Dịch giả: HƯƠNG LAN
- 8 -
BỊ THÔI MIÊN

Vào tối thứ Sáu, nội Bone chấm điểm một trăm câu hỏi cuối cùng của Charlie. Nó đã kiểm tra kỹ với Ông cậu Paton, và nó chắc chắn tất cả những câu trả lởi đều đúng. Nhưng nội Bone lại đeo một bộ mặt đanh sắt khi đọc những dòng chữ ngoằn ngoèo của Charlie, làm tim nó bắt đầu thót lại.
Trong phòng nội Bone nóng hầm hập, đã thế Charlie lại phải đứng kế lò sưởi trong khi bà nó thò ngồi bên chiếc bàn nhỏ trước mặt. Đôi cẳng gầy guộc của bà xoãi dài ra dưới gầm bàn, hướng về phía lò sưởi, và Charlie không thể không nhận thấy hai ngón chân cái xương xẩu lòi ra khỏi chỗ đầu vớ lủng. Nó cãm thấy thật gớm guốc.
Rốt cuộc thì nội Bone cũng phết một dấu kiểm bé xíu bên cạnh hàng cuối cùng của trang cuối cùng. Bà ngước nhìn lên, “Chữ viết của mày thật ô nhục.”
“Nhưng con trả lời đúng đấy chứ?”
“Ừ,” bà khịt khịt và hỉ mũi. “Mày có gian lận không?”
“Gian lận?” Charlie hơi run. “Kh… không.”
“Coi bộ mày không chắc lắm.”
“Con chắc chứ,” Charlie cãi lại. “Ý con là, có đúng là nội cho con được phép tra cứu hoặc dùng máy vi tính, đúng không? Và con làm y vậy.”
“Đây là mười câu hỏi nữa.” Bà đưa cho nó một tờ giấy. “Mày phải ngồi tại cái bàn này và trả lời ngay tại chỗ. Ngồi đây tao mới canh chùng mày được. Dễ lắm, cho nên mày không cần phải tra cứu đâu.”
“Nhưng lúc trước thỏa thuận đâu có vụ này đâu,” Charlie rú lên. “Thật không công bằng.”
“Cuộc đời vốn không công bằng,” nội Bone nói. Bà lảo đảo lê bước tới cái giường lồi lõm, rộng rinh của mình, và lăn kềnh xuống đống gối. “Làm đi… càng sớm bắt đầu càng mau kết thúc.”
Charlie lặng lẽ nghiến chặt răng. Tất cả đều là bài tập toán. Nó rên rẩm và bắt đầu. Hai bài đầu ngốn mất của nó cả thế kỷ, và nó vừa chuẩn bị giải bài thứ ba thì chợt nghe có tiếng ngáy đằng sau.
Nội Bone đã ngủ tự hồi nào. Miệng bà há hốc và một âm thanh đùng đục, ụt ịt đang phát ra từ đó. Charlie kiễng chân đi ra cửa, mở thật khẽ khàng, và lỉnh ra hành lang. một tiếng kẹt nhỏ vang lên khi nó đóng cửa lại, nhưng nội Bone vẫn không thức giấc.
Chẳng buồn khoác thêm áo khoác, Charlie lẻn ra đường và chạy tọt sang nhà Benjamin. Lúc nhảy lên mấy bậc cấp, nó nghe tiếng con Hạt Đậu sủa, tiếp liền là ba tiếng ré đinh tai. Charlie nhấn chuông.
Nó nhận thấy có một con mắt hiện ra ở đầu bên kia của lỗ nhòm, và rồi cửa mở ra.
Charlie kinh ngạc khi thấy đứng sừng sững trước mặt nó, không phải Benjamin, mà là ông Onimous.
“Chính là cậu,” ông Onimous nói, cùng với một cú nhảy lò cò. “Chúng tôi đang chờ cậu. Vô đi, vô đi.”
