Dịch giả: HƯƠNG LAN
- 19 -
PHÉP THUẬT CỦA OLIVIA

Anh Felix Gunn bị trục xuất khỏi Học viện Bloor. Tuy nhiên, trước khi ra đi, anh đã kịp kể tỉ mỉ cho Fidelio và Charlie nghe những tình tiết éo le của vụ Billy bị bắt.
Nửa đêm hôm đó, một con sói, hay một con gì đó đại loại, đã nhảy qua cửa sổ để mở cửa một trong những phòng ngủ. Lũ con của ông bà Gunn không dễ gì hoảng sợ. Thực sự chúng là một đám gan lì và táo bạo. Chúng tấn công con quái thú bằng bất kỳ thứ gì vớ được trong tầm tay. Đàn xenlô, giá nhạc, dùi trống và ngay cả cây đèn co kiểu Pháp cũng được tận dụng để đập cái sinh vật ghê gớm đang gầm gừ, lồng lộn kia.
Nhưng đến lúc ông bà Gunn tới giải cứu các con, thì Billy Raven đã vừa chạy ào ra cửa trước vừa la hoảng vía… và tông thẳng một mạch vào tay Manfred Bloor.
“Bị hốt đi,” Fidelio nói, “như một con thỏ đáng thương.”
Fidelio vừa dứt câu thì Manfred đã đứng sựng bên trong ngưỡng cửa phòng để áo khoác xanh da trời, nơi anh Felix đang kể lại câu chuyện rùng rợn.
“Felix Gunn, anh đã bị đuổi việc,” Manfred lạnh lùng nói.
“Đồng ý,” anh Felix làm điệu bộ hơi cúi đầu xuống. “Tạm biệt mấy nhóc nha. Và chúc may mắn. Mấy em chắc chắn sẽ cần tới may mắn đó.”
Anh cầm cây đàn guy-ta lên và ngân nga suốt quãng đường băng qua tiền sảnh tới chỗ gã Weedon, kẻ bị buộc phải mở khóa và tháo chốt cánh cổng nặng nề.
“Đừng có trố mắt ra dòm như thế, hai trò kia,” Manfred quát. “Vô lớp mau.”
Charlie và Fidelio vâng lệnh mà không một lời hó hé.
Billy không xuất hiện trong trường. Không ai thấy nó cho tới chiều thứ Sáu, khi tất cả lũ trẻ ào ra ngoài để đón xe buýt trường. Charlie tình cờ ngó lên ngay lúc đang đi ngang qua cầu thang, và kìa, một thân hình bé nhỏ đang đứng trong bóng tối ở đầu kia của chiếu nghỉ. Charlie giơ tay lên chào, nhưng Billy chưa kịp đáp lại thì Manfred đã lùa Charlie đi qua cửa.
Khi Charlie về đến nhà thì bữa tiệc trà ngày thứ Sáu đang diễn ra. Nội Bone vằng mặt cho nên bầu không khí nhẹ nhàng hơn biết bao nhiêu so với tuần trước. Tuy nhiên, Charlie nhận thấy Ông cậu Paton hơi trầm ngâm giữa những muỗng đầy kem hương hồ trăn đưa lên miệng. Một hồi lâu sau, Ông cậu mới giải thích rằng ông đã gặp cô Alice Angel. Khi nghe kể về sự hy sinh dũng cảm của ông Crowquill, cô trở nên cực kỳ suy sụp. Cô đã đóng cửa tiệm, treo bảng bán nhà, và ngay cuối tuần này chuẩn bị rời khỏi thành phố này mãi mãi.
“Không thể được,” Charlie thốt lên, một muỗng kem dừng lại giữa chừng. “Cô ấy là người duy nhất biết cách cứu chúng ta.”
"Ta dám chắc là mày biết mày đang nói gì, nhưng bọn ta thì không,” Ông cậu Paton nói khô khốc.
Charlie đã cẩn thận suy tính là sẽ gạt tuần lễ kinh khủng này ra khỏi tâm trí trong khi thưởng thức bữa trà đặc biệt này, nhưng bây giờ, nó nhận thấy, rằng đáng ra nó phải nói cho rõ ý.
Khi ba người thân của Charlie nghe nói về việc Billy bị bắt, việc Tancred đào ngũ và căn phòng của bà bếp trưởng bị đảo lộn, thì họ đẩy chỗ còn lại của bữa tiệc ngon ra xa, và tuyên bố rằng cũng đã hết cả ngon miệng.
