Dịch giả: HƯƠNG LAN
- 9 -
NGƯỜI ĐÀN ÔNG KẸT TRONG GƯƠNG

Vào sáng thứ Hai, Charlie đinh ninh là sẽ gặp Billy Raven trên xe buýt trường, nhưng chẳng thấy tăm hơi thằng bé đâu cả.
Cuối cùng Charlie cũng bắt gặp Billy trong hội trường. Thằng nhỏ bạch tạng này trông có vẻ kiệt quệ có những quầng thâm trũng sâu dưới mắt và gương mặt lộ vẻ bị hành hạ, đói khát.
“Ở nhà thế nào, Billy?” Charlie thì thào ki dàn nhạc giao hưởng nổi lên.
“Tốt,” Billy đáp. “Tuyệt. Thiệt đấy.”
“Anh chờ em hoài. Anh tưởng ba mẹ em chở em tới quán Cà Phê Thú Kiểng chớ.”
“Không. Em… anh biết đấy… nhà em mắc bận,” Billy nói nghiêm trang.
Một trăm đứa trẻ mặc áo chùng xanh da trời cất lên bài hợp xướng đầu tiên, và Charlie đành thôi tạm thời vậy, nhưng sau giờ ra chơi đầu tiên nó thấy Billy trong phòng để áo khoác xanh da trời.
"Billy…” Charlie mở lời.
“Thôi!” Billy hét lên.
Charlie ngó Billy chằm chằm, ngạc nhiên hết sức.
“Thôi vậy,” nó nói.
“Làm ơn đừng hỏi em về nhà em, hay về ba mẹ em, hay bất cứ điều gì đại loại nữa, bởi vì em sẽ không nói cho anh biết đâu.”
Hạ thấp giọng, thằng bé thêm.
“Em không nói được.”
Trong thoáng chốc, Charlie bối rối. Gia đình de Grey rõ là đã đe dọa Billy và Charlie không muốn chuốc rầy rà cho thằng bé.
“Thôi vậy. Có lẽ em chỉ cần cho anh biết em có lấy cây gậy phép của anh hay không?”
Gương mặt tái xanh của Billy chợt đỏ rân.
“Em…” Nó chật vật với câu trả lời.
Cuối cùng, nó nói nhỏ:
“Em xin lỗi, anh Charlie. Thực tình xin lỗi.”
“Anh nghĩ em đã đưa nó cho Manfred.”
Lặng lẽ, Billy gật đầu.
“Để anh đoán coi. Hắn đe dọa em sao đó. Xem ra hắn bảo em sẽ không được về nhà mới gì hết.”
Billy lại nín thinh, gật đầu một cái nữa.
Charlie thở dài:
“Phải chi em đừng làm thế, Billy, nhưng anh nghĩ anh cũng không thể trách em được.”
Charlie rời phòng để áo khoác và quầy quả đi tới lớp học của nó. Một tràng cười rộ lên, dội về phía nó khi nó tới phòng học của thầy Tantalus Ebony. Khi bước vô, nó thấy một nửa lớp đang cười khúc khích.
Tantalus Ebony ngồi sau bàn, cằm gục xuống ngực. Cái mũ trùm màu tím bao bọc kín đầu, mắt nhắm tịt và thầy đang ngáy ầm ĩ. Charlie ngồi vô chỗ của mình, kế bên Fidelio, cậu này nằm xoài ra bàn, cười ngặt nghẽo, rung cả người. Charlie cũng không nén được cười, mặc dù nó vẫn hé mắt để ý ông thầy đội mũ trùm.
Bất thình lình, cái đầu của Tantalus Ebony giật ngóc lên và ông ta rống vang:
“Im!”
Giọng ông ta nghe hoàn toàn khác. Tuần trước ông ta có giọng the thé, nhưng giờ đây giọng ông ta nghe rồ rồ từ dưới hang sâu vọng lên. Tiếng rống như một cú điện giật đến nỗi cả lớp đột nhiên im bặt.
Tantalus Ebony hình như hơi chờn chợn vì cái giọng đục sâu phụt ra khỏi họng mình.
“E hèm,” ông ta nói, hắng cho thông cổ. “Ừmm! Ừmm!”
