Dịch giả: HƯƠNG LAN
- 7 -
KỲ NGHỈ BỊ HỎNG

Bà cô Venetia lôi Charlie về nhà, móng tay bà bấu chặt cổ nó. Charlie hết thụp xuống lại vùng vẫy suốt dọc đường, nhưng không sao thoát khỏi những móng vuốt cứng như thép đó.
Nội Bone đang đứng đợi họ ở hành lang, mặt bà nặng như đeo đá.
“Tốt lắm, Venetia. Cần phải có đôi chân trẻ khỏe để bắt một tên tội phạm.”
“Cháu mà là tội phạm?” Charlie phản đối.
Nó liếc đôi ủng đỏ của bà cô Venetia. Đôi chân của bà ấy không lấy gì làm trẻ khỏe cho lắm. Bà ấy chỉ gian manh, thế thôi.
Nội Bone thúc nó vô bếp; nó ngồi xuống, xoa bóp cái cổ của mình.
Mẹ Charlie ngước lên khỏi trang báo:
“Có chuyện gì vậy?”
“Chúng ta có một thằng hư đốn,” nội Bone xối xả. “Phải vậy không, Charlie? Và một thằng dối trá.”
“Không phải,” Charlie lầm bầm.
“Ôi! Tao nói ‘phải’ đấy.” Nội Bone ngồi đối diện và ngó lăm lăm vô mặt Charlie. “Nó có một cái thùng không phải là của nó, nhưng nó không thể mở cái thùng ra được.”
Charlie chưa kịp ngăn cho nội Bone ngừng nói, thì bà cô Venetia đã thọc tay vô túi áo nó và rút ra bịch chìa khóa.
“Cái gì đây?” Bà vừa hỏi, vừa rung mớ chìa khóa lạch cạch trên đầu nó.
“Charlie, chìa khóa đó của ai?” Mẹ nó hỏi.
“Không của ai cả. Đó là… một người bạn cho con. Chơi thôi mà.”
“Đồ nói láo,” nội Bone gầm lên.
“Đừng gọi nó như vậy chớ,” mẹ Charlie giận dữ. “Sao mẹ biết được chuyện đó là không có thật”
“Amy thân yêu, tôi biết rõ con trai cô hơn cô đấy,” nội Bone lạnh lùng. “Một kẻ đúng lý ra phải biết rành hơn về cái thùng đã cho thằng bé cái thùng. Một kẻ nào đó không có quyền giữ cái thùng đó, và cái thằng ngu này lại đem giấu nó đi, chắc chắn là ở trong nhà thằng Benjamin.”
“Con không hiểu nội đang nói gì,” Charlie cãi. Nó nhất định không trả lời thêm một câu hỏi nào nữa, và cuối cùng nội Bone đành bỏ cuộc.
Với nụ cười hiểm độc, bà cô Venetia thảy mớ chìa khóa xuống bàn.
“Tốt hơn con nên trả chúng về nơi của chúng,” bà nói, khá ngọt ngào.
Charlie chộp lấy đống chìa khóa.
“Việc này chưa xong đâu,” nội Bone đe nẹt.
“Để thằng bé yên đi,” mẹ Charlie bảo.
“Giờ bọn ta sẽ để mặc nó.” Nội Bone nhìn bà cô Venetia đầy ngụ ý. “Chúng ta vẫn còn con cá khác để tóm.”
Charlie nhẹ cả người khi hai bà đội nón, đeo găng tay và lướt nhẹ ra đường, chắc lại sắp quấy nhiễu ai đó. Nếu Benjamin là nạn nhân họ nhắm tới thì họ sẽ không đời nào vượt qua được con Hạt Đậu.
“Charlie, chuyện gì vậy con?” Mẹ nó hỏi khi chỉ còn hai mẹ con.
“Không có gì đâu, mẹ. Nội Bone muốn biết mọi thứ, nhưng con có quyền giữ bí mật của mình chứ, phải không mẹ?”