Khi Charlie bước vô nhà, lại có thêm một tiếng sủa điên tiết nữa.
“Thôi nào, Đậu Ván,” ông Onimous gọi. “Lịch lãm tí nào. Lũ mèo lửa của ta không ưa bọn chó thô lỗ đâu.”
Rồi ông nhảy chân sáo qua hành lang cho tới khi chạm đến cửa tầng hầm. Đằng sau cánh cửa là Benjamin đang đứng, một tay túm chặt vòng cổ con Hạt Đậu. Hạt Đậu ta vẫn cứ thò mõm xuống những bậc thang ọp ẹp; tiếng gừ của nó đã biến thành một tràng rống giận dữ.
Charlie đã thấy lý do ngay lập tực: dưới chân cầu thang, ba con mèo của ông Onimous đang lượn lờ vòng quanh cái thùng kim loại. con Dương Cưu đột ngột gừ lên một tiếng kỳ quái và nhảy phóc lên cái thùng. Con Sư Tử, đuôi quật đen đét, giơ vuốt ra tấn công ổ khóa, trong khi con Nhân Mã ngoạm một cái móc dài.
“Cố lên, lũ mèo lửa của ta,” ông Onimous khích lệ. “Bọn bay có thể làm tốt hơn thế mà. Hãy cho chúng ta thấy bãn lĩnh của tụi bay coi!”
Lũ mèo ngóng lên nhìn ông Onimous, những cặp mắt lạ lùng sáng lấp láy, và ngay sau đó, chúng làm một việc hết sức lạ lùng. Chúng bắt đầu chạy vòng quanh cái thùng. Mũi con này chạm đuôi con kia, chúng nối nhau tạo thành một vòng tròn, và khi chúng chạy, vòng tròn ấy sáng dần, sáng dần, cho đến khi biến thành một quầng sáng chói lóa. Những sinh vật đang bốc cháy ấy chạy càng lúc càng lẹ, và thoáng chốc, không còn thấy con mèo nào nữa, chỉ thấy lửa cháy rừng rực quanh cái thùng kim loại. Lửa liếm, lửa đốt, lửa cháy sém cái thùng. Mùi khét lẹt giăng kín căn hầm. Charlie và Benjamin bật ho sặc sụa. Con Hạt Đậu cong đuôi biến mất, rú lên thảm hại.
Nhưng cũng chẳng được gì. Khi ngọn lửa tắt đi, lũ mèo lại hoàn mèo, cái thùng vẫn còn khóa, trơ trơ.
“Cậu phải đi tìm cho ra đúng chìa khóa, Charlie,” ông Onimous nói. “Tiến sĩ Tolly biết mình làm gì khi niêm phong cái thùng này. Có lẽ ông ta cố ý để nó bị khóa lại vĩnh viễn.”
Đám mèo thoăn thoắt leo lên những gióng thang mỏng mảnh. Charlie cảm nhận hơi nóng vẫn còn cháy lèo xèo trên lông chúng khi chúng quệt nhẹ vô đùi nó.
“Chúng là nguồn an ủi to lớn trong những đêm lạnh lẽo,” ông Onimous nói. “Liệu có được một tách cà phê không đây?”
Trong khi nhấm nhpa1 tách cà phê đậm nghét do Benjamin pha, ông ngoại Maisie nói với Charlie rằng trước đó chính ông đã đem cái thùng xuống cất dưới tầng hầm.
“Tôi đã vô nhà khi Benjamin trả tuổi này đang ở bên nhà cậu,” ông Onimous nói. “Hôm ấy là ngày sinh nhật của anh chàng, tôi đoán thế. Không còn dư miếng bánh sinh nhật nào nhỉ.”
“Làm sao ông vô nhà được?” Charlie hỏi, vẻ nghi hoặc.
