Dịch giả: HƯƠNG LAN
- 17 -
CÂY THỦY TÙNG ĐEN

Charlie vùng vẫy như một người đang bơi dưới nước. Di chuyển về phía những hình ảnh phản chiếu rất khác so với đi vào một bức tranh hay một bức hình chụp. Gương mặt của bà Amoret cứ chực biến mất. Cứ như thể bà đang cố đẩy nó trở lui lại.
Nhưng Charlie quyết không buông. Nó cố vươn về phía trước, đẩy không khí dạt qua bên, quẫy đạp những xiếng xích đang níu nó lại. Cuối cùng nó bắn vào một căn phòng, nơi có một phụ nữ đứng ôm chặt ba đứa trẻ. Hoàng tử Amadis đi rồi, và bà Amoret đang nhìn thẳng vào mặt Charlie.
“Đi,” bà Amoret thét. “Cho dù mi là bất cứ ai. Mi phải đi!”
Và giờ Charlie mới nhận ra những âm thanh khủng khiếp ở bên ngoài căn phòng. Tiếng đá tảng nện ình ình lên cánh cửa nặng, tiếng mũi tên bay rin rít, tiếng la thét gào rú của trận chiến. Charlie trôi ra ngoài, vào một khoảnh sân, và giữa đám đông la thét hãi hùng ấy, nó thấy một cậu bé tóc trắng có một con quạ đậu trên vai. Cậu bé phóng như bay về phía một cái giếng và leo vào trong. Phút chốc sau, cả tòa lâu đài bốc cháy và Charlie bị bao quanh bởi một bức tường lửa.
“Cứu! Cứu!” Charlie hét lớn.
Có cái gì đó giật nó quỵ xuống. Nó không thể thoát ra được, không thể thở được.
Một tiếng “choang” xé màng nhĩ, tiếp theo là tiếng thủy tinh vỡ vụn, nhắc Charlie nhớ tới những tai nạn do Ông cậu Paton gây ra và nó lập tức cảm thấy yên tâm trở lại. Liệu Ông cậu ở nhà có an toàn không?
“Charlie! Charlie, trở lại đi!” Một giọng gọi từ xa.
Charlie chớp mắt và thấy mình nhìn vào một tấm gương nứt nẻ, ánh sáng nhảy nhót trên mỗi miếng nứt nhỏ xíu. Thủy tinh vỡ nằm vương vài khắp xung quanh nó, lấp lánh tựa như kim tuyến.
“Charlie?” Billy đứng trước mặt nó, cầm một cây đèn cầy. “Anh trở lại rồi hả?”
Charlie lại chớp mắt và lắc đầu:
“Phải, anh về lại rồi.”
“Chú Tuccini buộc phải đập bể tấm kính. Em với chú ấy nghĩ anh bị mắc kẹt trong bức tường lịch sử rồi chứ.”
“Xem ra đó là cách duy hất để đưa cháu ra,” ông Albert Tuccini ngó xuống Charlie. “Cháu chu du như vậy thiệt quái dị. Chú nghi là chưa bao giờ được tốt đẹp.”
“Đúng ạ. Chưa bao giờ tốt đẹp,” Charlie thừa nhận. “Nhưng lần này con phải đi vô, bởi vì tổ tiên của con, bà Amoret cũng ở trong đó. Chắc chắn bà ấy ở trong lâu đài khi nó bốc cháy, trước khi nó biến thành thủy tinh. Nhưng các con của bà ở đâu?”
“Không phải, lúc nào cũng tìm ra câu trả lời,” ông Albert nói, vẻ ưu phiền. “Thôi. Các cháu đã trải qua nhiều chuyện buồn rồi. Phải nghỉ ngơi đi thôi.”
“Bức tường lịch sử bể rồi, tất cả là lỗi tại anh,” Charlie nói một cách ân hận.
“Chỉ là bề mặt thôi,” ông Albert nói. “Bức tường rất dày. Chúng bền hơn đôi giày cũ của chú nhiều.”
Ông giơ chiếc giày đen đang mang bên bàn chân trái lên, cột dây giày lại thật chặt rồi tiến về phía chiếc cầu thang nguy hiểm.
Khi Charlie đi xuống căn phòng của ông Albert Tuccini, ánh bình minh bắt đầu xuyên qua những bức tường thủy tinh. Bão đã tan và ông Albert thông báo rằng sẽ có một ngày đẹp trời. Nếu chúng rời đi ngay, thủy triều sẽ đưa chúng trở lại vịnh an toàn.