“Ờ. Nhưng coi bộ đây là loại bí mật khá nghiệm trọng. Con không thể nói với mẹ đó là gì sao?”
Trông mẹ lo lắng quá, Charlie ghét nhất là phải nói dối mẹ. Nó quyết định ít ra cũng nên hé cho mẹ biết một phần nhỏ của vấn đề.
“Vụ này là về một đứa bé,” nó bắt đầu.
Mẹ nó há hốc miệng kinh ngạc, “Một đứa bé!”
Charlie mong sao mẹ nó đừng có hoảng sợ như vậy.
“Yên tâm đi mẹ, con không đánh cắp ai hay cái gì cả. Bây giờ nó không còn bé nữa, con bé ấy… nó là con gái… cỡ bằng tuổi con. Khi nó còn nhỏ xíu, mẹ nó mất và ba nó đã đem đổi nó lấy một thứ khác…”
“Cái gì?” Mẹ nó vội đưa tay bụm miệng lại.
“Kinh khủng quá mẹ nhỉ? Nhưng mà, ba con bé ấy mới mất. Người bà con duy nhất còn sống của nó muốn gặp lại nó, nhưng bà này không tìm ta cháu mình được. Vì thế con định sẽ đi tìm con bé.”
“Con ấy hả, Charlie? Con không thể đi khắp nơi tìm trẻ lạc được. Ai mà biết được con bé đó đang ở đâu.”
“Mẹ đồng ý,” mẹ Charlie nói, vẻ khổ tâm.
“Con sẽ tìm con bé đó, mẹ ạ,” Charlie cương quyết. “Tức cười thật, nhưng tự nhiên con thấy đó là việc con phải làm.”
Trước sự xúc động cực độ của Charlie, mắt mẹ nó bắt đầu long lanh, nhòa lệ.
“Con giống ba con quá,” mẹ nó dịu dàng. “Mẹ sẽ giữ bí mật cho con, Charlie. Nhưng phải cẩn thận. Bọn họ rất mạnh, con biết đó, những người mà con đối đầu ấy.”
Ánh mắt mẹ nó liếc nhanh lên cửa sổ nói cho Charlie biết chính xác mẹ muốn ám chỉ ai.
Chuông cửa reng. Nghĩ đó là ngoại Maisie lại quên chìa khóa, mẹ Charlie bảo nó ra mở cửa.
Thay vì thấy ngoại Maisie ngoài ngưỡng cửa, nó thấy một thằng bé có nét mặt rạng rỡ. Thằng bé con hao Charlie một chút, tóc sáng, màu nâu nhạt, hơi giống với màu mắt.
“Anh là Fidelio Gunn,” thằng bé nói. “Người ta yêu cầu anh giúp em học nhạc. Anh sẽ là gia sư của em. Em là người may mắn lắm đấy nhé.”
Charlie á khẩu.
“Hôm nay là chủ nhật mà,” cuối cùng nó nói.
Thằng bé toét miệng cười đến mang tai:
“Cả tuần anh bận lắm, không đi được. Anh vô được không?” Nó xách theo một hộp đựng đàn vĩ cầm.
Charlie đã bình tĩnh lại. “Ai gởi anh đến đây thế?”
“Dĩ nhiên là Học viện Bloor,” thằng bé nói một cách nồng nhiệt. “Họ bảo với anh là phần âm nhạc của em cần phải làm việc lại.” Nụ cười của nó thậm chí còn ngoác rộng hơn nữa.
“Âm nhạc của em làm gì có,” Charlie nói, nhe răng cười lại.
Thằng bé lạ mặt bước vô hành lang, không đợi mời. “Đàn piano ở đâu?” Nó hỏi.
Charlie dẫn nó vô căn phòng chỉ dùng cho những dịp viếng thăm của người nhà Yewbeam. Ở cuối phòng, một cây đàn piano kê sát tường. Theo trí nhớ của Charlie thì chưa ai từng đụng đến cây đàn.