“Bà mẹ tốt bụng của Benjamin đã mở cửa cho tôi vô,” ông Onimous nói. “Lúc đó bà ấy vừa về tới nhà. Ừm, trước đó tụi tôi, tức là tôi và mấy con mèo lửa, đã thấy cái bà mặc áo đen đi ủng đỏ ấy đang đi thu thập quần áo cũ. Tụi tôi đã biết trước là thể nào bà ấy cũng sẽ tới cửa nhà số 12, hỏi xin quần áo cũ. Mẹ của Benjamin sẽ mở cái tủ âm tường kia, và bà mang ủng đỏ thể nào cũng sẽ trông thấy cái thùng; và mẹ của Benjamin, úi Trời, thể nào cũng sẽ nói, ‘Bà cứ lấy luôn đi. Đồ bỏ ấy mà’. Và một khi bà ủng đỏ kia có được cái thùng rồi thì chấm hết, đúng không nào?... Nhưng cuối cùng, chính tôi với mấy con mèo lửa lại là những kẻ mà mẹ của cậu Benjamin kia cho vô thăm cái tủ âm tường, để tìm diệt chuột mà, cậu hiểu chưa, và trong khi bà ấy pha cho tôi một tách cà phê ngon tuyệt, thì lũ mèo lửa để nghị tôi nên chuyển cái thùng xuống tầng hầm. Cậu rõ chưa?”
“Làm thế nào mà mèo có thể đề nghị chuyện này chuyện kia? Benjamin hỏi.
“Bằng mắt, Benjamin à,” ông Onimous nói, “bằng tiếng meo meo, bằng đuôi quất vun vút, bằng mớ móng vuốt khéo léo.”
Ông đứng lên, vuốt bàn tay nhỏ đầy lông lên tấm áo khoác, và nói:
“Charlie, tôi muốn chúc cậu may mắn. Không dễ gì khi phải đổi trường đâu, ngay cả những lúc thuận lợi nhất. Và Học viện Bloor không phải là một nơi dễ sống. Những gì cậu cần phải làm sẽ rất khó khăn và nguy hiểm, nhưng hãy nhớ, cậu được chọn làm người giải cứu một cuộc đời bị đánh cắp. Chà, một khởi đầu nghề nghiệp mới hoành tráng làm sao!”
Ông chìa bàn tay móng dài như vuốt ra.
Charlie bắt tay ông.
Benjamin hỏi, “Ai đã chọn cậu ấy?”
Ông Onimous chưa kịp trả lời, Charlie hỏi tiếp, “Việc này có liên quan gì tới một ông vua đỏ không ạ?”
“Liên quan tất,” ông Onimous đáp.
Ông không nói thêm lời nào nữa, nhún nhún đi ra cửa và biến xuống đường. Hai thằng bé nhìn theo cái bóng nhỏ thó của ông lướt đi và biến mất chỗ khúc quẹo, theo sau là những cái đuôi của bọn mèo lửa, sáng rực lên.
“Tụi mình quên không hỏi vì sao ông ấy biết chỗ mình giấu cái thùng…” Benjamin tiếc rẻ.
“Còn rất nhiều thứ mình cũng quên không hỏi ông Onimous,” Charlie nói. “Ông ấy là người lẹ mắt lẹ tay nhất mình từng gặp trên đời.”
Cái thùng của tiến sĩ Tolly lúc này đang được an toàn, nhưng nhà Yewbeam sẽ phải mất bao lâu nữa để đoạt được nó? Nó cần phải được chuyển đến một nơi chắc chắn hơn, nơi mà họ không bao giờ nghĩ là sẽ tìm thấy nó.
Charlie nảy ra một ý.
“Fidelio Gunn!” Nó thốt lên.
“Đó là cái gì?” Benjamin hỏi.
“Một anh kia,” Charlie nói. “Thầy dạy nhạc của mình. Chủ nhật này đến đi, bồ sẽ gặp anh ấy. Fidelio có thể giúp tụi mình. Mình biết thể nào anh ấy cũng giúp.”