Ngoại Maisie hoàn toàn ủng hộ việc Charlie rời khỏi Học viện Bloor ngay tức khắc. Cô Amy cứ lẩm bà lẩm bẩm:
“Không, không, không. Thật quá đáng.”
Ông cậu Paton đứng dậy và bước vào bếp, đấm thùm thụp nắm tay trái vào lòng bàn tay phải. Đột nhiên, Ông cậu xoay ngoắt người lại và nói:
“Điều gì khiến mày nghĩ Alice Angel có thể giúp chúng ta?”
“Cô ấy biết về việc được ban phép thuật của một người,” Charlie nói. “Người mà có thể đảo ngược tình thế cho chúng ta.”
“A?” Ông cậu Paton hỏi vặn.
“Con nghĩ đó là Olivia, nhưng con không chắc,” Charlie trả lời.
“Thế thì tìm hiểu đi, nhóc,” Ông cậu Paton ra lệnh. “Ngay sáng sớm mai, không thì Alice sẽ biệt tăm. Kế hoạch của mày là gì?”
Charlie thú nhận là nó chưa có dự định nào hết.
“Hừm.”
Ông cậu Paton lại sàng tới sàng lui. Ông bắt đầu ra chỉ thị trong khi chân vẫn nhịp bước.
“Đây là những việc mày phải làm, Charlie. Sáng mai mày sẽ gặp Emma ở tiệm sách. Rồi hai đứa mày sẽ tới thăm bạn của Emma là Olivia, và thuyết phục nó đi cùng với tụi mày tới nhà Alice. Cô ấy ở cách nhà Vertigo chỉ chừng một tầm ném đá, ta thu thập thông tin rồi.”
“Thế còn Hạt Đậu thì sao?” Cô Amy nói. “Charlie vẫn phải dẫn nó đi dạo vào cuối tuần.”
“Chúng ta sẽ để thằng bé nhà Gunn làm việc đó,” Ông cậu Paton nói. “Ta sẽ gọi cho ông bà Gunn sau khi thu xếp xong mọi việc với Julia… à quên. Cô Ingledew. Mày đã rõ cả chứ, Charlie?”
Charlie gật đầu rồi ngáp:
“Ngày mai con sẽ tiến hành.”
“Con bướm!” Ngoại Maisie bỗng hét lên, đoạn đập mạnh vào vai Charlie.
“KHÔNG!” Cả Charlie và Ông cậu Paton cùng đồng thanh thét lớn.
“Lạy trời!” Tay ngoại Maisie rớt thõng xuống. “Nhắng cả lên vì một con bướm tí ti.”
“Nó là cây gậy phép của con,” Charlie lặng lẽ nói.
“Bà thiệt ngớ ngẩn. Đáng lẽ bà phải đoán ra mới phải,” ngoại Maisie nói, hơi bị mếch lòng. “Sao nó không giải quyết những rắc rối cho con, Charlie? Gậy phép là để làm những việc đó mà, đúng không?”
“Nó có giúp con đấy chứ,” Charlie nhẹ nhàng nâng con bướm khỏi vai. “Nhưng không được lộ liễu. Phải vậy thôi.”
“Xin lỗi vì bà đã hỏi vậy nhé,” ngoại Maisie nói cùng với một nụ cười.
Sáng thứ Bảy, Fidelio và con Hạt Đậu xuất hiện ở nhà số Chín.
“Em không nghĩ đây là kế hoạch của Ông cậu Paton,” Charlie nói khi Fidelio và Hạt Đậu xộc vào nhà bếp.
Ngoại Maisie mừng rỡ khi thấy anh bạn cũ – Hạt Đậu. Một bữa gồm những đồ ăn thừa nhanh chóng được dọn ra cho nó, trong khi Charlie và Fidelio xơi trứng luộc.
Ngoại Maisie xuống lầu ngay lúc bộ ba đang rời khỏi nhà.
“Không phải con chó đó chứ,” bà hét lên.
Hạt Đậu phóng tới hai mắt cá chân của nội Bone và một một cuộc xô xát ì xèo diễn ra trước khi Charlie có thể kéo được con chó to qua cửa trước.