“Bùm”, Fidelio mở nắp đàn. Nó lướt những ngón tay khắp các phím ngà. Một giai điệu đích thực nổi lên, một giai điệu khá đẹp.
“Cẩn phải điều chỉnh,” Fidelio nói, “nhưng cũng không cần lắm. Có ai chơi cây đàn này không?”
Charlie chợt nhanh nhẩunoi1, “Hình như ba em có chơi. Em không biết. Ba em mất rồi.”
“Ồ.” Lần đầu tiên kể từ lúc đến, Fidelio trông có vẻ nghiêm túc.
“Chuyện xảy ra lâu lắm rồi,” Charlie hấp tấp nói.
Nụ cười của Fidelio xuất hiện trở lại. Nó kéo ghế đàn ra, ngồi xuống và chơi đàn thật vang, thật hân hoan.
:Các con đang làm gì đó?” mẹ Charlie đứng ở ngưỡng cửa, mặt bà trắng bệch như bị ma thuật.
“Chào cô!” Fidelio nói. “Cháu là Fidelio Gunn. Cháu đến để dạy nhạc cho Charlie.”
“Sao lại thế?” Mẹ Charlie hỏi.
“Vì em ấy là một trong những người có phép thuật và cho dù em ấy không bao giờ là nhạc sĩ, thì em ấy cũng không thể đến Học viện mà mù tịt được, phải không ạ?” Fidelio nở một nụ cười ấm áp với mẹ Charlie.
“Cô cũng nghĩ thế,” mẹ Charlie nói một cách yếu ớt. “Không ai chơi cây đàn piano đó từ… từ rất lâu rồi.” Cô hắng giọng, cổ họng bà khản đặc, “Ừm… các con tiếp tục đi,” cô nói rồi đi xa, đóng cửa phòng lại.
Charlie không thích người ta biết nó có phép thuật.
“Làm thế nào mà anh biết em… có…?” Nó hỏi Fidelio.
“Nếu em sắp vô học khoa nhạc, mà lại không biết đàn lấy một cay xúc xích, thì bảo đảm em phải là một kẻ trong đám đó rồi,” Fidelio nói. “Số còn lại bọn anh đều chỉ có tài thôi.”
Charlie tò mò, “Còn bọn như tụi em nhiều không?”
“Không nhiều,” Fidelio nói. “Anh không biết hết mấy đứa như em. Một số đứa trong số đó thực sự có tài, lại vừa có phép thuật. À mà, em có phép gì?”
Charlie cảm thấy không muốn kể ra lúc này vụ nó nghe được những tiếng nói.
“Em sẽ nói cho anh nghe vào lúc khác,” nó bảo.
Fidelio nhún vai. “Cũng được. Giờ thì tiếp tục học nhạc nào.”
Chúng bắt đầu bằng “mổ cò”, và Charlie vô cùng ngạc nhiên là chỉ sau vài lỗi kinh khủng thì nó cũng xoay sở để đánh được một số nót nhạc cơ bản bằng cả hai tay, trong khi Fidelio chọn lựa giai điệu.
Chừng sau một tiếng đồng hồ, Charlie có thể chơi các thang âm trên nhiều phím khác nhau, và cả một hợp âm rải. Fidelio là một giáo viên vô cùng ồn ào. Nó nhảy lộp cộp quanh Charlie, nhịp chân, gõ lên đàn, xướng âm. Cuối cùng, nó lấy cây vĩ cầm ra và bắt đầu đệm cho Charlie. Chúng tạo nên âm thanh thật tuyệt.
“Giờ anh phải về đây,” Fidelio ngân nga, vung vẩy cái cây vĩ cầm. “Chủ nhật tới anh sẽ lại đến.”
Nó rút từ trong hộp đựng bản nhạc ra một tập giấy và đưa cho Charlie.