“Ba sẽ đi với tụi con chứ,” Charlie nài nỉ.
Ông Albert xòe rộng hai bàn tay:
“Chú không dám.”
“Nhưng sao vậy? Tụi con sẽ giữ an toàn cho ba,” Charlie tuyên bố. “Ba phải trở lại, vì có mẹ… và tất cả mọi thứ.”
“Chú có một người vợ à?” Albert coi bộ sững sờ.
“Phải ạ. Chứ ba nghĩ làm sao con tới đây được?” Charlie nói vẻ uất ức.
Nó bắt đầu cảm thấy càng lúc càng hoảng. Nó đã tìm được ba, chỉ để sau đó bỏ lại ông ở một nơi mà ông không bao giờ gặp lại nó lần nữa. Nếu nội Bone mà biết chuyến viếng thăm đảo của Charlie, thì nhà Yewbeam bảo đảm sẽ chuyển ông tới một nơi nào đó thậm chí còn khó đến được hơn nhiều.
Chính Billy thuyết phục được ông Albert rằng ông phải đi chung với tụi nó.
“Tụi cháu không thể chèo thuyền một mình được,” nó nói, đôi mắt mở lớn đầy lo âu. “Tụi cháu cần chú, chú Tuccini. Anh Charlie không khỏe để chèo thuyền suốt cả chuyến về một lần nữa.”
Ông Albert cào cào mớ tóc xoăn của mình.
“Rất phải. Có lẽ đó là việc chú nên làm.”
Ông dẫn bọn nhóc ra khỏi tháp và băng qua mảnh sân, tới một cánh cửa chìm hẳn vào những bức tường thủy tinh. Một cái nhấn nút, và một tấm kính mở ra, đung đưa. Khi tất cả bước qua rồi, ông Albert khép tấm kính lại. Giờ đã hoàn toàn không thể phân biệt được nó với phần còn lại của bức tường.
“Chỉ có thể mở ra được từ bên trong,” ông Albert nói với hai thằng bé. “Từ ngoài vào phải sử dụng cầu trượt.”
Hình ảnh bà cô Eustacia tuột xuống cầu trượt vụt hiện ra trong đầu Charlie, và nó phì cười một mình.
Khi họ bước trở lại bờ biển, Charlie kể cho Billy nghe về cậu bé tóc trắng mà lúc nãy nó thấy leo vào cái giếng.
“Chính nhờ thế mà cậu ấy sống sót,” nó bảo Billy. “Cậu ấy leo ra khi lửa đã tắt rồi bằng cách nào đó vô được đất liền, sau đó đi chu du khắp vùng trung Âu cùng với một con quạ. Cho nên mới có cái họ Raven của em. Và cả họ của người giám hộ em, Christopher Crowquill. Tổ tiên của người ấy là anh trai tổ tiên em.”
“Có lẽ em sẽ sống với chú với Christopher Crowquill,” Billy nói tràn trề hy vọng.
Charlie nín thinh. Chú Christopher Crowquill tội nghiệp cũng đang gặp nguy hiểm không kém gì Billy. Chú ấy không thể chăm sóc nó được.
“Ông cậu Paton sẽ biết phải làm gì,” Charlie lẩm bẩm.
Ông Albert Tuccini sải bước đi trước bọn nhỏ. Ông bảo chúng rằng hàng ngày ông hay đi bộ ra bờ biển.
“Để tập thể dục, các cháu biết đấy,” ông quay lại nói to với bọn chúng. “Để làm căng buồng phổi và để giữ dáng cơ bắp tay chân.”
May làm sao, bão đã xô chiếc thuyền vào sâu trong đảo mà không đánh bạt nó ra xa ngoài biển. Ông Albert và bọn trẻ xắn quần lên và tháo giày vớ ra. Họ kéo chiếc thuyền xuống nước, và trong khi Charlie và Billy ngồi một đầu, ông Albert ngồi đầu ngược lại, cầm lấy hai mái chèo. Lưng ông quay về hướng những vách đá cao vợi ở đất liền, vì vậy ông không trông thấy có hai bóng người đang đứng trên bãi biển đằng xa ấy.
Charlie trông thấy họ trước tiên. Tim nó bỗng lộn nhào một cái. Mấy người nhà Yewbeam chăng? Billy cũng thấy những người ấy, và nó níu chặt lấy ống tay áo Charlie.