Emma đang đợi Charlie ở tiệm sách, như vậy ít ra thì một phần của kế hoạch đã được thực hiện. Nhưng Fidelio và Hạt Đậu có nhận lệnh nhập bọn với chúng trên đường tới nhà Olivia hay không, Charlie không chắc.
“Tụi này sẽ yểm trợ,” Fidelio nói, trước khi Charlie kịp nói ra nỗi nghi ngờ của mình. “Và Hạt Đậu có thể đánh hơi bất kỳ con quái vật lông lá nào đang ẩn núp để theo dõi tụi mình.”
Khi ba đứa trẻ và một con chó tới nhà Olivia, cô Vertigo lộ vẻ lo lắng.
“Nhà cô chưa bao giờ cho một con vật to lớn như vầy vô,” cô nói.
“Nó không sao đâu, mẹ,” Olivia nói nhóng ra từ trên đầu cầu thang. “Cho nó vô đi mẹ.”
“Nếu con nói vậy, Liv,” cô Vertigo đứng dẹp qua một bên trong lúc bầu đoàn đi hàng một vào nhà và lên phòng của Olivia. Đó là một không gian chật ứ. Giường của Olivia, sàn nhà và ghế bị quần áo, giày, nón, chuỗi hạt và tóc giả đủ mọi màu sắc phủ kín.
“Tớ đã chịu đủ cái đống này rồi,” Olivia tuyên bố, “tớ sẽ dẹp hết chúng đi.”
“Không được,” Charlie nói, nhìn đống quần áo màu mè. “Bồ không… không phải là bồ nếu không có tất cả đồ… đồ…”
“Hóa trang?” Fidelio gợi ý.
“Tớ không muốn hóa trang nữa,” Olivia nói. “Tớ không phải là nữ diễn viên.”
“Bồ là diễn viên, đúng là diễn viên mà!” Emma khăng khăng.
Olivia nhún vai.
“Sao cũng được, nhưng tại sao mọi người lại đến đây?”
Bốn vị khách ngồi lên giường và Charlie giải thích tình hình ở Học viện Bloor, và tại sao chúng lại cần biết Olivia có được ban phép thuật hay không.
Olivia ngồi vào ghế và dửng dưng nghe Charlie nói. Chỉ tới khi mô tả tình cảnh tuyệt vọng của Billy Raven thì Charlie chú ý thấy mặt con bé có mềm đi một chút, và nó cảm thấy nhen nhúm một tia hy vọng.
“Bồ không thể tới thăm cô Alice Angel trước khi cô ấy đi khỏi thành phố được hay sao?” Charlie thúc giục. “Cô ấy đang suy sụp thực sự vì chú Crowquill. Tưởng tượng mà xem, cô ấy đã giúp chú ấy cầm cự qua khoảng thời gian kinh khủng khi ở trong tù, thế mà giờ chú ấy lại ra đi.”
“Gặp cô ấy thôi thì có thiệt hại gì đâu, Liv,” Emma nói.
Olivia nhăn mặt. Nó đứng dậy và nhìn ra cửa sổ:
“Tớ có thể leo tường,” nó nói.
Trước khi nó kịp có thời gian mà đổi ý thì mấy đứa kia đã dụ cho nó xuống lầu và ra vườn. Olivia và Charlie leo tường trong lúc Emma, Fidelio và con Hạt Đậu chờ trong vườn nhà Vertigo.
Charlie gõ cửa sau nhà cô Alice, nhưng không có tiếng trả lời. Nó ngó qua cửa sổ, tất cả các phòng ở dưới lầu dường như trống lốc. Olivia vòng ra trước nhà và kéo dây chuông. Không ai mở cửa. Nó chú ý thấy tấm biển “Nhà Bán” gắn gần cổng, bèn chạy trở lại chỗ Charlie.
“Cô ấy đi rồi!” Olivia kêu lớn. “Bây giờ mình chịu thua rồi.”
“Khoan đã, Liv, cô ấy chưa đi đâu,” Charlie đang nhìn săm soi vào một ô cửa sổ bên hông nhà.
“Mình thấy hai chiếc va li trong phòng khách. Và một cái áo mưa trên thành ghế.”
“Vậy là cô ấy đang ở đâu đó trong thành phố. Nhưng ở đâu?”
Bây giờ Olivia dường như lại ráo riết muốn tìm cô Alice Angel. Nó chạy trở lại bức tường,c ó Charlie bám gót theo sau, và cả hai leo tót qua tường bên kia.