Thiệt khó mà ngó thẳng mặt lên trong khi ông thầy kỳ dị đang chìm trong một cơn ho khạc, rít, hít và thở phù phù, nhưng không đứa học trò nào trong lớp dám để lộ ra một nét cười trên mặt. Chúng đánh hơi thấy mùi cấm túc.
Cuối cùng, ông thầy đã tìm ra được giọng thích hợp cho bài giảng của mình, và với giọng hài lòng nhưng đầy quyền uy, ông ta hô lớn:
“Lịch sử thời Trung cổ. Hãy mở sách ra trang bốn mươi ba. Vương triều Plantagenet(°).”
Suốt bốn mươi phút, cả lớp lắng nghe ông thầy Tantalus Ebony mô tả về triều đại vua Henry II và vụ ám sát Thomas à Becket. Đó là một bài học thú vị nhất mà Charlie từng được học. Lúc sắp kết thúc bài học, trước sự ngạc nhiên ngỡ ngàng của tất cả bọn học trò, Tantalus Ebony chợt hỏi:
“Và Vua Đỏ đã ở đâu khi những trận chiến, những vụ giết người và xung đột này xảy ra?”
Không đứa nào biết phải trả lời ra sao. Ông Ebony nhìn thẳng vô mặt Emma Tolly và nói:
“Trò phải biết, Emma-kẻ-được-ban-phép-thuật, lẽ nào trò không biết? Trò, kẻ mang dòng máu của nhà Vua trong huyết quản, mang tài phép của nhà Vua trên những ngón tay…”
Rồi Tantalus cúi nhoài người qua bàn và thì thầm đặc:
“… và trong đôi cánh của trò.”
Tất cả lớp nhìn Emma, con nhỏ lắp bắp:
“Em… không biết, thưa thầy.”
“Ngài ở ngay đây, con ngốc. Sống ung dung trong đống đổ nát mà chúng mày có thể thấy ở góc vườn đằng kia. Ai mà nghĩ được rằng một tòa lâu đài cũ mốc, u ám thế kia lại có thể là một mái ấm gia đình? Nhưng mà chính vậy đấy. Nhà vua, hoàng hậu và mười – à không, thứ lỗi cho ta, chín chứ - chín người con sống ở đó với nhau hạnh phúc, cho đến một ngày kia hoàng hậu tạ thế. Hây, hô. Biến cố xảy ra. Và nhà Vua đắm chìm trong phiền muộn bỏ vào rừng sâu, bỏ bê các con của mình, kể cả đứa trẻ mới sinh.”
Ông Ebony lắc đầu. Bây giờ trên mặt ông ta ngự một nụ cười thỏa mãn một cách quái đãn:
“Dĩ nhiên có vô số người hầu kẻ hạ chăm sóc họ, nhưng đâu có giống, đúng không nào? Đâu có giống như có mẹ và cha chăm lo, phải không, Emma?”
"Phải, thưa thầy,” Emma như sắp òa khóc đến nơi.
Charlie tự hỏi tại sao thầy Tantalus Ebony lại xoáy vô Emma. Còn hai đứa nữa được ban phép thuật ở trong lớp kia mà, nó và Gabriel, anh chàng này đang ngồi ở cuối lớp, thấp thỏm vò đầu bứt tóc. Không hề suy nghĩ, Charlie hỏi:
“Thưa thầy, thầy có được ban phép thuật không ạ?”
Lờ tịt câu hỏi đó, Tantalus Ebony chĩa ánh mắt màu xanh nâu của mình vào Charlie và hỏi:
“Con sâu hoang trên đường Filbert ra sao rồi, cậu Bone?”
Charlie hoàn toàn bối rối:
“Gì ạ?” Nó nói khàn khàn.
“Con sâu hoang ấy, Charlie. Nói coi. Có thấy con bướm lạ nòa dạo gần đây không? Loại bướm đêm. Còn ngựa nghẽo thì sao?”
Miệng Charlie hà hốc nhưng chẳng thốt ra được lời nào.
“Không,” Charlie lúng búng.
“Không cái gì?”
“Không, thưa thầy.” Charlie nói.
“Đồ ngu. Ý ta là, không bướm hoặc không ngựa gì sao?”
Đầu óc, Charlie chạy loạn xạ. Một câu hỏi gài bẫy chăng? Charlie chưa kịp quyết thì Fidelio đã nói:
“Trò ấy chẳng thấy con nào trong bọn chúng cả.”