“Họ tới để bắt em đó,” nó khóc thút thít. “Đáng lẽ ra em nên ở lại đảo.”
“Em sẽ chẳng an toàn gì hơn đâu mà,” Charlie bảo nó. “Bình tĩnh đi, có lẽ không phải họ đâu.”
Ông Albert ngoái nhìn ra sau.
“Người. Cháu có thể nhìn rõ xem họ là ai không, Charlie?Cháu có muốn quay trở lại lâu đài không?”
Charlie nhướn căng mắt lên và ngó đăm đăm về bãi biển.
“Không,” nó nói chậm rãi. “Con nghĩ là… có, con biết. Con biết chắc chắn họ là ai.”
Bởi vì một người trong số họ đang từ từ hiện rõ. Một người đàn ông cao lớn tóc đen, áo khoác đen.
“Đúng rồi!” Charlie reo lên. “Đó là Ông cậu Paton của con. Con không biết người kia là ai, nhưng ông ấy rất nhỏ, và hình như đang khòm người xuống, con không nghĩ ông ấy nguy hiểm đâu.”
Nỗi phấn khích của Charlie đã chiến thắng, và nó nhảy cẫng lên tại chỗ, lật thuyền nghiêng hẳn qua một bên.
“Ối!” Ông Albert hét to. “Cháu suýt đẩy bọn ta xuống nước, Charlie Bone!”
Được thủy triều giúp sức, giờ họ đang tiến nhanh đến bãi biển. Charlie nóng lòng muốn thấy vẻ mặt của Ông cậu nó khi ông Albert bước lên bờ, bởi vì Lyell Bone vốn là bạn thân của Ông cậu Paton, và chắc chắn, Ông cậu Paton có thể giúp Albert nhớ lại ông ấy thật sử là ai.
“Ông cậu Paton!” Charlie gọi. “Đoán coi con tìm được ai nào?”
Ông cậu Paton vẫy tay và hét lên.
“Ta thấy mày có Billy Raven đi cùng. Và ở đây có ông Christopher Crowquill.”
“Ôi, không! Ông cậu không hiểu nổi.” Charlie không thể chịu nổi tình trạng hồi hộp.
Ông Albert ngoái nhìn về bãi biển, nhưng Ông cậu Paton không có dấu hiệu gì chứng tỏ là đã nhận ra ông ấy. Chiếc thuyền va mạnh vào một đụn cát và ông Albert cùng hai thằng bé leo ra, lội ì oạp qua làn nước nông khi họ kéo thuyền lên bãi biển.
Charlie không thể đợi lâu hơn được nữa.
“Coi đây, Ông cậu Paton. Con tìm thấy ba con rồi.”
Ông cậu Paton nhìn ông Albert với một cái nhíu mày khó hiểu, ông nói:
“Charlie, đây không phải là ba mày.”
Charlie choáng váng đến nỗi không thể thốt nên lời.
“Họ gọi tôi là Albert Tuccini,” ông Albert nói, chìa bàn tay ra. “Rất hân hạnh được gặp ông.”
Ông cậu Paton tự giới thiệu mình và Christopher, rồi tất cả họ bắt tay nhau.
Charlie cảm thấy như có cả tấn chì đè xuống ngực nó. Sự thể khiến nó đau đớn đến nỗi không còn suy nghĩ nổi, không còn nhúc nhích nổi. Đám mây thất vọng khổng lồ chẹn ngang những lời nói bao quanh nó. Nó lờ mờ nhận thầy Christopher Crowquill đang ôm siết lấy Billy. Và nó thấy Ông cậu Paton lắng nghe ông Albert và ngó chăm chăm ra biển, về phía Lâu đài Gương. Ông cậu của nó hẳn đã thuyết phục được ông Albert đừng trở lại đảo nữa, bởi vì phút tiếp theo, cả nhóm người đã hớn hở di chuyển sâu vào bãi biển.
“Charlie, mày không sao đấy chứ?” Ông cậu Paton ngoái lại và chờ nó.
“Con… con… dạ không sao,” Charlie nói một cách khổ sở. Nó bước lên cho kịp Ông cậu.
“Mày thất vọng ghê gớm lắm nhỉ. Ta xin lỗi, rất tiếc, Charlie à.” Ông cậu Paton bóp vai nó.