“Sao?” Fidelio hỏi trong khi Hạt Đậu hăng hái sủa ầm lên.
“Không có trong đó,” Charlie nói.
“Tụi mình sẽ tìm cô ấy bằng cách nào đây?” Olivia đan hai bàn tay vào nhau vẻ sốt ruột.
“Cửa hàng đã đóng cửa nên cô ấy sẽ không ở đó,” Charlie nói.
“Tụi mình phải lùng hết thành phố này,” Fidelio nói.
“Quá rộng lớn,” Charlie phản đối. “Tụi mình chỉ có vài ngày để lùng sục và sẽ không bao giờ thấy cô ấy đâu.”
“Mình nghĩ mình có thể giúp được,” Emma nói nhỏ nhẹ. “Cô Alice Angel trông như thế nào?”
Cả bọn cùng trợn mắt nhìn Emma, và Olivia nói, “Tóc cô ấy trắng và gương mặt đẹp lắm,”
Charlie đưa ra lời suy đoán chính xác.
“Có lẽ cô ấy sẽ cầm theo hoa… hoa màu trắng.”
"Mình hình dung ra rồi,” Emma nói. “Bây giờ phiền tất cả mọi người vào nhè nhé? Bởi vì mình không thích làm cái điều mình sắp làm trước mặt mọi người.”
Rồi nó nhìn mấy ngón tay quấn băng.
“Mình nghĩ việc Joshua thuyết phục Tancred làm mấy ngón tay của mình bị thương là có chủ đích.”
“Để bồ không thể bay được chứ gì.” Olivia trông bộ lo lắng. “Đừng tự làm mình đau nhé, Emma. Nếu đau quá thì đừng… đừng bay nữa. Bồ có thể bị rớt xuống đó.”
Emma hươ tay xua lũ bạn đi chỗ khác.
“Sẽ xong thôi mà.”
Cả đám lũ lượt kéo vào nhà và đứng cạnh những ô cửa sổ kiểu Pháp, cố không nhìn ra vườn, nhưng nhận thấy mình không thể nào không thỉnh thoảng liếc ra một cái. Emma được bụi rậm che khuất và chỉ khi một chú chim nâu nhỏ bay lên cây táo thì chúng mới biết Emma đã lên đường. Charlie nhìn chú chim bay vút lên trời và nói:
“Nó kìa. Tìm ra cô Alice Angel thì chỉ có Emma Tolly thôi.”
Đầu cánh của Emma khiến nó khởi động rất khó khăn. Nó bay loạng choạng trên đường Filbert, nhưng cuối cùng cũng lấy lại được thăng bằng khi trôi lướt trong những đám mây ở trên đỉnh nhà thờ lớn. Lợi dụng những luồng gió ấm áp của mùa thu, con bé lượt qua thành phố, đôi mắt chim tinh tường xem xét từng chi tiết của những công dân bận rộn đang sải bước, đang đi thong thả hay đang chạy tất bật ở dưới đường. Thậm chí con bé con bay bên trên Học viện Bloor và tòa lâu đài đổ nát. Nó thấy Billy Raven đang đi dạo trong vườn với May Phúc kề sát gót, và nó muốn dừng lại để nói chuyện với thằng bé, nhưng thời gian rất quý giá.
Chú chim, Emma, vừa định bay ra khỏi tòa lâu đài hoang, thì nó thấy thứ mà khiến nó mất tập trung, và nó bắt đầu rơi về phía mặt đất.
Sâu trong lâu đài đổ nát, những vách tường cao, đầy dây leo quây quanh một mảnh sân gạch bí hiểm màu xanh lá cây. Giữa sân có một cái cây lá màu vàng đỏ. Có những âm thanh phát ra từ cái cây đó, thứ âm nhạc mà Emma chưa từng nghe bao giờ. Đáp xuống một bức tường, nó nhìn thấy một con ngựa trắng đang gặm cỏ dưới tán cây. Emma chắc chắn rằng cái cây và con ngựa thuộc về nhau, và rằng chúng là một phần của một thế giới khác hẳn với thề giới nó đang sống.
Con ngựa nhìn lên khi thấy chú chim.
“Con,” nó nói. “Con của ta.”
“Con bay đi đây,” Emma nói.