“Ai hỏi mi, đồ xấc láo kia?” Thầy Ebony hét ầm lên. Trong tích tắc, tâm trạng của ông ta biến đổi. Đan những ngón tay vô nhau, ông ta duỗi thẳng cánh tay ra, vươn lòng bàn tay về phía bọn học trò. Tiếng những khớp xương kêu răng rắc đến nỗi da gà, và ông ta hân hoan nói:
“Cả lớp giải tán.”
Gần như kko tin rằng mình lại may mắn thế, Charlie gom hết sách vở và vọt ra cửa. Khi ra khỏi phòng học, nó nghe thấy Ebony huýt sáo một giai điệu hơi quen quen.
“Ông thầy đó khùng hay sao vậy?” Fidelio nói.
“Cứ như có hai con người ấy,” Charlie nói.
“Ba chứ,” Gabriel chen ngang, nó vừa đuổi kịp hai đứa kia. “Khi dạy đàn dương cầm thì ông ta hoàn toàn khác: điềm tĩnh, trang nghiêm, và ông ta chơi đàn cực kỳ hay.”
Emma và Olivia đang sóng bước ở đằng trước bọn con trai, nhưng khi chúng sắp tới tiền sảnh, Olivia quay qua Emma và thét lên:
“Thôi, im đi! Tớ không muốn nói về chuyện đó mà,” và nó chạy băng qua tiền sảnh tới phòng để áo khoác của khoa Kịch.
“Nó làm sao vậy?” Fidelio hỏi.
Emma chờ cho bọn con trai đi tới chỗ nó rồi mới nói:
“Mình nghĩ là tại bây giờ mọi người đều biết nó rớt cuộc thi thử vai. Chuyện lan ra khắp toàn trường rồi.”
“Tôi quên mất chuyện đó,” Gabriel thú thiệt.
“Tội nghiệp,” Fidelio nói. “Chắc nó thấy kinh khủng lắm.”
Charlie thú nhận là đã gặp Olivia kể từ buổi thử vai. Nó kể lại cho cả bọn nghe về người phụ nữ trong tiệm Hoa Thiên Thần, hình như cô ấy biết Olivia và biết nó.
Asa Pike, đang rình mò quanh tiền sảnh, cất tiếng:
“Bọn kia, không được lẩn quẩn ở đó. Bọn bay phải lẹ lẹ đi ăn trưa đi.”
Nhớ tuân thủ luật im lặng, bốn đứa trẻ bước vô tiền sảnh và đi sang phòng để áo khoác của khoa mình.
Billy Raven đang đứng cuối cùng trong đám xếp hàng chờ lĩnh phần ăn trưa thì Charlie và đám bạn bước vô căn-tin.
“Em ngồi chung bàn với anh được không?” Thằng bé hỏi Charlie.
“Được,” Charlie cười toét. Trông Billy sợ sệt đến nỗi không còn tức giận nó được nữa.
Hôm nay có món xúp cà chua và bánh mì vòng. Trong lúc cả bọn xì xụp một cách háu đói, Billy chỉ ngồi ngó trừng trừng vô cái tô.
“Không khỏe hả, Billy?” Fidelio hỏi.
“Ồ, khỏe chứ. Em rất khỏe,” Billy nói một tràng. “Ba mẹ em tuyệt lắm. Họ cho em ăn toàn đồ ngon. Em đã ăn sáng nhiều lắm rồi. Em không ăn thêm được nữa.”
Bọn kia dòm thằng bé trân trân, ngạc nhiên vì bài diễn văn đầy nhiệt huyết ngắn ngủi của nó. Nhưng sau đó Billy chẳng nói gì nữa cho đến hết bữa ăn. Bọn trẻ đang xếp chồng dĩa lại, chuẩn bị đem ra quầy, thì Billy rụt rè hỏi:
“Anh Gabriel, anh có thể nói cho em biết một thứ được không? Nó bị ai đó làm mòn rồi, nhưng nó không phải là một vật bình thường.”
“Ra ngoài kia hẵng đưa tôi coi,” Gabriel nói, bị cuốn hút bởi một vật không bình thường.
Vật đó hóa ra là một cái nút áo. Billy lôi nó từ trong túi quần ra, lầm bầm:
“Hình như là em chưa nói gì hết phải không? Ý em là, em chưa nói gì về nhà mình, đúng không?”