“Không sao. Tại con ngốc quá thôi. Con biết đó thiệt không thể là ba được.”
“Một ngày nào đó được,” Ông cậu Paton nói.
Charlie nhìn Ông cậu nó và ông Albert đẩy chiếc thuyền vào trong hang. Và rồi tất cả họ leo lên những vách đá để sang một vịnh khác, nơi có một con đường mòn nhỏ hẹp uốn quanh co lên tít đỉnh núi.
Christopher Crowquill dẫn đầu, với Billy đi sát ngay sau. Kế tiếp là Ông cậu Paton, rồi tới Charlie. Ông Albert Tuccini đi cuối cùng. Đó là một cuộc leo núi nguy hiểm, và khi họ lên được nửa đường, Ông cậu Paton bảo:
“Đúng ra mày phải chứng kiến hồi nãy bọn ta đi xuống như thế nào, Charlie. Gần như cả đường phải trượt bằng mông.”
Charlie cố nặn ra một nụ cười thiều hào hứng. Nó nhìn trở lại Lâu đài Gương. Lâu đài bị trùm kín trong sương mù. Chẳng bao lâu nữa nó sẽ lại vô hình. Nhưng những bí mật quý giá của nó sẽ vẫn còn đó, ẩn trong bức tường lịch sử, và một ngày nào đó Charlie sẽ quay lại để khám phá chúng.
Lúc họ lên tới đỉnh vách đá thì thủy triều đã lên cao, và nhìn xuống, Charlie thấy những con sóng nổi bọt đang quật mạnh và một hàng rào chắn là những tảng đá lởm chởm, đen xì.
Ông Albert Tuccini nãy giờ để ý Charlie với vẻ lo ngại. Ông đặt tay lên cánh tay nó và nói:
“Chú rất tiếc rằng chú không phải là ba cháu.”
“Dạ không sao mà,” Charlie nói, ủ dột.
Họ bước dọc theo đỉnh vách đá tới con đường nơi Ông cậu Paton đậu xe. Khi họ quay lưng khỏi biển, một con chim thình lình kêu quác lên và bay vù lên trời. Ngó tới phía trước coi cái gì khiến con chim sợ hãi, Charlie thấy một khối đen thù lù choán ngay giữa lối đi.
Ông cậu Paton chậm bước lại.
“Cái gì…?” Ông lắc đầu. “Một cái cây?”
Ông lại sải bước nhanh hơn để theo kịp mấy người đi đầu.
Khi đến gần cái cây, họ thấy nó lùn chủm và hình thù quái đản. Những cành cong vẹo của nó thòi ra những chùm là kim đen đúa, nhọn hoắt, và vỏ của cái cây đầy mấu ấy nứt nẻ toàn những sẹo là sẹo.
“Cây thủy tùng đen,” giọng Ông cậu Paton nghẹn lại vì kinh hoàng.
Trước mắt họ, một gương mặt như chằn tinh uốn éo nhú ra khỏi vỏ cây xù xì; những cành cây teo quắt lại, lá kim rụng lộp độp tựa như một cơn mưa đen, và thân cây quằn quại từ từ định hình, thành một người đàn ông cao lớn. Đó là lão Tantalus Ebony. Lão trâng tráo dòm nhóm người đang đờ ra, đôi môi mỏng quẹt của lão cong xoắn lại thành một nụ cười độc ác.
Charlie không tin nổi vào mắt mình. Lão Tantalus Ebony là người biến hình à?
Tantalus mở miệng:
“Chúng ta lại gặp nhau, Paton Yewbeam à.”
“Cái gì…?” Ông cậu Paton bắt đầu.
“Xời, xời Paton. Đừng có ní với tao là mày không hề biết có giây phút này đấy. Tao đã cảnh báo mày rồi, đúng không, rằng nếu mày làm hại Yolanda của tao thì mày sẽ phải trả giá bằng sinh mạng của mày, nhớ không?”
Giọng nói này khá quen, tuy rằng nó như vọng lên từ dưới lòng đất.
“MÀY GIẾT CON GÁI YÊU CỦA TAO!” Kẻ biến hình bất ngờ rống lên.
“Yorath,” Ông cậu Paton nói không hề run sợ. “Con gái lão là một quái vật.”