“May mắn sẽ bay cùng với con,” con ngựa nói.
Niềm hy vọng vâng trong lòng, đưa Emma vút lên bầu trời. Đôi cánh của nó không còn đau nữa, và nó cảm thấy hạnh phúc tràn trề. Với năng lượng vừa được thay mới, nó tiếp tục tìm kiếm khắp thành phố, cho tới khi nó đến công viên ở cuối đường Filbert. Bên dưới, một phụ nữ tóc bạch kim đang ngồi một mình trên băng ghế dài. Đầu cô gục xuống bó hoa trắng đặt trên đùi.
Emma kêu lên một tiếng lảnh lót và người phụ nữ nhìn lên. Cô rất đẹp nhưng buồn rười rượi. Emma chao một vòng rồi trở về khu vườn nhà Olivia. Ba đứa bạn của nó vẫn đang túm tụm bên cửa sổ khi nó chạy trên lối đi, đã trở lại thành một cô bé, và la lên:
“Mình tìm thấy cô ấy rồi. Cô ấy ở trong công viên.”
Bốn đứa trẻ và một con chó chạy đua ra công viên, băng vèo qua cánh cổng và bãi cỏ, tới băng ghế dài nơi cô Alice Angel đang ngồi một mình. Khi thấy Olivia, gương mặt buồn bã của cô Alice giãn ra một nụ cười.
“Olivia, cháu đến để chào tạm biệt sao?”
“Cháu đến để xin lỗi,” Olivia òa lên. “Cháu xin lỗi vì tất cả mọi chuyện, về việc cháu đã không tin, và về người bạn đã ra đi của cô.”
Cô Alice đưa bó hoa trắng lên mặt và hít hương hoa thơm.
“Cô muốn đặt bó hoa này lên mộ chú ấy, nhưng mà, chú ấy không có một. Christopher đáng thương.”
“Con xin lỗi, thực lòng xin lỗi,” Olivia khóc, gần như phát điên vì ăn năn hối hận.
“Cháu đã đến gặp cô. Thế không phải là quá trễ,” cô Alice đứng dậy. “Và cháu, Charlie, cháu đã đem bạn đến đây phải không?”
“Là tất cả tụi cháu,” Charlie nói. “Fidelio, bạn của cháu,” (Fidelio cúi đầu chào) “nhưng chủ yếu là nhờ Emma. Bạn ấy đã tìm được cô.”
“À!”
Cô Alice nhìn Emma với vè đã hiểu chuyện, rồi cô cẩn thận đặt bó hoa xuống ghế và quay sang Olivia:
“Vậy, cháu sẵn sàng chấp nhận điều cháu được kế thừa rồi chứ?”
“Cháu nghĩ là cháu đã sẵn sàng,” Olivia nói.
“Và cháu muốn ai sẽ nhìn thấy điều cháu có thể làm nào?” Cô Alice hỏi.
“Các bạn cháu, dĩ nhiên,” Olivia đáp.
“Không ai nữa sao?” Cô Alice nói một cách nghiêm trang. “Cháu có thể chọn người nào đó để cho họ thấy tài năng ẩn giấu của mình.”
“Thế ạ?”
Gương mặt hớn hở của Olivia bắt đầu trông có vẻ nghiêm trang. Con bé nhìn thấy một người đang đạp xe vèo vèo quanh lối dành cho xe đạp, hai thằng bé chơi đá bóng và một phụ nữ dẫn chó đi dạo.
“Ừm, ngay bây giờ cháu chỉ muốn các bạn và cô nhìn thấy… điều cháu có thể làm… à, và cả Hạt Đậu nữa, tất nhiên.”
“Tốt lắm! Hãy nghĩ đến một cái gì đó, bất cứ thứ gì. Hãy nghĩ thật, thật chăm chú. Hãy nhìn nó ở trong đầu, mọi góc cạnh của nó.”
“Khoan, khoan, cháu sẽ không biến thành thứ mà cháu nhìn thấy đấy chứ?” Olivia hỏi.
“Không,” cô Alice đáp.
“Thế thì được. Bắt đầu.”
Nhíu mày tập trung làm chân mày Olivia nhúm lại, và rồi ánh nhìn tinh nghịch quen thuộc nhá lên trong mắt nó. Mọi người đứng im re, kể cả Hạt Đậu, con chó dường như cũng hiểu được tầm quan trọng của tình huống. Sau một phút im lặng tuyệt đối, cô Alice nói:
“Giờ, Olivia, hãy nhìn ra sau.”