“Chưa.” Gabriel nói, cầm lấy cái nút áo.
Bốn thằng bé đang ngồi trên bãi cỏ ở bên rìa khu vườn, với những bức tường đỏ lở lói của lâu đài hoang phía sau lưng.
“Em tìm thấy nó ở đâu vậy, Billy? Và nó có gì khác thường?” Fidelio hỏi.
“Không nói được,” Billy ngậm chặt miệng lại.
Cái nút áo trông khá bình thường. Lớn và màu đen loại nút áo thường đính trên áo com-lê hoặc áo khoác.
“Tôi cần biết thêm một ít về cái nút,” fr nói. “Em tìm thấy nó ở nhà mới của em phải không? Trong tủ áo? Hay dưới sàn nhà? Em có biết ai mặc chiếc áo mà đính cái nút này không?”
Billy gật gật hai cái và sau đó lác lắc hai cái.
“Rồi. Vậy là chúng ta tiến gần hơn rồi đấy,” Gabriel lật cái nút áo lên. “Tôi nghĩ, có gì thì làm nấy thôi.”
Nó đặt cái nút áo lên những vị trí khác nhau trên thân mình và rồi lên hai bên hông.
“Thiệt khó,” nó nói. “Em biết đấy, tôi không thể mặc nó vô được nên tôi không nghĩ là sẽ có tác dụng… Oái!”
Thân hình còm nhom, dài ngoẵng của Gabriel nảy giật ra sau và nó nhìn xuống cái nút áo mà nó vừa đặt trên túi áo sơ mi bên trái của nó. Có một nhịp đập rất khẽ khi nó ấn cái nút áo cho gần trái tim hơn.
Mắt tròn xoe, Billy nhìn thẳng mặt Gabriel khi cậu bạn lớn này hộc ra một chuỗi những từ cảm thán:
“Quái lạ! Kỳ thiệt!”
Nó nhắm nghiền mắt lại và ba đứa kia lắng nghe trong yên lặng hoàn toàn.
“Có thủy tinh ở khắp nơi. Những bức tường thủy tinh. Không, nó là gương… gương với… với một bóng một người đàn ông tóc đen đang nhìn vào gương. Có tiếng đàn, đàn dương cầm, nhưng tôi không thể thấy cây đàn. Tôi nghĩ người đàn ông đó bị kẹt… kẹt bên trong những tấm gương.”
Thình lình, bầu thinh lặng bị phá vỡ bởi một tiếng thét không phải của người. Tiếng vó ngựa nện quanh đám con trai, chúng chúi người xuồng, đầu cúi rạp, kinh sợ mình sẽ bị những chiếc móng guốc giận dữ xéo bẹp. Chỉ có Fidelio là còn thẳng người, hoàn toàn không nhận ra âm thanh đang khiến bọn bạn nó sợ khiếp đảm kia.
Gabriel, mặt cắt không còn giọt máu, vội quăng cái nút áo ra xa, vào đám cỏ cao gần khu lâu đài hoang, và con thú hình như lao theo cái nút áo. Charlie nhìn lên, thiệt lẹ, và một hình ảnh loáng qua trong đầu nó: một con ngựa trắng với một cái đuôi nhổng vung lên. Và rồi nó biến mất. Nó vụt vào khu lâu đài hoang hay là tan biến trong không khí, Charlie không chắc.
“Vụ gì đây?” Fidelio hỏi.
Chưa đứa nào kịp trả lời thì Billy đã rên rỉ và ôm chặt lấy bụng. Gặp đôi người lại trong đau đớn, nó lăn lộn và nằm rên siết trên cỏ.
“Chuyện gì vậy, Billy?” Charlie ngập ngừng sờ vào vai thằng bé.
“Em không nói được,” Billy rên. “Em đâu có nói về Ngôi Nhà Bất Chợt… Ôôôi… Ôôôi… đúng không? Cái nút áo đó không nói mà, phải không? Em không phá vỡ lời tuyên thệ. Em không… Ựựự… Aáááá… em nghĩ em sắp chết.”
Charlie phóng như bay tới chỗ cô Chrytal, giáo viên trực giờ nghỉ giải lao.
“Billy Raven,” nó hét thất thanh, chụp lấy tay cô. “Nó nói nó sắp chết.”