Kẻ biến hình phọt ra một tiếng gầm điên cuồng và lao như tên bắn vào Ông cậu Paton. Charlie thấy ngay điều gì sẽ xảy ra. Thí mạng sống của lão, lão Tantalus sẽ lôi Ông cậu của nó rớt khỏi vách đá. Charlie nhào tới túm chặt lấy Ông cậu Paton, nhưng Ông cậu gỡ hay bàn tay của nó ra và bước lên phía trước.
Trong nháy mắt, một hình thù màu xám nhỏ bay thẳng vào lão Tantalus. Họ quạt nhau chớp nhoáng và rồi, thiệt kỳ diệu, Christopher Crowquill đang ép kẻ biến hình về phía vách đá. Việc xảy ra quá nhanh đến nỗi không có một tiếng hét, không một hành động nào đủ nhanh để ngăn họ chúc đầu xuống rìa đá… và lao xuống.
Một tiếng thét, một tiếng rú, và rồi thinh lặng.
Ông cậu Paton chạy tới nới mà hai hình người biến mất. Ông giang rộng cánh tay ra ngăn Charlie và Billy nhào tới trước.
“KHÔNG!”
Ông ra lệnh, bắt chúng lùi lại. Nhưng Charlie đã thấy được mặt biển sôi ục ục, và những tảng đá đen. Không còn gì khác, ngoại trừ một con chim màu đen bập bềnh trên những đợt sóng. Một con quạ đen? Một con quạ xanh-đen? Hay một kẻ biến hình?
“Người đàn ông dễ mến ấy đã liều mạng để cứu ta,” Ông cậu Paton nói khàn khàn.
“Tại sao vậy?” Billy gào lên. “Tại sao chú ấy lại làm vậy? Chú ấy là người bà con duy nhất của cháu mà. Người giám hộ của cháu. Giờ cháu lại không còn ai nữa.”
“Có anh và Ông cậu đây,” Charlie nói.
“Tại sao? Tại sao?” Ông cậu Paton lắc đầu. “Chẳng có nghĩa lý gì.”
Ông gồng vai lại, dường như để tự trấn tĩnh tinh thần.
“Chúng ta phải rời khỏi nơi này. Ta sẽ báo cho lực lượng tuần duyên khi chúng ta đi khỏi nơi khủng khiếp này. Không còn gì thêm để làm ở đây nữa.”
Trong bầu im lặng ngột ngạt, họ lầm lũi bước đi cho đến khi tới chỗ xe hơi của Ông cậu Paton đậu. Charlie và Billy leo vào hàng ghế sau, trong khi ông Albert ngồi vào ghế trước.
Trong lúc lái xe, Ông cậu Paton giải thích cuộc tấn công của kẻ biến hình cho ông Albert Tuccini đang chẳng hiểu gì nghe.
“Lão ấy già đến độ không còn xác của riêng lão, và lão phải mượn xác, và đôi khi, mượn cả trí não của những sinh vật khác. Con gái của lão cũng xấu xa không kém. Mụ giết mẹ tôi, và rồi định giết người yêu mến của tôi.”
Charlie thì thào:
“Cô Julia Ingledew đó,”
Nhưng Billy quay mặt đi và lánh vào ngồi thu lu trong góc xe; một hình ảnh trông thật tội nghiệp.
“Mụ Yolanda ấy quái đản làm sao,” ông Albert nói.
“Vì vậy tôi phóng điện giật chết mụ,” Ông cậu Paton nói lạnh băng.
Nếu ông Albert có bị sốc thì ông cũng không để lộ ra. Có lẽ một vài ký ức nào đó của ông đang hiện về. Những ký ức đó gớm ghiếc đến nỗi không có gì có thể khiến ông ngạc nhiên được nữa.
Sau khi đã đi được một lúc lâu, họ dừng lại bên một quán ăn bên ngoài rìa một thị trấn nhỏ. Trời hôm ấy ấm áp, rực nắng và Ông cậu Paton chọn ngồi ở một cái bàn bên ngoài. Ông đưa cho Charlie một danh sách và một ít tiền đủ để mua bữa trưa cho bốn người, Billy, xem ra đã hồi phục chút ít, đi theo Charlie vào một căn phòng được thắp sáng tù mù bằng vài bóng đèn nhỏ.
“Thảo nào Ông cậu của anh không vô,” Billy nói, huých cùi trỏ Charlie khi nó đọc to danh sách lên cho một phụ nữ tóc tím ở đằng sau quầy.