Olivia nhìn. Tất cả dõi theo ánh mắt của nó. Ngay giữa công viên xuất hiện đám mây khổng lồ, đen thui. Từ từ hình thù của đám mây dần loãng đi và rung rung.
“Không được,” cô Alice nói. “Cháu chưa có được nó hoàn toàn, Olivia. Thả lỏng nào! Cháu đang cố gắng quá đấy.”
Olivia mỉm cười và nhắm hờ mắt lại. Cái hình thù rung rung kia dần đặc lại thành một thứ giống như thật, giống đến phát sợ.
Fidelio ré lên trước tiên, rồi tới Hạt Đậu tru lên một tiếng khiếp vía. Miệng Charlie há hốc nhưng nó quá sợ để mà thốt lên được âm thanh nào. Nó biết thứ đó đang thấy đấy không phải là thật, nhưng trông y hệt như thật, ngửi như mùi thật, và nghe như thật. Một con khùng long khổng lồ - Khủng Long Bạo Chúa, căn cứ theo vẻ ngoài của con vật – chỉ đứng cách chúng có vài bước. Cái miệng mệnh mông của nó há banh ra, hơi thở kinh khủng và tiếng rống nghe sôi máu của nó là thứ âm thanh vốn chỉ nghe thấy trong ác mộng.
Vẫn còn tru thống thiết, con Hạt Đậu bỏ chạy trước tiên. Nó lao bắn qua cổng công viên, với ba đứa nhóc gào và thét kinh hồn đằng sau. Khi người chạy xe đạp trông thấy bọn chúng, ông kêu to, “Cái gì…?” và ngã oạch khỏi xe.
Hai thằng bé lượm trái bóng lên và vừa chạy ra chỗ có bóng cây vừa hét, “Bộ có ma hả?”
Con chó nhỏ vội nhảy tọt vô thùng rác và chủ nhân của nó kêu ầm lên rằng thế giới đã điên loạn mất rồi.
“Các cháu, dừng lại!” Cô Alice gọi. “Nó không làm hại các cháu đâu.”
Từ một khoảng cách an toàn, chúng ngoảnh lại và nhìn sinh vật gớm guốc đó. Từng chập cười ngặt nghẽo vang dội khắp công viên khi thân mình Olivia bập tới bập lui, không sao ngừng lại được. Cô Alice quàng tay qua vai nó và nói khẽ.
Olivia gật đầu. Con bé nín cười và ngó kỹ ra sau. Đằng sau nó, hình ảnh kinh khủng đã mất đi hình thù. Từ từ, nó tan thành một mảng những hạt nhỏ li ti bay lơ lửng trên trời, tựa như một cơn mưa lá khô.
Olivia vỗ tay và nhún nhảy một điệu vũ. Trước khi đám bạn nó hoàn hồn sua ảo ảnh thứ nhất thì một ảo giác khác đã hiện ra. Một bữa tiệc thịnh soạn, được bày trên những chiếc dĩa bạc lấp lánh, xếp ê hề trên một chiếc bàn dài. Và có những nhân vật của truyện tranh ngồi quanh một ấm trà.
Tiếp theo là một cầu vồng vắt cong qua công viên, và khi cầu vồng tan đi, một hiệp sĩ mặc áo giáp sáng loáng cưỡi một con ngựa chiến khổng lồ, đen nhẫy phi nước đại qua bãi cỏ, với lông vũ cắm trên dây cương và áo chùng đỏ rực thêu chỉ vàng. Charlie nghe thấy tiếng vó ngựa rầm rập, tiếng kẽo kẹt của da thuộc và tiếng gõ của đinh thúc ngựa.
Olivia nhảy múa quanh cô Alice, đầu ngửa ra sau và tay dang rộng:
“Xem tớ có thể làm được gì này,” con bé la to. “Xem đây! Xem đây! Xem đây!”
“Rất ấn tượng,” Fidelio thì thào với Charlie, “Anh không biết nó làm thế nào, nhưng anh mệt lử rồi.”
Hạt Đậu nằm phịch xuống đất, rên một tiếng và giơ một bàn chân to bự lên che mắt.