Cô Chrytal chạy nước rút, băng qua mảnh vườn nhanh hơn Charlie tưởng. Cúi xuống Billy, cô xuýt xoa:
“Ôi, tôi quá. Gì vậy cưng? Bụng con đau à? Ôi, nào nào cưng. Con có đứng dậy được không, Billy?”
Đến lúc này Billy đau quằn quại đến nỗi không sao nói được. Với sự trợ giúp của mấy đứa lớn, cô Chrytal ráng đỡ Billy đứng dậy, nhưng nó vẫn gập người lại trong cơn đau. Thật cẩn thận, họ dìu thằng bé qua vườn,v ô tiền sảnh.
Gã Weedon, đang ngồi bên cửa vườn, ngước lên khỏi tờ báo và hỏi:
“Thằng nhóc sao vậy?”
"Nó không khỏe, ông Weedon,” cô Chrytal đáp. “Ông làm ơn giúp tôi đưa nó tới bệnh xá được không?”
“Không có chi,” gã làm vườn gầm gừ. Gã nhấc bổng Billy lên và vác nó đi khỏi.
Tối đó, Charlie hỏi bà giám thị coi nó đi thăm Billy được không.
“Quên đi,” bà cô Lucretia Yewbeam nói. “Nó không đến nỗi nào đâu.”
“Nhưng nó bị sao vậy?” Charlie hỏi. “Nó ăn trúng gì đó phải không?”
Bà giám thị thảy cho nó một nụ cười lạnh lùng:
“Nó không khỏe nên cái gì mà chẳng làm nó bệnh được. Giờ thì đi ngủ và đừng có quấy rầy nữa.”
Charlie sẽ không buông xuôi dễ dàng như thế được. Ngày hôm sau, trong khi xếp hàng lãnh đồ ăn trưa, nó cúi xuống quầy và hỏi bà bếp trưởng coi bà có gặp Billy không.
“Có mang cho thằng cún ít xúp loãng, Charlie. Nhưng nó không sao nuốt nổi,” bá đáp.
“Chuyện gì xảy ra với nó vậy, bà bếp trưởng?”
“Ta không biết. Nó không nói lấy một lời. Cứ nằm bẹp ra đó. Trông hoảng hồn hoảng vía.”
“Ừm, giờ con biết nó sống ở đâu rồi, bà bếp trưởng. Ở một nơi được gọi là Ngôi Nhà Bất Chợt.”
“Ngôi Nhà Bất Chợt?” Chân mày của bà bếp trưởng nhướn lên, nhưng bà chưa kịp nói gì thêm thì Gwyneth Howells, đứng đằng sau Charlie, đá một cú vô mắt cá nó.
“Đi coi,” Gwyneth rít lên. “Tao muốn lấy khoai tây chiên của tao.”
Charlie buộc phải tiến tới.
Không ai thấy Billy suốt thời gian còn lại trong tuần, và Charlie có cảm giác bồn chồn là thằng bé đã bị lôi trở về với ba mẹ khó chịu của nó, những người chẳng mảy may thương yêu gì nó. Nó bảo nó phá vỡ lời tuyên thệ nghĩa là sao? Gia đình de Grey có đòn bí ẩn gì đó để nắm giữ Billy? Có thể nào họ nhận biết được tất cả mọi điều nó nói và nó làm không?
Charlie suy luận là nó có thể tìm ra thêm nhiều điều qua cái nút áo màu đen. Trong suốt cả tuần, cứ mỗi giờ nghỉ giải lao, nó lại ra đám cỏ bao quanh khu lâu đài hoang. Fidelio đi cùng với nó, bất cứ khi náo thằng này bứt được ra khỏi giờ tập nhạc, và thỉnh thoảng có Gabriel giúp sức, đá cỏ từ bên này qua bên kia, càu nhàu:
“Thiệt tình tôi muốn tụi mình đừng tìm thấy cái nút thì hơn. Nó gây rắc rối quá chừng.”
Và nó ngoái ra sau, trông chừng con ngựa hoang xồ ra từ đâu đó và dẫm chết nó.
Một buổi chiều, khi Charlie đang lui cui tìm kiếm một mình, nó cảm thấy có ai đó đang nhìn nó và nó liền ngước lên, thấy Olivia, ánh mắt con nhỏ liền dán chặt xuống đất gần chỗ Charlie đứng.