Charlie thảy cho Billy một cái nhìn cảnh cáo, và Billy nói, bằng giọng não nề:
“Em đâu có để lộ điều gì đâu, đúng không nào?”
Charlie cười với người phụ nữ tóc tím, và bà mỉm cười lại, một cách rất dị kỳ, trước khi biến mất sau tấm rèm kết bằng những chuỗi hạt.
Khi Charlie và Billy trở lại bàn, Ông cậu Paton đang ở trong buồng điện thoại công cộng ở bên kia đường.
“Ông ấy đang báo cho cảnh sát về tai nạn vừa rồi,” ông Albert nói. “Chuyện kinh khủng thật.”
“Vừa tệ lại vừa hay,” Charlie nói mà không suy nghĩ.
Billy bắn cho nó một cái nhìn bị tổn thương. Ông Albert không nói gì. Lát sau, một cô gái mặc váy cực ngắn màu đen xuất hiện với một khay bánh mì kẹp, nước lọc, nước cam ép và cà phê. Ông cậu Paton đã quay lại từ buồng điện thoại công cộng, nhưng hình như cảnh sát nghĩ đó là một cú lừa.
“Tôi không biết có thể làm gì khác hơn được nữa,” Ông cậu Paton nói, liếc nhìn một cách ngại ngừng về phía Billy. “Về Alice, tôi sẽ phải ăn nói với cô ấy như thế nào đây? Cô ấy sẽ tan nát tim gan mất.”
“Giống như con,” Billy nói, nhìn chằm chằm ổ bánh mì kẹp dăm bông mà nó không nuốt nổi.
“Billy à, ta không biết nói ra điều này có giúp gì không, nhung người giám hộ của cháu rất, rất quan tâm tới cháu. Ông ấy làm cái việc kia là có lý do chính đáng đấy. Thiệt tình, ta tin rằng ông ấy đã hy sinh vì cháu. Suốt bảy năm dài ông ấy khao khát mong được gặp chúa. Ông ấy không dễ gì bỏ lỡ cơ hội để được sống cùng với cháu.”
Bằng giọng yếu ớt, Billy thốt lên:
“Ồ.”
Ông Albert Tuccini vẫn nín thinh suốt bữa ăn. Có một vẻ thẫn thờ, xa xăm rất lạ trong mắt ông và hình như ông không để ý gì đến những người còn lại. Khi mọi người đã ăn xong mớ bánh mì (Charlie ăn phần của Billy), ông Albert bảo ông sẽ vào trong để tìm toa-lét nam.
Nhiều phút trôi qua. Rồi hết mười lăm phút mà ông Albert vẫn chưa trở lại, Ông cậu Paton bắt đầu bồn cồng thấp thỏm và Charlie được phái vào toa-lét xem sao. Không có ai ở đó.
Ông cậu Paton nhíu mày lại khi nghe tin này:
“Không ai à? Mày chắc không?”
“Chắc chắn,” Charlie nói.
Ông cậu Paton đứng lên:
“Để ta đi coi.”
“Ông nghĩ ông có nên đi không? Có rất nhiều óng đèn ở trong…” Charlie mới bắt đầu.
Nhưng Ông cậu nó đã đi vội qua cửa quán. Charlie cầu cho ông đừng gây ra một tia nạn nào. Một thoáng sau, nó nghe tiếng quát của một người đàn ông:
“Trời, đèn đóm trong toa-lét bể sạch rồi. Tùm lum trong đó. Miểng văng cùng khắp.”
Ông cậu Paton vội vã đi ra. Trông mặt ông đỏ bừng.
“Mẹ kiếp,” ông lầm bầm. “Ta chắc chắn không bị ai vạch mặt.”
Nhưng theo sau ông là người phụ nữ tóc tím, lúc này trông cực kỳ tức giận.
“Có phải ông là Paton Yewbeam không?” Bà ta hỏi.
“È… phải,” Ông cậu Paton hồi hộp đáp.
“Thằng cha ấy để lại một mẩu nhắn cho ông đây.”
Bà trao cho Ông cậu Paton một tờ giấy gấp lại và bước đi, cằn nhằn rằng bà ta đã đủ việc để làm rồi, không cần phải có thêm cái việc đưa tin nhắn với lại dọn dẹp toa-lét đâu.
Ông cậu Paton mở mẩu giấy ra. Vẻ mặt ông trơ ra khi đọc thư.