Cô Alice nói thêm gì đó với Olivia, và khi hiệp sĩ và con ngựa biến khỏi thì không có gì thế tiếp vào nữa. Olivia thả mình xuống bãi cỏ, thở dốc.
“Phù! Cháu hơi thái quá, đúng không?”
Cô Alice mỉm cười trìu mến với con bé. Mấy đứa kia tiến lại gần, hơi cảnh giác, nhưng Hạt Đậu vẫn nằm nguyên chỗ cũ, mắt nó vẫn bị bàn chân bịt lại.
Khi cả bọn đã yên vị trên băng ghế, và cố lắc mình trở về lại thực tế, Olivia hỏi cô Alice tại soa nó phải mất thời gian lâu như thế mới khám phá ra nó có thể làm được những gì.
“Và làm thế nào mà cô biết được điều đó? Và tại sao lại có vụ vỏ táo?”
Cô Alice nhìn bó hoa trong lòng.
“Thiệt khó mà diễn tả bằng lời,” cô nói. “Cô luôn biết rằng một ngày kia sẽ có người cần đến sự giúp đỡ của cô để tự khám phá ra mình. Đó là một phép thuật kỳ lạ, hiểu thế cũng được,” cô nhìn Charlie, đang ngồi cạnh con bé.
“Tất cả phép thuật đều kỳ lạ,” Charlie nói.
Cô Alice mỉm cười với nó, vẻ biết ơn.
“Đúng vậy. Nói ngắn gọn, cô được mời trang hoàng căn phòng làm lễ rửa tội cho một em bé,” cô liếc nhìn Olivia. “Mẹ của đứa trẻ hài lòng với những bông hoa cô trang trí đến nỗi cô ấy mời cô cùng dự tiệc. Cô không hề biết đó sẽ là một trong những ngày quan trọng nhất cuộc đời cô. Họ ẵm em bé vô phòng và mọi người xúm lại quanh bé – nựng nịu, nói ríu rít và gọi tên của cháu, Olivia ạ.”
“Hồi nhỏ cháu có dễ thương không cô?” Olivia hỏi.
“Nói thiệt tình thì, cháu là một đứa trẻ hơi mập, nhưng,” cô nghiêm nghị nhìn Fidelio và Charlie khi hai đứa không nén được cười khúc khích, “ngay khi nhìn thấy cháu, Olivia, tim cô như lỡ mất một nhịp. Cô tự hỏi có chuyện gì xảy ra với mình vậy. Sau đó, họ đặt cháu vô một cái cũi trắng xinh xắn, và khi cô cúi xuống nhìn cháu, cô biết ngay rằng cháu rất đặc biệt. Cô cũng biết là phải mất mười hai năm dài cháu mới chấp nhận phép thuật được thừa hưởng của mình.”
“Làm sao cô biết được điều đó?” Olivia háo hức hỏi.
“Điều này nghe có vẻ kỳ lạ,” cô Alice nói.
“Cô cứ nói đi, tụi cháu tin mà,” Charlie nói. “Tất cả mọi thứ đều kỳ lạ.”
“À, có một cây táo ở cuối vườn nhà cô. Nó là cây táo của cô vì nó mọc ở đó, nhưng nó cũng là của nhà cháu, Olivia, bởi vì một cành cây rũ xuống vườn nhà cháu. Vào ngày hôm đó, có mười ba trái táo ở trên cái cành cây ấy và… và…”
Cô Alice ngừng lại và rồi, bằng giọng nói nhỏ đến nỗi lũ trẻ phải ghé sát vào, cô tiếp:
"Một tiếng nói trong đầu cô bảo rằng: ‘Vào năm thứ mười ba của cây tào này, cô bé sẽ chấp nhận một cách trân trọng phép thuật được thừa hưởng.’”
“Ôi!” Olivia kêu lên, như thể có một ý nghĩ thình lình lóe lên vậy. “Cháu mười hai tuổi vào đầu học kỳ này. Vậy mà cháu nghĩ cháu đang ở tuổi mười ba. Và những quả táo… chúng sẽ không gọt được vỏ cho tới khi nào cháu tin, cho tới khi nào cháu chấp nhận.”
“Đầu đuôi câu chuyện là như vậy đó,” cô Alice nói. “Cô hy vọng cháu sẽ vui,Olivia.”