“Đằng ấy đang làm gì đó?” Con bé lì xì hỏi. Tóc nó bết bệt, không gội, áo sơ mi bẩn thỉu và đôi giày đế cao su màu trắng, mà dạo này nó bắt đầu hay mang, giờ biến thành màu nâu xám.
“Liv, sao bồ không nhuộm tóc nữa?” Charlie hỏi. “Bồ biết đấy, làm như trước kia bồ hay làm ấy. Những màu đẹp rực rỡ ấy.”
“Việc gì tới đằng ấy,” Olivia vặc lại. “Tớ hỏi đằng ấy đang làm gì đó?”
Charlie thở dài:
“Đang tìm một cái nút áo,” nó nói. “Muốn giúp không?”
Olivia bắt đầu lấy mũi giày cao su sục xuống đất:
“Tại sao đằng ấy lại muốn cái nút áo? Bộ đằng ấy kiếm cái khác không được à?”
“Không. Billy tìm thấy trong nhà mới của nó, và Gabriel, bồ biết đó… tìm ra câu chuyện của cái nút. Nhưng mình muốn biết thêm.”
“Toàn chuyện tâm thần nhảm nhí,” Olivia làu bàu. “Máy người không bao giờ thôi đi sao, hả?”
Charlie sững sờ:
“Liv, bồ vẫn hay giúp đỡ tụi mình mà. Bồ thích tham gia lắm mà. Chuyện quái quỷ gì xảy ra với bồ vậy?”
“Nếu đằng ấy thực sự muốn biết, thì tớ không thể gọt được táo, và tớ phát bệnh vì cái mớ phép thuật…” Nó bỗng ngừng bặt và nhìn trân trối vô khu đổ nát.
“Gì đó?”
“Gì là gì?”
“Tớ nghĩ tớ nghe có tiếng hí, như là một con ngựa!”
“Bồ nghe được? Liv, vậy có nghĩa là…”
“Tớ cóc muốn biết nó nghĩa là gì,” Olivia thét lớn. Nó bỏ chạy, để lại Charlie với ngổn ngang thứ để mà suy nghĩ.
Khi tiếng còi đi săn rúc lên, Charlie ngần ngừ không muốn bỏ dở cuộc tìm kiếm. Tìm cho ra cái nút áo màu đen là tối quan trọng đối với nó. Gabriel mô tả một người đàn ông áo đen bị kẹt trong những tấm gương, có tiếng đàn dương cầm làm nền. Lẽ nào người đàn ông tóc đen đó là ba nó, Lyell Bone? Trước đây Gabriel đã thấy ba Lyell rồi, khi Charlie đưa cho Gabriel chiếc cà vạt của ba nó. Vì vậy nó tha thiết cần Gabriel nhìn lại một lần nữa, và nói cho nó biết coi hai hình ảnh đó có trùng khớp nhau hay không.
Charlie lê bước qua bãi cỏ, là đứa cuối cùng rời khỏi vườn. Khi nó bước vô tiền sảnh, Manfred Bloor xông ra từ phòng của huynh trưởng.
“A. Đúng chóc,” Manfred nói. “Tôi muốn nói chuyện với trò, Charlie Bone.”
“Tới giờ ngủ rồi,” Charlie phản đối. “Em sẽ trễ mất và bị cấm túc.”
“Cái này quan trọng hơn,” Manfred bước tới cánh cửa dẫn lên tháp nhạc và vẫy Charlie. “Đừng lo, tôi sẽ viết giấy cho trò đưa bà giám thị.”
Charlie miễn cưỡng đi theo Manfred xuống hành lang, tới văn phòng của hắn. Khi họ bước tới kệ sách bụi bặm, Manfred nói:
“Tôi nghĩ giờ trò đã biết lối đi bí mật của tôi.”
Hắn ấn ngón tay giữa hai quyển sách ở kệ trên cùng và kệ sách rùng rùng thụt vào trong.
“Đi trước đi, Charlie.” Manfred dẫn Charlie vào trong phòng, và chiếc kệ sách chuyển động trở về vị trí cũ đằng sau hai đứa.