:Ta không thể nói là ngạc nhiên được. Người đàn ông tội nghiệp.”
“Thư nói gì ạ?” Charlie khẩn nài.
Ông cậu nó đọc to lên.
Kính gởi ông Yewbeam,
Tôi vô cùng sung sướng được quen biết ông, Charlie và Billy, dù chỉ ngắn ngủi. Nhưng giờ chúng ta phải chia tay. Đừng tìm kiếm tôi, tôi xin ông. Như thế sẽ tốt hơn. Có lẽ chúng ta sẽ gặp lại nhau vào những lúc vui vẻ hơn.
Người bạn hèn mọn của ông.
Albert Tuccini (cứ cho là thế đi)
“Ông ấy sẽ đi đâu được,” Charlie hỏi, “nếu ông ấy không biết mình là ai?”
Ông cậu Paton nhún vai và đút tờ giấy vào túi.
“Ta tin ông ấy là một nghệ sĩ piano kiệt xuất, Charlie. Thôi chúng ta cứ hy vọng rằng ông ấy sẽ tạo dựng được một cuộc đời riêng cho mình, ở đâu đó trên thế giới này.”
Họ bước trở lại xe hơi và bắt đầu một cuộc hành trình dài khác về hướng bắc, về phía đường Filbert và Học viện Bloor.
Sự ra đi thê thảm và bất ngờ của Christopher Crowquill vừa rồi đã gạt tất cả mọi thứ khác ra khỏi tâm trí Charlie, nhưng bây giờ ký ức về chuyến đi cùng Hoàng hậu Berenice lại ùa về và nó không thể tưởng tượng làm sao nó lại quên béng mất việc nói cho Ông cậu biết chuyện đó.
“Ông cậu không hỏi con tại sao con lại tìm ra hòn đào này,” nó nói, chồm qua ghế của Ông cậu Paton.
“Bạn của mày, thằng Tancred, đã kể cho ta nghe về con ngựa trắng,” Ông cậu Paton nói. “Ta không làm sao bảo thằng ấy lui xa khỏi ống điện thoại được. Nó kể với ta tất tần tật: những tờ giấy ghi lời thề, chằn tinh ăn thịt người, hồn thiêng, cơn bão. Nó cứ kể tuốt tuồn tuột. Không phải là ta không quan tâm. Hai đứa mày chắc là vừa chui qua máy vắt quần áo trong mấy ngày vừa rồi.”
“Máy vắt quần áo?” Billy hỏi.
“Ep, vặn, vắt ráo,” Ông cậu Paton giải thích.
“Bị vắt kiệt,” Billy lẳng lặng nói. “Đúng. Cháu thấy mình bị vắt kiệt.”
“Chúng bay, ta phải…” Ông cậu Paton ngần ngừ, và rồi ông nói, “Mà thôi.”
Charlie tự hỏi Ông cậu nó định nói cái gì. Giọng của ông như có lời cảnh báo: nhưng có lẽ ông cảm thấy hôm nay chúng chịu thế đủ rồi. Có một quãng im lặng dài và rồi Charlie nói:
"Hoàng hậu chạy đi khỏi khi bà trông thấy hòn đảo. Con thắc mắc không biết bà đi đâu.”
Ngay lúc nghe nhắc đến Hoàng hậu, Billy ngồi dậy và một nụ cười tỏa sáng gương mặt nó.
“Bà nói bà sẽ không bỏ rơi chúng ta. Em nghĩ chúng ta sẽ gặp lại bà. Thiệt ra em biết tụi mình chắc chắn sẽ gặp lại bà. Bà như một người mẹ vậy.”
Charlie vui mừng khi nghe Billy lộ vẻ hy vọng. Nó ước gìnó cũng cảm thấy như thế.
Một chấm sáng nhấp nháy đậu xuống ống tay áo Charlie, và chồm tới trước, nó nói:
“Ông cậu Paton, con tìm thấy cây gậy phép của con rồi. Nó biến thành một con bướm trắng.”
“Vậy hả? Lại cái gì nữa đây?”
Sự hiện diện của con bướm trắng đã trấn an Charlie, vào lúc mà nó đang cần được an ủi. “Ông cậu sẽ không nói với mẹ con đâu, phải không Ông cậu,” nó hỏi, “về chuyện của ba con ấy?”
“Không, Charlie. Ta giữ chuyện đó mình ta biết thôi.”