“Coi kỹ những cái này và học thuộc các nốt nhạc đi. Được không?”
“Được ạ.” Đầu Charlie vẫn còn văng vẳng tiếng nhạc khi nhìn Fidelio đi ra.
Chiều hôm đó, Charlie mang mấy bản nhạc Fidelio đã để lại cho nó ra xem. Nó nhanh chóng nhận ra là nếu ngồi bên đàn piano thì sẽ dễ học thuộc các nốt nhạc hơn. Nhưng nó chỉ mới ấn được vài phím thì nội Bone bất ngờ xông vô, yêu cầu được biết vì sao nó lại làm ồn ào lên như vậy.
“Con phải học nếu sắp tới vô khoa nhạc, đúng không ạ?” Charlie nói.
Nội Bone khịt mũi và sau đó đặt một cuốn tập to cộ lên cái bàn phòng ăn.
“Học nhạc xong thì bắt tay vô cái này, nghe chưa,” bà bảo.
Charlie không thích cái tập giấy dày cộp, đen thui đó. Ngoài bìa là dòng chữ được in nhũ vàng: HỌC VIỆN BLOOR.
“Đó là cái gì vậy?” Nó hỏi.
“Bài tập,” nội Bone đáp. “Những câu hỏi. Con phải trả lời mọi câu hỏi trong đó. Ta sẽ kiểm tra bài làm của con vào cuối mỗi ngày. Nếu sai thì phải làm lại. Ta nghĩ cần ít nhất một tuần để trả lời hết.”
“Như thế là không công bằng,” Charlie líu lưỡi. “Tiêu hết cả kỳ nghĩ của con rồi còn gì.”
“Không đâu,” nội Bone mỉm cười. “Con có máy vi tính, đúng không? Cứ nghĩ xem, trong vòng một tuần con sẽ biết được bao nhiêu là thứ. Rồi con sẽ gần như một nhà thông thái, phải không Charlie?”
“Con không muốn thông thái,” Charlie làu bàu.
“Nếu mày trả lời không xong mấy câu hỏi này thì tao dám chắc là mày sẽ khốn khổ khốn nạn ở Học viện Bloor đấy.” Nội Bone nổi cáu. “Chứ mày muốn ngay từ đầu đã không ra gì hay sao thế?” Rồi, vẫn mang một nụ cười gằn bực bội, bà rời khỏi phòng.
Charlie không thể tin nổi sao mà mình đen đủi tới vậy. Nó mở cuốn tập ra và đảo qua danh sách câu hỏi. Có năm trăm lẻ hai câu! Và, với cái liếc sơ, nó biết mình không thể trả lời bất kỳ câu nào. Tất cả đều hỏi về lịch sử xa xưa, về những địa danh, về những con người nó chưa từng nghe nói đến. Gay nhất là những câu hỏi về toán và khoa học. Dù với máy vi tính thì nó cũng phải mất nhiều thế kỷ mới trả lời hết phân nửa.
Charlie rên rỉ. Nó đành phải từ bỏ âm nhạc mà xách cuốn tập bìa đen lên lầu. Khi đi ngang qua cửa phòng Ông cậu Paton, chợt nảy ra một ý, nó bèn gõ cửa, hơi ngần ngại.
“Gì đó?” Giọng nói cáu kỉnh quen thuộc vọng ra.
“Con đây mà, Ông cậu Paton,” Charlie nói. “Con xin lỗi đã quấy rầy Ông cậu, nhưng con có chuyện này hết sức rắc rối cần được giúp đỡ.”
“Vậy thì vô đi,” Ông cậu Paton nói trong tiếng thở dài.
Charlie bước vô. Phòng Ông cậu trong còn hỗn độn hơn lần trước. Vài mẩu giấy còn mắc cả vô tay áo ông.
“Chuyện gì?” Ông cậu Paton hỏi.
Charlie đặt cuốn tập lên bàn ông.