Benjamin coi bộ còn nghi ngờ. “Tụi mình phải kiếm ra chìa khóa trước đã.”
Charlie đồng ý. “Ngày mai tụi mình sẽ đi kiếm ngay.”
Khi Charlie về tới nơi thì nội Bone đã ra khỏi nhà, đi thăm mấy bà em. Mãi đến khuya bà mới về, cho nên Charlie tránh được mọi sự không hài lòng của bà vì đám câu hỏi chưa được trả lời.
Sáng hôm sau, ngoại Maisie là người duy nhất đã thức giấc khi Charlie bò xuống lầu.
“Con đi vui vẻ nhá, Charlie,” ngoại nói, dúi một trái chuối vô túi áo nó. “Vui được bao nhiêu thì cứ vui cho đã, trước khi quá trễ.”
Charlie không nghĩ “vui” là từ thích hợp để mô tả việc nó sắp làm. Nó cảm thấy việc này quá quan trọng, không thể dùng từ “vui” được. Nhưng nó không nói cho ngoại Maisie biết.
Benjamin đang chờ bên ngoài căn nhà số 12. Nó đã để con Hạt Đậu ở nhà canh giữ cái thùng. Tiếng chó tru lên đau khổ lẵng nhẵng theo chúng tới tận đầu đường.
“Tụi mình đi không lâu đâu nhỉ?” Benjamin nói trong cảm giác có lỗi.
Charlie không chắc. Lại một ngày u ám, lạnh lẽo nữa. Thỉnh thoảng những loạt mưa đá và mưa tuyết quất vô mặt hai đứa, và chúng phải cúi rạp người xuống mà bước để tránh bị những hòn nước đá táp vô, đau nhói.
Người qua lại thưa thớt và con đường dẫn đến Nhà Thờ gần như hoang vắng. Nhưng khi hai thằng đến gần tới tiệm của cô Ingledew, thì bỗng có hai bóng người xông ra khỏi bức màn mưa tuyết, hai thằng bé cỡ mười sáu hay mười bảy gì đó. Chúng dừng lại khi thấy Charlie và Benjamin, rồi hơi tách nhau ra, choán hết cả cái vỉa hè hẹp veo. Khi Charlie bước xuống lòng đường để né chúng, thì một trong hai thằng bé cất tiếng, “Charlie Bone phải không?”
Charlie giật bắn mình. Trước kia nó đã từng nghe giọng nói này rồi. Nó nhìn lên và nhận ra anh chàng đã nhìn nó trừng trừng từ một tờ báo: Manfred Bloor.
“Đi đâu đấy, Charlie Bone?” Manfred hỏi.
“Không phải việc của anh?” Thằng thứ hai vừa cười cừa cất tiếng the thé.
“Đó là việc của anh,” Manfred nói. “Nhưng anh biết rồi. Mày tới tiệm sách được gọi là Ingledew để van xin cái bà Ingledew ấy kiếm chìa khóa cho mày, để mở một cái thùng không phải của mày, cũng chẳng phải của bà ấy.”
Charlie chẳng nói gì. Nó khom người luồn quanh Manfred và định nhảy xuống lòng đường, nhưng bàn tay Manfred đã vươn ra giật mạnh cánh tay Charlie lại. Thằng kia, cái thằng tóc đỏ, lẹ như chồn, chộp lấy Benjamin.
“Anh có tin không vui cho mày đây,” Manfred nói bằng giọng khào khào, lạnh tanh. “Mày sẽ chẳng tới được bất cứ tiệm sách nào cả. Và mày cũng đừng hòng có cái chìa nào! Không ai mở được cái thùng đó cho đến khi nó được giao lại cho anh.”
“Em không hiểu anh đang nói cái gì cả,” Charlie đôi co, ráng vặn vẹo thoát khỏi giọng kềm của Manfred.
“Tụi em chỉ muốn mua một cuốn sách thôi,” Benjamin thêm vô.