Charlie cảm thấy như bị sa bẫy. Manfred tích trữ được cái của khỉ gì mà cho nó coi? Ngó quanh căn phòng, nó để ý thấy một đống tro ở trong sọt rác. Mùi giấy cháy vẫn còn vương vất, và Charlie tự hỏi tại sao Manfred lại cần lửa trong thời tiết ấm áp như thế này. Cái gì đó xui khiến nó mở miệng:
“Em tin là thầy có một thứ của em, thưa… thầy Man…”
“Và đó là cái gì?”
“Một cây gậy trắng. Billy Raven đưa nó cho thầy.”
“À, ý mày nói là cây gậy phép của mày. Đừng bày đặt giữ kẽ nữa, Charlie. Tất cả mọi người đều biết nó là một cây gậy phép. Ừm, nó bị tịch thu.”
“Thầy không thể thể làm vậy được,” Charlie la lên.
“Đừng có ngu si. Dĩ nhiên tao làm được. Gậy phép bị cấm. Đó là luật mới.”
Charlie á khẩu. Một tràng những lời thô lỗ cứ chực trào trong tâm trí nó, nhưng nó biết nếu nó tuôn ra, thì chỉ có có cho Manfred trừng phạt nó mà thôi.
Tay thầy trợ giảng mới ra hiệu cho Charlie ngồi xuống bên bàn trong khi hắn bước đi loanh quanh trong phòng, sượng sùng mó mảng ria mép lún phún trên cằm.
Cuối cùng, hắn hít một hơi và nói:
“Có một bức chân dung của tổ tiên lẫy lừng của chúng ta ở trong phòng Nhà Vua.”
“Dạ,” Charlie cảm thấy sợ khi Manfred bước vòng ra sau, nó sẽ không nhìn thấy được.
“Tao để ý thấy mày hay nhìn vô đó,” Manfred tiếp.
“Thầy?”
“Đừng giả ngây,” Manfred nói cụt lủn. “Chắc chắn mày nhìn nó. Chúng ta thỉnh thoảng cũng nhìn. Nhưng mày, Charlie Bone, mày có động cơ, đúng không?”
“Em?”
“Im đi, Bone,” Manfred quạc. “Mày muốn đi vô trong đó, đúng không? Và chắc hẳn mày đã vô được rồi nếu không có cái gì đó trong bức tranh cản mày lại.”
“Ồ?” Charlie tò mò. Vậy là Manfred biết về mảng tối đằng sau vai nhà vua – cái người, hay vật, ngăn cản không cho Charlie đi vô bức tranh.
“Trò có bao giờ nghe được gì từ bức tranh đó chưa, Charlie?” Giọng Manfred trở nên mềm mỏng và đầy sức thuyết phục, và Charlie thấy mình đáp lại sự nhẹ nhàng bất ngờ trong giọng nói vốn thường lạnh lùng đó.
“Có, em nghe thấy tiếng cây rung, tiếng ngựa, tiếng yên cương. Thỉnh thoảng có tiếng thép va vào nhau, và tiếng mưa.”
“Không bao giờ có giọng nói của nhà vua?”
“Không, không bao giờ.”
Manfred lại gần và đứng phía bên bàn đối diện Charlie. Chống hai tay xuống cạnh bàn, hắn cúi sát gần Charlie và hỏi:
“Trò có biết tại sao trò không thể nghe tiếng nhà vua không, Charlie?”
“Vì cái mảng tối,” Charlie lặng lẽ đáp.
“Hơn cả một mảng tối, Charlie. Đó là cái bóng của tổ tiên ta, ngài Borlath, con trai cả của nhà vua. Và, Charlie, ngài đã trở lại!”
“Hả?” Charlie ngồi thẳng lên. “Ý thầy là gì?” Một cơn sợ hãi dội lên người nó.
“Ông cố của tao đã tiến hành một cuộc thí nghiệm thú vị nhất. Ông ấy được các bà cô của mày giúp đỡ, và dĩ nhiên cả tao cũng giúp. Phe này tìm thấy con ngựa của ngài Borlath, mày biết đấy, và quan trọng nhất là trái tim của ngài.”
“Trái tim Borlath?” Charlie nín thở.
“Tim của ngài.” Charlie có thể thấy những lằn gân xanh đậm nổi lên trên mí mắt của kẻ thôi miên. “Nó nằm trong một cái tráp bên dưới một bia mộ khắc chữ B. Đúng ra mà nói thì chính Asa đã tìm ra trái tim. Thằng đó thích đào bới khi nó… không phải là nó… nếu mày hiểu ý tao.”