“Nội Bone kêu con phải trả lời toàn bộ những câu hỏi này trong một tuần. Hơn năm trăm câu.”
Ông cậu huýt gió, và nói “Một yêu cầu quá sức đấy, Charlie.”
“Làm sao con làm được, Ông cậu Paton?”
“Mày sẽ cần rất nhiều giấy.”
“Thôi mà. Nghiêm túc đi mà,” Charlie đau khổ nói.
“Ta coi là mày đang xin giúp đỡ đi,” Ông cậu Paton đò đưa. “Nếu vậy thì ta cũng không thể bỏ công việc của ta sẽ làm những gì có thể làm được cho mày. Kiến thức bách khoa của ta cũng đáng kể đấy. Chúng ta sẽ giải quyết đống này gọn gàng thôi, ta chắc đó.” Ông cậu vỗ vỗ lên tập giấy đen. “Bây giờ thì đem cái thứ xấu xa này đi đi, và để cho ta yên.”
“Con cám ơn, Ông cậu Paton. Cám ơn, cám ơn Ông cậu!”
Lòng tràn trề biết ơn, Charlie nhảy vụt ra cửa, nhưng lần này, trước khi ra khỏi, nó không thể kìm được, hỏi:
“Chính xác thì công việc của Ông cậu là gì vậy?”
“Ta đang viết một cuốn sách,” Ông cậu trả lời mả không nhìn lên. “Lâu nay ta vẫn viết, và chắc chắn sẽ viết mãi.”
“Sách về cài gì ạ?”
“Lịch sử, Charlie.” Ông cậu Paton giờ đang viết lia lịa một cách giận dữ vô một cuốn sổ. “Lịch sử dòng họ Yewbeam và ông tổ của họ là Vua Đỏ.”
Lại là Vua Đỏ.
“Ông ta là ai vậy?” Charlie hỏi.
“Ông ta là ai à?” Ông cậu Paton nhìn Charlie chằm chằm, như thể không trông thấy nó, như thể ý nghĩ của ông đang ở tận đẩu tận đâu. “Một ngày nào đó, ta sẽ kể cho mày nghe nhiều hơn. Còn bây giờ, tất cả những gì ta có thể nói là, ông ấy là một vị vua… đã biến mất.”
“Ô,” Charlie quyết định tốt nhất là nó nên biến đi, trong khi Ông cậu vẫn còn đang vui vẻ. Nó đóng cửa lại, thật sẽ sàng sau lưng.
Ông cậu Paton đã giữ lời. Hàng ngày ông cho Charlie vô phòng, rồi hai người cùng ngau giải từ đầu đến cuối vái danh sách câu hỏi dài thượt ấy. Ông cậu Paton thực đã không ngoa về kiến thức tổng quát của mình. Quả là đáng nể.
Charlie giải đáp một trăm câu mỗi ngày; như thế, theo Ông cậu đã tính toán, nó sẽ hoàn thành vào tối thứ sáu và sẽ có một ngày nghỉ cuối tuần trước khi vô Học viện.
Vào các buổi tối, nội Bone cho phép Charlie mở đàn piano ra và tập mấy nốt nhạc mà Fidelio đã đưa cho nó để học thuộc. Nhưng có một hôm, nó quên. Nó đói quá nên phải vô bếp kiếm bánh mì bơ ăn. Mới cắn được vài miếng thì nó gục đầu xuống bàn và thiếp đi. Nó choàng dậy thì thấy nội Bone đang nắm tóc kéo đầu nó lên.
“Học nhạc, Charlie!” Bà gào lên với nó. “Không học cho xong thì đừng có mà ăn tối.”
Charlie lê bước đến bên cây đàn piano. Nội Bone dõi theo nó như một con diều hâu, cho đến lúc nó kéo cái ghế đàn ra và ngồi xuống. Nó mệt đến nỗi không nhấc nổi ngón tay; thế nên nó không cố nữa. Ngả người ra sau, khoanh tay trước ngực, nó lầm bầm:
“Phải chi có ba ở đây, ba sẽ dạy mình. Mình nghĩ chỉ có ba mới thích hợp với cây đàn này.”