“Chúng mày sẽ chả tìm thấy cuốn sách con nít nào trong tiệm mụ Ingledew đâu,” thằng tóc đỏ nói.
“Buông tôi ra,” Charlie thét lên. “Tôi muốn đi đâu thì đi chớ! Các anh không có quyền chặn tôi.” Nó vung bàn tay còn tự do và đấm cho Manfred một cú vô tai, nhưng thằng cao hơn liền chụp luôn cả hai tay Charlie, xiết càng lúc càng chặt lại, và vặn nó lăn ra đất.
“Nhìn tao đây!” Manfred ra lệnh.
Charlie nhìn. Nó không thể cưỡng lại được.
“Nhìn sâu vô mắt tao,” tiếng thầm thì ghê rợn thốt ra.
Đôi mắt Manfred giống như hai cục than đá, đen xì và sâu hoăm hoắm. Charlie dòm chằm chằm vô chúng, vừa cố kháng cự lại, vừa bị cuốn hút vô. Nó cảm thấy mình chìm dần, chìm dần. Và giờ, nó sắp chết đuối, vì nó không thể thở được nữa. Thế giới bên ngoài hai con mắt đen như than của Manfred dần biến mất, và Charlie thấy mình rơi vô một thế giới khác chính xác là bên trong một chiếc xe hơi.
Chiếc xe đang lao đi với tốc độ kinh hoàng, xuyên qua một khu rừng, và hóa ra Charlie lại đang cầm lái. Hai con mắt đen thui giờ ở bên cạnh nó, và cái giọng rít rịt nhắc lại:
“Hãy nhìn vô mắt tao!”
Đột nhiên, một cú nảy xóc kinh người, và Charlie bị quăng khỏi xe. Nó quỳ mọp trên miệng một cái hố trong khi chiếc xe – một chiếc xe màu xanh da trời – lộn nhào khỏi bờ rìa. Sự thinh lặng của khu rừng bị phá vỡ bởi tiếng gào thét cùa bọn chim chóc tán loạn, và rồi, xa xa bên dưới, một tiếng ầm dội lên.
“Charlie! Charlie!”
Charlie mở mắt ra và thấy mình đang ngồi bệt dưới đất, lưng tựa vô một cột đèn. Mặt Benjamin đang dí sát vô mặt nó.
“Chuyện gì xảy ra với bồ vậy?” Benjamin hỏi với giọng khiếp đảm.
“Mình không biết,” Charlie đáp.
“Trông như là bồ ngủ thiếp đi vậy,” Benjamin bảo. “Mình lay bồ nãy giờ cả thế kỷ luôn.”
“Sao mình lại ngủ?” Charlie hỏi, cảm thấy u tối, mù mịt.
“Lúc ấy bồ nhìn vô mặt cái thằng đó,” Benjamin nói. “Mình nghĩ chắc là nó đã thôi miên bồ.”
“Ai? Lúc nào?” Charlie không thể nhớ nổi điều gì. “Mình đang làm gì ở đây?”
“Ôi, Charlie!” Benjamin vặn vẹo hai tay. “Bồ đã quên sạch sành sanh rồi. tụi mình đang trên đường tới tiệm của cô Ingledew để hỏi xin cái chìa khóa, sau đó có hai thằng chặn tụi mình lại, và một trong hai thằng, cái thằng cột tóc đuôi ngựa ấy, bắt bồ phải nhìn vô mắt nó, và tự nhiên trông bồ rất kỳ cục, ngủ mê luôn.”
“Ồ!” Charlie bắt đầu nhớ ra. Nó run bần bật. Không khí xung quanh lạnh cóng, nhưng ký ức về đôi mắt của Manfred còn thấu xương hơn.
“Giờ tụi mình có đến tiệm cô Ingledew nữa không?” Benjamin hỏi.
