầu của người Hồi giáo.