Nội Bone đã dợm bỏ đi, nhưng ngay lập tức, bà buột miệng:
“Ba con có một cây piano lớn, dựng giữa một căn phòng rộng, sáng trưng. Căn phòng đó chỉ có hai thứ thôi: đó là cây đàn piano và ba Lyell của con. Nhìn qua dãy cửa sổ dài là thấy một hồ nước, nhưng ba con không bao giờ nhìn ra đó, ba con chỉ dán mắt vô bản nhạc trong khi mười ngón tay bấm phím đàn. Thế rồi, Lyell bẽ vỡ lời nguyện.”
“Sau đó chuyện gì xảy ra?” Charlie dũng cảm hỏi.
Nó gần như nghe thấy một tiếng “crắc” trong người nội Bone, khi bà vụt thoát khỏi cơn mơ màng.
“Ba mày đã phá luật, Charlie. Việc xảy ra là vậy. Cẩn thận đừng để việc đó lặp lại với mày đó.”
Trong tích tắc, bà biến mất, và Charlie nhận thấy mình đã tỉnh như sáo. Nửa giờ sau, nó đã thuộc nhiều nốt nhạc đến nỗi có thể đọc được một giai điệu đơn giản, và thậm chí còn đàn được cả giai điệu ấy.
Kể từ khi bị lừa đến nỗi tự phản bội chính mình, Charlie tránh không xem báo hay tập chí nữa. Nó không muốn nghe những tiếng nói. Nó không muốn nghe trộm chuyện riêng tư hay lắng nghe chuyện bí mật của người khác nữa. Mỗi lần mẹ nó mở báo ra đọc, nó lại ngoảnh đầu đi. Nhưng ngoại Maisie bảo phép thuật bẩm sinh của nó nên được sử dụng, để cho vui thôi vậy mà. Cuối cùng ngoại cũng thuyết phục được Charlie lắng nghe hình hai ngôi sao màn bạc mà bà ngưỡng mộ: Gregory Morton và Lydia Smiley.
Bức hình chụp bên hồ bơi. Ban đầu Charlie chỉ nghe được một tiếng tóe nước nhỏ xíu. Nó định đẩy tờ tạp chí ra chỗ khác, đang hy vọng thế là đã mất hẳn cái biệt tài không mong đợi đó, thì một giọng nói vang lên, Phải giảm cân đi thôi em gái. Người em nứt ra khỏi cái bikini kìa.
Đó chắc chắn là giọng của tay phó nháy, bởi vì liền ngay theo sau là giọng Gregory Morton văng tục khủng khiếp, Mày có để người yêu của tao yên không, mày là đồ °°°°!!! Tao thích mũm mĩm, trông…
Lydia Smiley văng tục thậm chí còn nhiều hơn Gregory, cô ta nói, Đủ rồi. Tao chịu hết tụi bay rồi. Cả hai thằng °°°°!!!
Charlie lặp lại những gì nó đã nghe được cho ngoại Maisie và mẹ. Họ phá ra cười lăn cười bò, cười chảy cả nước mắt. Charlie thấy chuyện đó đâu có mắc cười lắm, nhưng tiếng cười của ngoại Maisie dễ lây nên cuối cùng nó cũng bật cười theo hích hích.
“Ôi, Charlie,nghe thêm nữa đi,” ngoại Maisie nài nỉ. “Để coi, tấm này được không?”
Ngoại lại đẩy tờ tạp chí về phía Charlie, chỉ vô hình ngài thủ tướng và gia đình.
Charlie chưa kịp liếc nhìn tấm hình thì cửa mở tung, và nội Bone hiên ngang đi vô. Ngay lập tức bà đoán được chuyện gì đang xảy ra, bèn phăm phăm đến bên bàn, giật lấy tờ tạp chí và kẹp vô nách.