“Mình thấy không khỏe,” Charlie lẩm bẩm, cố nhấc đôi chân. Benjamin lo lắng quá, nó chưa nghe thằng bạn mình nói như thế bao giờ. Charlie vẫn luôn khỏe mạnh mà.
Khi hai đứa quay về nhà, qua những con đường lổn nhổn hạt mưa đá. Charlie bắt đầu lảm nhảm về việc lái xe qua một khu rừng, và một chiếc xa xanh da trời lộn nhào xuống hầm đá. Benjamin nghĩ là Charlie đang bị mộng du hoặc phát rồ. Nó vẫn không hiểu được gì trong những lời Charlie nói, cho đến khi bất ngờ Charlie dừng lại và, chộp lấy cánh tay nó. Charlie nói. “Đó là điều đã xảy ra với ba mình, Benjamin à. Ba mình đã lái xe lao xuống một hầm đá.”
“Thật không?” Benjamin ngạc nhiên. “Mình cứ thắc mắc hoài. Thật ra có lúc mình nghĩ là ba của bồ bỏ đi.”
“Không phải,” Charlie quả quyết. “Ba mình đã bị giết.”
Benjamin không biết phải nói gì trước điều này. Cuộc sống của Charlie dạo này bỗng nhiên trở nên không chỉ rối rắm, mà con nguy hiểm nữa. Đến đây thì chúng về tới nhà Charlie, và Benjamin quyết định tốt nhất nên để thằng bạn mình nghỉ ngơi. Vả lại, nó đã nghe tiếng con Hạt Đậu sủa inh ỏi. Nó hy vọng con chó không sủa suốt từ lúc nó đi tới giờ.
“Thôi để chuyện cái thùng mai hẵng tính,” Benjamin nói. “Mình sẽ đến vào giờ học nhạc của bồ.”
“Giờ học nhạc nào?” Charlie coi bộ không hiểu.
“Fidelio Gunn ấy mà,” Benjamin ân cần nhắc.
“Ừm.” Gương mặt nhợt nhạt của Charlie đang dần hồng trở lại. “Được rồi. Hẹn mai gặp lại, Benjamin.”
Charlie khó nhọc lết lên những bậc cấp nhà số 9. Trong nhà im ắng. Mùi đồ ăn ngoại Maisie nấu phảng phất trong hành lang, nhưng thay vì khiến cho Charlie cảm thấy đói thì lại khiến bụng nó quặn lên.
Nó lên lầu và nằm vật ra giường. Chắc là mấy người sau khi bị mổ xong, cũng cảm thấy như thế này đây, Charlie nghĩ, như thể họ không còn kết nối hoàn toàn với thế giới thực nữa.
Manfred Bloor hắn đã biết Charlie là ai. Nhưng bằng cách nào mà biết được? Charlie nhớ ra tấm hình. Lần trước, khi nhìn vô hình, nó nghe những tiếng nói, con mèo Dương Cưu cũng đã nhìn ra và trông thấy nó. Bằng cách nào đó, vậy là đã hình thành một sự liên kết, cho dù đã tám năm trôi qua. Không lẽ khi nó nhìn hình Manfred trên báo, Manfred cũng nhìn thấy nó, và biết nó là ai?
Charlie quyết định làm một thí nghiệm. Nó có cất đâu đó một tấm hình Benjamin, được chụp cùng ngày với bức hình con Hạt Đậu nhe răng cười. Charlie lục lọi trong ngăn kéo và lôi ra gương mặt thất thần của Benjamin. Ánh đèn chớp của máy chụp hình đã làm Benjamin giật mình, sửng sốt.
Charlie dòm lom lom vô gương mặt thằng bạn. Trong một thoáng, Benjamin cũng dòm lại nó, và rồi một giọng nói vang lên, Charlie, mình không thích bị chụp lén.
Tiếng nền là một con chó đang sủa, và rồi giọng của chính Charlie, Cười lên nào Benjamin. Cười nào. Đẹp lắm. Rồi, xong!