“Em hiểu.” Charlie tránh khỏi nhìn vào gương mặt lù lù của Manfred.
“Con ngựa đó đã sống dậy,” Manfred tiếp. “trong phòng thí nghiệm của ông cố tai. Và cả trái tim của ngài cũng sống lại. Chúng trở nên hòa quyện vào nhau, như chúng vốn thế, và phóng xuyên qua tường… mày có thể trông thấy cái lỗ thùng từ bên ngoài, nếu mày nhìn lên, và nó đi theo mày.”
“Theo em?” Charlie nhảy dựng lên và cái ghế của nó đổ chỏng gọng xuống sàn.
“Tao nghĩ mày cần phải biết,” Manfred xòe rộng đôi bàn tay của hắn ra. “Bởi vì nếu mày bước chệch lối, thì con ngựa sẽ sẵn sàng trừng phạt mày. Những móng guốc có thể gây nên những thương tích khủng khiếp.”
Charlie quyết không cho Manfred niềm thỏa mãn được thấy nó sợ. Nó nhún vai và nói:
“Em nghĩ em phải đi ngủ đây.”
“Dĩ nhiên.”
Manfred ấn kệ sách mở bung ra và Charlie lẹ làng rời khỏi căn phòng. Nó vẫn cảm thấy ánh mắt soi mói của Manfred dõi theo khi nó bước vào tiền sảnh; và nó chạy như bay lên khu phòng ngủ chung mà không một lần ngoái nhìn lại.
Trên lầu bốn, Billy Raven nằm trên chiếc giường hẹp màu trắng ở cuối phòng bệnh xá. Đó là một căn phòng dài thượt, và không một chiếc giường nào trong số mười lăm chiếc giường kia có người nằm. Những cơn đau bụng quặn thắt đã dịu, nhưng Billy tin chắc rằng chúng sẽ quay trở lại nếu nó bép xép chút gì về mái nhà mới của nó. Nó đã vi phạm một lời tuyên thệ, bằng cách đưa cái nút áo đen cho Gabriel? Làm sao những lời tuyên thệ đó biết cơ chứ?
Bà giám thị ngó vào phòng và bảo Billy rằng ngày mai nó sẽ về lại Ngôi Nhà Bất Chợt.
“Cần một chút nghỉ ngơi tách xa bọn bạn mày,” bà ta nói bằng cái giọng lạnh gáy. “Như thế sẽ giúp mày giải quyết các thứ, Billy.”
Bà ta bỏ đi không buông cho nó một lời an ủi, hay thậm chí một ly sửa giảm đau cũng không.
Billy ngó mông lung vào bóng tối dày đặc, không thể ngủ được. Một vầng trăng tròn trôi lơ lửng trên bầu trời, ánh sáng của nó rớt qua cửa sổ không rèm. Billy nghe có tiếng móng vuốt lóc cóc trên ván sàn đi về phía nó. Một giọng quen thuộc cất lên:
“Billy bệnh?”
“May Phúc,” Billy thòng tay xuống và vuốt cái đầu nhăn nheo của con chó. Liệu có bị tính không, Billy tự hỏi, nếu nó kể cho một con chó nghe những điều mà nó không thể kể cho ai khác?
“Ngựa,” May Phúc rù rừ. “Trong vườn.”
“Ngựa?” Billy ngồi bật dậy.
“Ngựa ma,” May Phúc nói.
Billy nhảy khỏi giường và chạy ra cửa sổ. Con ngựa đứng ngay phía dưới: không biến mất, lần này là bóng sinh vậy lừng lững, nhưng rất thật. Bộ lông của nó là một mảng trắng loa lóa dưới ánh trăng, và mỗi sợi lông trên cái bờm và đuôi của nó sáng óng ánh như từng sợi bạc.
Billy mở cửa sổ ra và nhìn xuống con ngựa. Con ngựa bắt lấy ánh mắt của thằng bé và nói:
‘Con,” nó bảo. “Con của ta.”
“Cứu con với,” Billy kêu lên.
Chú thích:
(°)Plantagenet: vương triều vua nước Anh (1154-1485) – trong đó có Vua Henry và vua Richard III.