“Dạ, tất nhiên rồi. Nhưng cháu cảm thấy hơi kỳ cục, bởi vì cháu chưa bao giờ là một người trong đám bọn họ.” Nó cười toét với Charlie, vẻ hối lỗi. “Và bây giờ cháu không biết mình sẽ làm gì với tài phép quái lạ này.”
“Cô chắc chắn các bạn cháu sẽ giúp cháu,” cô Alice nhìn Charlie.
Fidelio, nãy giờ đã mất đi nụ cười thường lệ của mình, chợt hỏi:
“Cô là phù thủy phải không, cô Angel?”
Cô Alice bật cười:
“Cô nghĩ mình là phù thủy. Nhưng là một phù thủy trắng.” Cô dừng lại và nghiêm nghị, thêm:
“Các cháu à, cô không muốn làm các cháu hoảng sợ, nhưng cô cần phải cảnh báo các cháu rằng: nơi nào có phù thủy trắng, thì luôn luôn có một phủ thủy khác, có bản chất đen tối.”
“Là ai vậy ạ?” Charlie hỏi.
“Cô e là cô không biết,” cô Alice đứng dậy. “Và bây giờ cô phải đi đây,” rồi nó bằng giọng công việc. “Cô phải đón xe lửa.”
“Cô đi thật à?” Olivia kêu lên.
“Cô đã hoàn thành sứ mệnh của mình – ít nhất là một trong những sứ mệnh đó,” cô Alice thở một hơi đầy mãn nguyện. “Bây giờ cháu chỉ có một mình thôi, Olivia. Nhưng cô chắc chắn là cháu sẽ giải quyết tốt mọi chuyện.”
Olivia chồm tới và ôm chặt lấy cô Alice.
“Cảm ơn cô,” nó nói. “Cảm ơn cô vì đã là thiên thần hộ mệnh của cháu.”
“Việc đó luôn khiến cô hạnh phúc,” cô Alice nói.
Emma hỏi:
"Trước khi đi, cô có thể nói cho tụi cháu biết… liệu mụ phù thủy xấu xa kia có bám theo cô không?”
Cô Alice khẽ nhún vai:
“Cô không có cách gì để biết được điều đó. Tạm biệt, các cháu yêu, tạm biệt.”
Lũ trẻ nhìn cô Alice Angel bước đi khỏi và biến mất qua cổng công viên. Cô không nhìn lại, và sự biến mất của cô là như thế này: tan biến vào màn không khí mỏng, như thể cô chưa hề ở đó bao giờ, nhưng những bông hoa vẫn nằm ở cỗ mà cô đã để chúng.
“Tớ sẽ tặng cho mẹ,” Olivia nói. “Mẹ tớ thích hoa trắng lắm.”
Những ý nghĩ của Charlie đã quay về những vấn để ở Học viện Bloor và nó đang bắt đầu vạch kế hoạch cho Olivia.
“Mình nghĩ tụi mình nên giữ bí mật về phép thuật của bồ,” nó nói với con bé. “Mọi người đồng ý chứ?”
“Một vũ khí bí mật!” Fidelio nói.
“Ý bồ là không ai được biết, ngoại trừ tụi mình?” Emma hỏi.
“Không ai cả,” Charlie nói.
“Càng tiện,” Olivia nói. “Nhưng tớ sẽ giúp như thế nào?”
“Dạo gần đây bồ có vô phòng Nhà Vua không?” Charlie hỏi.
“Vô hoài, khi tớ bị cấm túc,” Olivia đáp.
“Tốt. Việc đầu tiên tụi mình phải làm là khiến cho Joshua Tilpin trông đáng ghét… thật đáng ghét,” Charlie nói tiếp, khoái chí với hình ảnh mà nó đang hình dung ra, “đến nỗi Tancred sẽ bị nó đẩy ra xa. Thực ra, cũng sẽ là ý hay nếu tất cả bọn có phép thuật đều bị nó xua đuổi.”
“Anh có ý này,” Fidelio nói. “Tụi mình ai cũng biết Tancred sợ gì.”
“Nhện,” Emma nói.
“Nhện,” Charlie đồng ý. “Điều thứ hai là dọa cho lão Ezekiel Bloor sợ chết khiếp. Mình sẽ suy nghĩ kỹ việc này sau.”
“Ô, tốt!” Fidelio reo lên, tay đấm vào không khí. “Vụ này hay đấy. Sẽ rất hay, rất hay.”