Thế thôi. Không có thêm giọng nói nào nữa. Chỉ có tiếng con chó thở hồng hộc, và rồi một tiếng cho ngáp dài.
Trong căn nhà số 12, Benjamin vừa mở một hũ ya-ua dâu lớn ra. Nó vừa tính thọc muỗng vô, thì bất chợt, gương mặt của Charlie hiện ra, trôi lềnh bềnh trong đám dâu. Benjamin thấy bụng dạ lộn nhào. Nó bèn để cái hũ dâu trở lại trong tù lạnh.
“Dâu bị hư rồi,” Benjamin nói với Hạt Đậu. “Tụi mình ăn phô mai thay vậy.”
Con Hạt Đậu mừng rơn khi nghe thế. Nó khoái trá ve vẩy cái đuôi.
Mẹ Charlie đánh thức nó dậy ăn trưa, nhưng ngay sau đó nó lại ngủ li bì. Vào bữa trà, ngoại Maisie hỏi xem nó có bị bệnh không, bởi vì trông nó thật quái lạ và chẳng hề đụng tới bánh mì kẹp.
“Con không bị bệnh gì hết,” Charlie nói. “Con nghĩ con đã bị thôi miên.”
Ngoại Maisie và mẹ nó cười ồ lên.
“Nội Bone đang muốn gây sự,” ngoại Maisie nói. “Bà ấy muốn gặp con nói chuyện phải quấy về vụ mấy câu hỏi, nhưng có điện thoại gọi, thế là bà ấy đi thăm mấy bà Yewbeam rồi.”
Sau bữa trà, Charlie lại ngủ tiếp. Mãi cho đến khi vào nửa đêm, nghe thấy tiếng Ông cậu cọt kẹt xuống lầu, thì nó mới tỉnh giấc.
Charlie nhẹ nhàng đi xuống nhà bếp. Đầu óc đã tỉnh táo hơn và nó đang đói ngấu. Nó bắt gặp Ông cậu đang ngồi bên bàn bếp, xơi thịt gà nguội ngắt với đậu xanh và xà lách. Có một rổ bánh bột cuốn trên bàn và một chai rượu. Ly rượu to của Ông cậu Paton vơi còn một nửa.
Ánh sáng duy nhất trong phòng hắt ra từ một ngọn nến cắm trên chiếc chân đèn bằng bạc, chạm trổ cầu kỳ, đặt ở giữa bàn.
Ông cậu Paton nheo mắt nhìn xuyên qua đốm lửa đèn cầy. Cuối cùng ông nhận ra Charlie đang đứng xớ rớ trong bóng tối cạnh cửa.
“Vô đi, mày,” Ông cậu Paton nói. “Thích gà không?”
“Thích không ấy ạ?” Charlie kéo ghế. “Giờ thì cái gì con cũng ăn hết.”
Ông cậu Paton đưa cho nó một cái dùi gà trên dĩa và hỏi. “Hôm nay thế nào?”
“Kinh khủng,” Charlie kể cho Ông cậu Paton nghe về những chiếc chìa khóa của cô Ingledew, về Manfred Bloor, và về vụ bị thôi miên quái đản.
Ông cậu Paton buông rơi cái nĩa. “Ý mày định nói với ta là mấy thằng ranh kia cố ngăn không cho mày tới tiệm sách?”
“Dạ, đúng vậy,” Charlie nói. “Manfred rắp tâm lấy chìa khóa từ tay cô Ingledew trước con, và sau đó hắn sẽ đi tìm cái thùng. Hình như tất cả mọi người đều đang lùng kiếm cái thùng.”
“Cần phải bảo vệ người phụ nữ duyên dáng đó,” Ông cậu Paton lầm bầm. “Nói cho ta biết đi, Charlie, tại sao mày lại nhất quyết giữ cái thùng phiền toái đó?”