“Sao các người dám làm chuyện này?” Bà hét lên, lườm ngoại Maisie trước tiên rồi lườm mẹ Charlie. “Thằng bé này được ban phép thuật,” bà thò một ngón tay dài dí mạnh vô đầu Charlie, “và các người đang khuyến khích nó lạm dụng phép thuật.”
“Con chỉ…” Charlie cất tiếng.
“Tao thừa biết mày đã làm gì,” nội Bone lạnh lùng. “Ngồi trong bếp mà cười sằng sặc thì đâu có gì đàng hoàng. Mày không xứng đáng với tài phép của mày, thằng ngu. Bây giờ mày biết mày có phép thuật rồi thì phải có trách nhiệm trau dồi nó chớ. Phải trau dồi, phải tôn kính, phải nuôi dưỡng của thừa kế đó chớ… chớ đâu phải lãng phí vô những trò rác rưởi, lố bịch như vầy. Liệu mà dùng nó vô những việc quan trọng.”
Charlie tính cãi là thủ tướng cũng quan trọng vậy, nhưng nó lại suy nghĩ xa hơn. Nó còn hai ngày và hai trăm câu hỏi cần trả lời, nó không muốn phá cơ hội có một ngày cuối tuần rãnh rỗi.
“Tôi chẳng hiểu tại sao lại không để thằng Charlie thỉnh thoảng được vui vẻ một tí,” ngoại Maisie phẫn nộ. “Nó cũng là cháu tôi vậy.”
“Đó là điều không may cho nó,” nội Bone táp lại. “Charlie, về phòng học bài.”
Charlie vội vã chuồn lên lầu, vô phòng mình, để mặc ngoại Maisie và nội Bone ở lại mắng mỏ nhau.
Nó vừa tính ngồi vô bàn thì trông thấy Benjamin băng qua đường. Charlie vẫy tay và mở cửa sổ ra.
“Có chuyện gì vậy?” Benjamin gọi. “Sao mấy ngày nay không thấy bồ? Mình có nhấn chuông nhà bồ hoài nhưng không ai cho mình vô.”
Charlie giơ cuốn tập đen lên.
“Mình có năm trăm câu hỏi phải trả lời,” nó nói với Benjamin. “Giờ chỉ còn hai trăm câu thôi. Mình sẽ rảnh vào cuối tuần. Còn cái-đó-đó sao rồi?”
“Tệ lắm,” Benjamin nói. “Nó vẫn phát ra tiếng động. Có một bà cô đáng sợ của bồ đến. Bà ấy giả bộ đi quyên góp từ thiện, nhưng mình biết mặt bà mà. Bà này cũng giống như bà kia thôi, có điều già hơn.”
“Bồ không để bà ấy vô nhà chư?” Charlie lo lắng hỏi.
“Không. Con Hạt Đậu tung ra cú sủa chết người là bà ấy chạy mất.”
“Thằng Hạt Đậu khá lắm. Bây giờ mình phải đi làm bài thôi, Benjamin.” Charlie thở dài não nề. “Hẹn gặp bồ vào thứ sáu khi mình đã làm xong các câu hỏi.”
“Ờ.” Benjamin phẩy tay một cái. “Kỳ nghỉ điên thật! Mình chẳng gặp được ai cả. Mình sẽ dẫn con Hạt Đậu đi coi phim.”
“Ngoài rạp có chiếu Trái Tim Chó đó,” Charlie nói. “Con Hạt Đậu sẽ thích cho coi.”
Nó đóng cửa sổ lại và quay về với những câu hỏi. Nhưng nó không sao tập trung được. Đầu óc nó cứ nghĩ đến cái thùng màu bạc. Trong đó có gì? Và tại sao những người nhà Yewbeam lại nôn nóng muốn đoạt cho được cái thùng đó đến vậy?