“Dù bên trong nó chứa cái gì, thì cái đó cũng đã từng đem đổi lấy một đứa bé. Con muốn đổi đứa bé lại một lần nữa, để giúp cô Ingledew gặp lại được đứa cháu gái. Thật không công bằng tí nào nếu người ba con duy nhất của đứa bé lại không tìm ra nó, đúng không Ông cậu?”
“Ta tự hỏi tại sao người phụ nữ dễ thương ấy lại không đem cái thùng đi chuộc đứa bé về?” Ông cậu Paton trầm ngăm.
“Cô ấy mới nhận được cái thùng thôi mà,” Charlie giải thích. “Trước đó thì người ta lừa cô ấy, nói dối cô ấy, làm cô ấy tẩu hỏa. Lúc có được cái thùng thì, cô ấy đã bỏ vụ tìm kiếm từ lâu rồi.”
“Xem ra mày biết nhiều đấy,” Ông cậu Paton nói. Ông mang cái dĩa không để ra bồn rửa chén.
“Charlie, tuần sau mày sẽ không cục cựa gì được, cho nên để ta mang trả chìa khóa cho cô Ingledew. Nếu cô ấy tìm được đúng chìa thìa ta sẽ đưa nó cho mày khi mày về nhà vào cuối tuần, nhưng ta nghĩ, mày nên chỉ cho ta xem cái thùng. Ta muốn có mặt khi mày mở nó ra. Cẩn thận vậy mà.”
“Cẩn thận cái gì ạ?” Charlie hỏi lại.
“Ai mà biết trong đó chứa cái khỉ gì?” Ông cậu Paton nói. “Phải có mặt người lớn ở đó. Mày không đồng ý hả?”
“Con nghĩ,” Charlie lại bắt đầu thấy đau nhói ở bụng. Lần này là vì iop nhắc tới chuyện nó phải xa nhà suốt cả tuần – bị giam trong Học viện Bloor.
“Ông cậu Paton à, tại sao lại bắt con phải đi học ở Bloor chỉ vì con có phép thuật?” Charlie hỏi.
“À, để họ có thể trông nom, ngó chừng mày. Họ không dám để mày đi bất cứ nơi nào khác, phòng ngừa việc mày dùng phép thuật mà họ không biết. Họ thích kiểm soát mà.”
“Con nghĩ là Ông cậu ngày xưa cũng có học ở Bloor?”
“Dĩ nhiên,” Ông cậu Paton đáp.
“Thế Ông cậu có thích không?”
“Thích không phải là từ ta ưa dùng. Nói đúng ra, ta đã luồn lách cho xong chuyện. Ta đã chịu cúi đầu, và ít nhiều gì họ cũng đã để cho ta yên.” Ông cậu Paton thở dài. “Ta cho rằng đó luôn luôn là cái không hay ở ta. Ta cứ cúi đầu hoài, trong khi thỉnh thoảng đáng ra ta phải ngẩng đầu lên. Hừ, có lẽ giờ cũng chưa đến nỗi quá trễ.”
Có tiếng kẹt cửa bên ngoài – cái cửa tung cùng với một tiếng sầm và ánh sáng ùa vô. Nội Bone đứng sựng ngay ngưỡng cửa. Bà trợn mắt nhìn Charlie, hỏi. “Cái gì thế này? Tiệc tùng lúc nửa đêm à? Lên giường mau, Charlie Bone! Sáng mai phải làm cho xong mấy bài toán đấy. Thứ hai đi học rồi. Làm sao mà theo nổi nếu không ngủ hả?”
“Chúc nội ngủ ngon! Chúc Ông cậu ngủ ngon, Ông cậu Paton!”
Charlie ba chân bốn cẳng vù qua bà nó. Khi leo lên cầu thang, nó nghe tiếng nội Bone quát Ông cậu Paton:
“Chuyện gì đây, hả Paton? Tôi không thể tin tưởng ở cậu nữa. Cậu đứng về phe nào, hả? Trả lời tôi coi!”